Thánh Thomas Aquinas là một tu sĩ giản dị, chấp nhận rời gia đình giàu có, quyền quý của mình để gia nhập dòng tu Dominican vào thế kỷ XIII. Người đàn ông trầm lặng này đã vươn lên cao trong lĩnh vực triết học và thần học đến mức tên tuổi của ông sẽ không bao giờ bị lãng quên. Ảnh hưởng của Aquinas lớn đến mức ông đã thay đổi hoàn toàn lối tư duy triết học, mở đường cho các triết gia hiện đại trong thời kỳ khai sáng. Triết lý của ông cũng ảnh hưởng đến khoa học tự nhiên, bao gồm cả y học. Bên cạnh đó, tầm ảnh hưởng này còn được cảm nhận trong giáo hội Công giáo La Mã, vì tác phẩm mang tên “Tổng Luận Thần Học” của ông vẫn là nền tảng cho hầu hết các nghiên cứu tại chủng viện - nó giúp định hình suy nghĩ của các linh mục tương lai khác, những người đã và sẽ ảnh hưởng đến thế giới khoa học.
Thánh Thomas Aquinas sinh vào khoảng giữa năm 1224 tại Roccasecca-Ý. Gia đình ông thuộc một dòng tộc bá tước lâu đời, sở hữu một toà lâu đài trong hơn một thế kỷ. Ở những năm đầu đời, Aquinas sống và học tập tại tu viện Benedictine ở Monte Cassino, do chính Thánh Benedict thành Nursia thành lập vào thế kỷ thứ VI. Tiếp đến, ông theo học tại đại học Naples và bắt đầu nghiên cứu thần học tại ngôi trường này vào mùa thu năm 1239. Chính trong quá trình đó, Aquinas đã được khuyến khích gia nhập một dòng tu mới. Nơi đây được gọi là dòng Dominican - theo tên của người sáng lập ra nó là Thánh Dominic của Guzman (1170 -1221).
Nhận thấy tài năng của ông từ rất sớm, nhà dòng đã gửi Aquinas đến học tại đại học Paris trong ba năm. Ở tuổi 32, ông đã được giảng dạy tại ngôi trường này với tư cách là thạc sĩ thần học. Sau đó, dòng Dominican đã chuyển Aquinas quay trở lại Ý - nơi ông giảng dạy ở Naples, Orvietto và Rome (từ năm 1259 đến năm 1268). Chính trong thời gian này, ông bắt đầu viết cuốn Tổng Luận Thần Học của mình. Khi soạn luận thuyết về các bí tích cho cuốn sách này vào tháng 12 năm 1273, Aquinas được kêu gọi làm cố vấn thần học tại công đồng thứ hai của Lyon. Tuy nhiên, ông đã qua đời tại Fossanova-Ý, vào ngày 7 tháng 3 năm 1274, khi đang trên đường đến công đồng.
Được phong Thánh năm 1323, Thánh Thomas Aquinas sau đó được Đức Giáo Hoàng Pio V tôn phong là tiến sĩ giáo hội vào năm 1567. Thông qua những bài viết dày dặn, sâu sắc và có lập luận chặt chẽ. Cho đến ngày nay, vị Thánh này vẫn tiếp tục thu hút nhiều môn đệ trí thức, không chỉ trong số những người Công giáo, mà cả những người theo đạo Tin lành, cũng như những người không theo Thiên Chúa giáo.
Nicolaus Copernicus sinh ngày 19 tháng 2 năm 1473. Ông là một nhà thông thái thời phục hưng, hoạt động với tư cách là nhà toán học, nhà thiên văn học và là giáo sĩ Công giáo. Có một số nghi ngờ về việc liệu cuối cùng Nicolaus có trở thành linh mục hay không, vì người ta chỉ có bằng chứng cho thấy rằng ông đã nhận các chức vụ nhỏ (như tư tế). Nhưng danh tiếng của ông và khả năng cuối cùng ông đã được thụ phong - khiến Nicolaus trở thành một trong những người đứng trong danh sách này.
Vào những năm 1500, Nicolaus Copernicus là người đầu tiên đưa ra ý tưởng rằng trái đất không phải là trung tâm của vũ trụ mà đúng hơn là nó cùng với các thiên thể khác quay quanh mặt trời. Mặc dù mô hình của Nicolaus không hoàn toàn chính xác, nhưng đã tạo nền tảng vững chắc cho các nhà khoa học tương lai; chẳng hạn như Galileo - người xây dựng và nâng cao hiểu biết của nhân loại về chuyển động của các thiên thể. Ông đã châm ngòi cho cuộc cách mạng Copernicus “đề cập đến sự chuyển đổi Ptolemaic về bầu trời, vốn xem trái đất ở trung tâm thiên hà, hướng tới mô hình nhật tâm với mặt trời ở trung tâm hệ mặt trời của chúng ta”. Đó là một trong những điểm khởi đầu của cuộc cách mạng khoa học thế kỷ XVI.
Vì cha của Nicolaus đã qua đời khi ông còn là một đứa trẻ. Thế nên, chú của ông đã trở thành người thay thế vị trí người cha trong cuộc đời ông. Người chú này mong muốn Nicolaus trở thành một giáo sĩ trong giáo hội Công giáo. Tuy nhiên, khi đến thăm một số học viện, ông lại dành thời gian để nghiên cứu toán học và thiên văn học nhiều hơn. Khi theo học tại đại học Bologna, Nicolaus đã sống và làm việc với giáo sư thiên văn học Domenico Maria de Novara - người cùng ông nghiên cứu, cũng như giúp ông quan sát bầu trời. Dù vậy, do ảnh hưởng bởi chú mình, Nicolaus đã trở thành giáo sĩ ở Warmia, miền bắc Ba Lan. Tuy nhiên, ông vẫn chưa thể trở thành linh mục.
Nhà thiên văn học Nicolaus Copernicus qua đời ngày 24 tháng 5 năm 1543 vì một cơn đột quỵ, ông ra đi ở tuổi 70. Vào năm 2010, hài cốt của ông đã được một số giáo sĩ Công giáo cấp cao tại Ba Lan làm phép bằng nước Thánh trước khi cải táng. Ngôi mộ được đánh dấu bởi một tấm bia bằng đá Granit đen, trang trí mô hình hệ mặt trời. Đây được xem là biểu tượng cho sự đóng góp khoa học, cùng sự phục vụ của Nicolaus Copernicus với tư cách là giáo sĩ của nhà thờ.
6. Giáo hoàng Urban II
Giáo hoàng Urban II sinh ra vào khoảng năm 1035. Ông là người đứng đầu giáo hội Công giáo và là người cai trị các lãnh thổ giáo hoàng từ năm năm 1088 cho đến khi qua đời. Urban II cũng là người đã phát động cuộc thập tự chinh nhằm giành quyền kiểm soát Thánh địa từ tay Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là cuộc thập tự chinh đầu tiên trong bảy cuộc thập tự chinh có ảnh hưởng đến lịch sử thời trung cổ. Ngày nay, người ta vẫn có thể cảm nhận được dự ảnh hưởng của nó trong tình trạng bất ổn đang diễn ra tại Trung Đông. Ngoài ra, giáo hoàng Urban II còn cải tổ ban lãnh đạo của giáo hội Công giáo bằng cách thiết lập nó theo mô hình triều đình. Cấu trúc này vẫn tồn tại cho đến bây giờ và tiếp tục ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày của nhiều người Công giáo, cũng như vị trí của giáo hội trong nền chính trị quốc tế. Tác động của ông đối với thế giới được coi là đủ quan trọng; do đó ông đã được giáo hoàng Leo XIII tuyên bố là “Chân Phước” (hay còn gọi là Á Thánh) vào năm 1881.
Urban II là một nhà chiến thuật tài giỏi, ông muốn đặt ngôi vị giáo hoàng vào trung tâm của thế giới Kito giáo thống nhất, đang bị bao vây bởi sự chia rẽ. Hai nửa phía Đông và phía Tây của giáo hội bị chia cắt, các hiệp sĩ đang chĩa kiếm chống lại nhau, thay vì chống lại kẻ thù chung. Bằng cách hướng sự thù địch vào nơi khác, với mục tiêu đánh chiếm lại Jerusalem và Đất Thánh khỏi sự kiểm soát của người Hồi giáo. Giáo hoàng Urban II đã sử dụng quyền lực tạm thời, kiểm soát quân đội Châu Âu để tiếp tục kế hoạch của mình vì một sự thống nhất. Đồng thời, ông tiến hành chiến dịch cải cách nội bộ nhằm làm cho giáo hội trở nên thiêng liêng hơn, đồng thời cải thiện các tiêu chuẩn về hành vi giáo sĩ. Urban II đã thành công trong việc nâng cao quyền lực giáo hoàng và thống nhất Châu Âu sau cuộc thập tự chinh của mình. Tuy nhiên, trong một thời gian dài hơn, những cuộc xung đột tôn vinh lý tưởng thập tự chinh đã làm tổn hại đến tuyên bố của Cơ Đốc giáo là tôn giáo hòa bình. Vì vậy, nó gây bất hoà vĩnh viễn cho mối quan hệ giữa Công giáo và Hồi giáo; không đặt nền tảng lâu dài để có thể xây dựng một Châu Âu thống nhất hơn. Khi các cuộc Thập Tự Chinh kết thúc trong thất bại, chiến tranh trên quê hương lại trở thành mối bận tâm của các hiệp sĩ.
Người ta vẫn còn tranh cãi về động cơ của giáo hoàng Urban II, nó được chứng minh bằng các bài phát biểu khác nhau được ghi lại. Một số nhà sử học tin rằng ông mong muốn sự thống nhất giữa các nhà thờ phía đông cùng phía tây, do một sự rạn nứt của cuộc Đại Ly Giáo năm 1054 gây ra. Những người khác lại cho rằng giáo hoàng Urban II coi đây là cơ hội để đạt được tính hợp pháp với tư cách là giáo hoàng; vì vào thời điểm đó ông đang cạnh tranh với giáo hoàng Clement III. Giả thuyết thứ ba thì cho rằng Urban II cảm thấy bị đe dọa bởi các cuộc xâm lược của người Hồi giáo vào Châu Âu. Thế nên, ông xem các cuộc Thập Tự Chinh là một cách để đoàn kết thế giới Cơ Đốc giáo thành một lực lượng phòng thủ thống nhất chống lại họ.
Trước khi tin tức về sự kiện Jerusalem thất thủ vào tay quân Thập Tự Chinh đến được Ý (29 tháng 7 năm 1099), thì giáo hoàng Urban II đã qua đời. Vì vậy, ông không thể biết được thông tin trước lúc ra đi. Người kế vị ông là giáo hoàng Paschal II, đã thành lập giáo triều La Mã thời hiện đại theo cách của một tòa án hoàng gia để giúp điều hành giáo hội.
7. Thánh Albertus Magnus
Thánh Albertus Magnus được sinh ra vào khoảng năm 1200, tại thị trấn Lauingen của Bavaria. Ông là một tu sĩ, triết gia, nhà khoa học, giám mục; và đồng thời còn được mệnh danh là một trong 33 “tiến sĩ” của giáo hội Công giáo. Albertus đã viết các tác phẩm chuyên sâu về các chủ đề khác nhau như: logic, thần học, thực vật học, địa lý, thiên văn học, chiêm tinh học, khoáng vật học, hóa học, siêu hình học, khí tượng học, động vật học, sinh lý học, não tướng học và hơn thế nữa. Ông đã tạo ra các bản đồ cùng biểu đồ, thí nghiệm với thực vật, nghiên cứu các phản ứng hóa học, thiết kế các công cụ định hướng và nghiên cứu chi tiết về các loài chim cùng động vật. Vì vậy, Thánh Albertus Magnus được xem là một trong những triết gia và nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời trung cổ.
Năm 1223, ông gia nhập dòng truyền giáo Dominican và được gửi đến tu viện ở Cologne - nơi là quê hương của ông trong suốt sự nghiệp học thuật, viết văn, du lịch, cùng giảng dạy lâu dài. Khi còn là sinh viên tại đại học Paris, sau đó là giáo sư, Albertus đã tìm ra “cách học mới” dựa trên triết học, khoa học Hy Lạp và Ả Rập, làm dấy lên những tranh cãi chưa từng có ở các trung tâm học tập của Đức. Ông thực hiện một số dự án viết lách cho thấy mối quan hệ của những tác phẩm cổ xưa này với việc giảng dạy Cơ Đốc giáo.
Albertus đã phục vụ bốn năm với tư cách là giám tỉnh của các tu sĩ dòng Dominican nói tiếng Đức, bao gồm các chuyến viếng thăm hơn 56 tu viện; trong đó có một cơ sở truyền giáo xa xôi đến tận Riga (nay là thủ đô của Latvia). Ông luôn đi bộ, và thường dừng lại để nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên, dành nhiều giờ trong thư viện của những nơi mà ông đến thăm, sao chép bất kỳ cuốn sách nào mới mẻ đối với bản thân. Khi danh tiếng của Albertus ngày càng vang xa, ông được kêu gọi hòa giải các tranh chấp thần học, tạo ra chương trình giảng dạy mới, tiến hành các hội nghị, bảo vệ việc học tập khoa học. Kỹ năng làm trọng tài và hòa giải của ông đã giúp giáo hoàng đảm nhận một số nhiệm vụ trong giáo hội cùng ngoại giao. Albertus được bổ nhiệm làm giám mục của Regensburg vào năm 1260 cho một giáo phận đang gặp khủng hoảng về tinh thần lẫn tài chính. Sau ba năm cải cách và khuyến khích, ông xin miễn nhiệm để quay lại với việc giảng dạy.
Bên cạnh việc bình luận về các tác phẩm khoa học cùng triết học của các nhà tư tưởng cổ điển, Albertus còn viết nhiều bài bình luận kinh Thánh và các tác phẩm thần học khác. Sự hiểu biết của ông về các văn bản triết học đa dạng đã cho phép ông xây dựng cuốn sách Tổng Luận Thần Học của mình. Đây là tiền đề rằng đức tin và lý trí là những nguồn kiến thức tương thích nhau, đã tạo cảm hứng cho tác phẩm chính của người học trò nổi tiếng nhất của Albertus, đồng thời cũng là người anh em thuộc dòng Dominican với ông - Thánh Thomas Aquinas.
Albertus Magnus qua đời vào ngày 15 tháng 11 năm 1280, được chôn cất tại Cologne. Năm 1931, ông được phong Thánh và tiến sĩ giáo hội. Tiếp theo, vào năm 1941, ông trở thành Thánh bảo trợ của khoa học tự nhiên. Sự vĩ đại của Albertus không chỉ nằm ở lòng trung thành của ông với tầm nhìn Kito giáo, mà còn nằm ở sự xuất sắc trong công việc học thuật cũng như ở bề rộng trí tuệ.
8. Gregor Mendel
Gregor Mendel là một giáo viên, tu sĩ và nhà khoa học. Ông sinh năm 1822 tại ngôi làng nhỏ Heinzendorf bei Odrau, nay là Hyncice ở Cộng Hoà Séc. Công việc của vị linh mục này trong lĩnh vực di truyền học đã có tác động to lớn đến thế giới. Nhưng có lẽ đúng khi nói rằng nó vẫn chưa được thực hiện đầy đủ. Tuy nhiên, sự đóng góp của ông đối với khoa học rất quan trọng. Bởi vì Mendel là người đầu tiên đặt nền tảng toán học cho khoa học về di truyền học, trong cái được gọi là “chủ nghĩa Mendel”.
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình có hoàn cảnh khó khăn ở vùng nông thôn Silesia. Khả năng học tập của ông được công nhận bởi một linh mục địa phương - người đã thuyết phục cha mẹ gửi ông đi học ở tuổi 11. Việc học tại Gymnasium (trường ngữ pháp) của Mendel hoàn thành vào năm 1840. Sau đó, ông tham gia chương trình học hai năm tại Viện Triết Học của đại học Olmutz, thuộc Cộng Hoà Séc - nơi ông xuất sắc trong môn vật lý và toán học. Sau khi học xong đại học, Mendel gia nhập tu viện Thánh Thomas Augustine. Nơi đây còn là trung tâm văn hóa, trí tuệ; vì vậy ông được tiếp xúc với rất nhiều giáo lý cùng ý tưởng mới mà mình yêu thích.
Năm 1850, Mendel được gửi đến đại học Vienna trong hai năm để theo học một chương trình giảng dạy khoa học mới. Ông bắt đầu dành thời gian này cho vật lý và toán học, làm việc dưới sự hướng dẫn của nhà vật lý người Áo - Christian Doppler và nhà vật lý toán học - Andreas von Ettinghausen. Mendel cũng nghiên cứu giải phẫu cùng sinh lý học của thực vật, cũng như việc sử dụng kính hiển vi dưới sự hướng dẫn của nhà thực vật học Franz Unger - một người đam mê lý thuyết tế bào.
Vào mùa hè năm 1853, ông trở lại tu viện. Và vào năm sau đó, ông lại được giao vị trí giảng dạy tại. Mendel đã ở lại đây cho đến khi được bầu làm linh mục chánh xứ vào 14 năm sau. Công việc khoa học của ông lúc bấy giờ phần lớn cũng đã kết thúc, do trách nhiệm với công việc tại tu viện quá lớn.
Nhà khoa học Gregor Mendel qua đời vào ngày 6 tháng 1 năm 1884, ở tuổi 61, do bệnh viêm thận mãn tính. Sau khi ông qua đời, linh mục kế vị đã đốt tất cả giấy tờ trong bộ sưu tập của Mendel để đánh dấu sự chấm dứt các tranh chấp về thuế với chính phủ. Việc khai quật thi thể ông vào năm 2021 đã tiết lộ một số chi tiết về ngoại hình như chiều cao cơ thể . Bộ gen của Mendel đã được phân tích và tiết lộ rằng ông là người dễ mắc các vấn đề về tim.