1. Đội ngũ đông đảo nhất
Là chiến dịch lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương, lực lượng hai bên ta và địch đều đa dạng. Tuy nhiên, đội ngũ đông đảo nhất trong trận đánh này chính là... đội ngũ dân công vận tải của quân ta, với số lượng lên đến 260.000 người. Nổi bật trong đó là đội quân 20.000 xe đạp thồ, mỗi chiếc có khả năng chở hàng hóa khoảng 200 - 300 kg, lập kỷ lục với trọng tải lên đến 325 kg. Suốt 56 ngày đêm của chiến dịch, đội ngũ dân công vận tải đã vận chuyển tổng cộng 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62 tấn đường, 577 tấn thịt, 565 tấn lương khô ra chiến trường, sau khi trừ đi tiêu hao dọc đường.
Lực lượng bộ đội tham gia đạt đến con số 55.000 người, thuộc 4/6 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công binh - pháo binh và các đơn vị hỗ trợ chiến, phối thuộc khác. Số lượng vũ khí từ các loại pháo, súng cối, pháo cao xạ, ĐKZ, súng máy phòng không lên tới gần 300 khẩu, mức cao nhất từ trước đến nay.
Có 262.000 dân công và thanh niên xung phong từ Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4 và địa phương Tây Bắc tham gia xây dựng đường đi, vận chuyển lương thực thực phẩm, đạn dược, trang bị, chăm sóc thương bệnh binh... phục vụ chiến dịch.
Với 628 xe ô tô vận tải, 21.000 xe đạp thồ, khoảng 20.000 phương tiện vận chuyển khác như ngựa thồ, bè mảng, thuyền, gánh bộ, các lực lượng đảm bảo hậu cần chiến dịch đã mang tới Điện Biên Phủ 25.500 tấn lương thực, hàng nghìn tấn thực phẩm thịt, rau; hàng nghìn tấn vũ khí, đạn dược, trang bị, thuốc men để đảm bảo cho bộ đội chiến đấu suốt thời gian dài.

2. Nhận hàm tướng... bên trong tù
Vào ngày 15/4/1954, để nâng cao tinh thần của binh sĩ, Pháp đã thăng quân hàm Chuẩn tướng sớm cho Đại tá Christian de Castries (Đờ Cát). Sau đó, Chuẩn tướng cùng một bức thư màu hồng từ vợ và một số quà như rượu, bánh kẹo đã được thả dù xuống... chiến trường của quân ta. Khi Đờ Cát đầu hàng và trở thành tù binh, ông đã được trao số hàng trên. Trong thời gian làm tù binh cho Việt Nam, ông từng trải qua cảm giác làm tù binh tại Đức năm 1940 nhưng sau đó đã vượt ngục vào năm 1941.
Trong quá trình thảo luận, tướng Đờ Cát đã đề xuất có cơ hội phát biểu vài ý kiến về Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông nói: “Tướng Giáp là một người thông minh, dũng cảm, một chỉ huy giỏi của chiến thuật du kích. Ông ấy cũng xuất sắc trong chính trị, đặc biệt là về chủ nghĩa cộng sản. Chúng tôi đã thấy rõ điều đó. Qua trận chiến Điện Biên Phủ, tôi nhận thức được rằng Tướng Giáp không chỉ là một chỉ huy tài ba trong chiến thuật du kích, mà còn giỏi trong chỉ huy trận đánh trên chiến trường, chỉ huy chiến thuật đồng bộ binh chủng, và đặc biệt là trong nghệ thuật lừa dối tình báo đối phương.”.

3. Thiết bị phản pháo thất bại... khúc gỗ
Chuyện kéo pháo trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đã trở thành một câu chuyện truyền thống, ghi sâu trong tâm hồn mỗi người dân Việt, thậm chí là trong thơ ca và sách lịch sử. Nhưng ít người biết rằng, để đối phó với các thiết bị phản pháo hiện đại của Pháp thời đó, quân ta đã áp dụng một biện pháp cực kỳ... thô sơ. Các chỉ huy pháo binh đã tạo ra nghi binh bằng cách sử dụng gỗ thô, làm thành khẩu pháo giả, đặt nòng lên trên và khi pháo thật phát hỏa, chiến sĩ nghi binh từ bên trong công sự ném bộc phá, đẩy lên không trung, khiến 80% bom đạn từ thiết bị phản pháo của Pháp đều tập trung vào đánh vào khẩu pháo giả, từ đó bảo vệ được những khẩu pháo quý giá của ta. Trong suốt chiến dịch, quân ta chỉ mất một khẩu pháo 105 ly.
Đối mặt với sức mạnh, vũ khí và trang bị kém hơn của địch, bộ đội ta thường lựa chọn chiến thuật đánh du kích, tìm điểm yếu của địch và tránh những điểm mạnh. Tuy nhiên, ở Điện Biên Phủ, chúng ta đã quyết định đánh vào nơi mà địch mạnh nhất và đạt được chiến thắng. Trước đó, chúng ta chỉ có thể tiêu diệt một cứ điểm do một tiểu đoàn địch giữ, nhưng tại Điện Biên Phủ, quân ta đã đánh vào một tập đoàn cứ điểm với 49 địa điểm liên tiếp, cao điểm có tới 17 tiểu đoàn địch bám đặt. Điều này chứng tỏ sự phát triển cao của chiến thuật và chiến lược kháng chiến; khả năng chỉ huy, tác chiến và sức mạnh của bộ đội, cũng như vũ khí, trang bị đã có sự tiến bộ lớn và mạnh mẽ.

4. Lựa chọn Điện Biên Phủ làm trận quyết chiến chiến lược đã được cả hai phe Pháp và Việt Nam đồng thuận trong thời gian ngắn nhất
Trong kế hoạch ban đầu của cả hai bên, không có kế hoạch tổ chức trận quyết chiến tại Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, khi Đại đoàn 316 của bộ đội ta tiến về Tây Bắc để giải phóng thị xã Lai Châu, tình báo Pháp phát hiện và báo cáo cho Nava vào giữa tháng 11/1953. Trong tình thế này, Tổng chỉ huy Pháp đã nhanh chóng triển khai 6 tiểu đoàn dù xuống Điện Biên Phủ vào ngày 20 và 21/11/1953 nhằm ngăn chặn quân ta tiến về Lai Châu và mở rộng chiến trường sang Lào.
Nhận ra đây là cơ hội để tiêu diệt đối thủ, Bộ Tổng tư lệnh quyết định đưa thêm lực lượng lên Điện Biên Phủ. Phía Pháp cũng nhận thức được điều này và tiếp tục tăng cường lực lượng, tổ chức bố phòng chặt chẽ để xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh mẽ, hòng lôi kéo quân ta vào để tiêu diệt. Như vậy, chỉ trong vòng 2 tuần lễ, cả hai phe đều không thảo luận với nhau nhưng đồng thuận chọn Điện Biên Phủ, một địa điểm trở thành điểm chiến lược lịch sử cho cuộc đối đầu. Điện Biên Phủ ngay lập tức trở thành trung tâm của kế hoạch của cả hai bên.

5. Game Việt chế ngự Chiến dịch Điện Biên Phủ
Vào cuối năm 2011, EMOBI GAMES Việt Nam giới thiệu tựa game FPS (bắn súng góc nhìn thứ nhất) 3D đầu tiên của Việt Nam lấy cảm hứng từ Chiến dịch Điện Biên Phủ với tên gọi là 7554 (7/5/1954).
Sau một số năm, dù doanh số bán hàng không cao và phải ngừng bán game, nhưng nó vẫn được đánh giá cao khi người chơi sử dụng bản crack để hiểu sâu hơn về lịch sử Việt Nam, đặc biệt là đối với giới trẻ.

6. Đội quân xe đạp hùng hậu trở thành vua vận tải của chiến trường
Chiếc xe đạp thồ thời kỳ 1954 trở thành một tài sản quý giá, nhưng nhân dân không ngần ngại biến chúng thành chiếc xe thồ chở hàng, đảm nhận vai trò vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược lên chiến trường Điện Biên Phủ.
Mỗi chiếc xe đạp thồ ban đầu có thể chở 100kg lương thực. Được cải tiến sau đó, khả năng chở tăng lên đến 200-300kg, với một người dân công từ tỉnh Phú Thọ thậm chí vận chuyển được 352kg.
Chiếc xe đạp thồ mang lại khả năng vận chuyển gạo lên đến 10 lần so với việc gánh mang theo, và suất ăn dọc đường chỉ tốn kém cho một người. Điều này có nghĩa là 1 người và 1 chiếc xe đạp bằng 100 người gánh, tổng cộng đội quân xe đạp thồ 20.000 người tương đương với sức lao động của 2 triệu người gánh, đồng thời với tốc độ nhanh hơn khi quay vòng trở lại.

7. Chiến thắng to lớn nhất của quân và dân ta
Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng to lớn nhất của quân và nhân dân ta trong suốt 9 năm kháng chiến, đồng thời là thất bại nặng nề nhất của thực dân Pháp và sự can thiệp của Mỹ.
Trong trận Điện Biên Phủ, bộ đội ta đã đánh bại hoàn toàn nỗ lực quân sự cao cấp nhất của kẻ thù, tiêu diệt và bắt số lượng lớn quân lính của một cường quốc phương Tây, thành tựu nổi bật nhất trong lịch sử hiện đại. Vì vậy, chiến thắng Điện Biên Phủ đã gây ảnh hưởng sâu rộng, trở thành yếu tố quyết định làm suy yếu ý chí chiến đấu tiếp của Pháp, bắt buộc họ phải chọn giải pháp đàm phán để kết thúc chiến tranh khi họ thất bại cả về quân sự và chính trị.

8. Máy bay Pháp tiếp tế cho quân đội Việt Nam
Tại Điện Biên Phủ, Bộ chỉ huy quân Pháp tập trung thả dù tiếp tế cho tập đoàn cứ điểm. Họ rõ ràng nhận ra hành động không mong muốn này mang lại lợi ích cho quân đội Việt Nam từng ngày, bao nhiêu lượng, loại vũ khí, đạn dược, lương thực...
Họ biết rõ mà không có biện pháp nào kiểm soát, khắc phục được. Họ cảm thấy bất lực khi phải tiếp tục làm với số lượng tăng lên mỗi ngày, kéo dài trong 34 ngày. Pháp đã đưa toàn bộ lực lượng không quân để thả dù tiếp tế cả ngày, cả đêm, nhưng vẫn không đáp ứng đủ cho nhu cầu của Điện Biên Phủ. Họ phải nhờ máy bay vận tải mới của Mỹ thả dù tiếp tế cho Điện Biên Phủ.
Đại tướng Hoàng Văn Thái (khi đó là Tham mưu trưởng mặt trận Điện Biên Phủ) kể lại: Có tới một phần ba đồ tiếp tế của Pháp rơi vào khu vực của quân ta, bao gồm những thứ mà chúng ta đang cần, nhưng đã hết hoặc không có như: huyết thanh khô, đạn súng cối, đạn đại bác…
Trong tháng 4, trước trận đánh quyết định, đạn đại bác 105 ly của chúng ta gần như cạn kiệt. Để giải quyết tình hình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp kể: “Chúng tôi đã gửi điện thoại cầu cứu đến Trung Quốc, nhưng Trung Quốc cũng rất khan hiếm đạn đại bác 105 ly. Họ chỉ cung cấp được 7.400 viên, và số này cũng chỉ đến Việt Nam vào cuối tháng 5/1954, sau khi trận đánh ở Điện Biên Phủ đã kết thúc”.
Vậy đạn đâu để chiến đấu? Không quân Pháp đã thả dù với tổng cộng 5.000 viên đại bác 105 ly. Nếu không có sự tiếp tế từ địch, có lẽ trận đánh ngày 7/5 không thể thành công.
