1. Lễ hội bắt chồng
Tính đến từ các vùng Cơ ho, Cil, Chu ru, Tây Nguyên, lễ hội bắt chồng đặc biệt và độc đáo. Ban đêm từ mùng 1 Tết đến hết tháng 3 là thời gian cô gái chủ động tìm chú rể. Cô gái thông báo với gia đình và trao nhẫn cho chú rể nếu cả hai gia đình đồng ý. Ngày này có thể chú rể trả lại nhẫn, nhưng sau 7 ngày, cô gái quay lại và lặp lại quy trình cho đến khi chú rể đồng ý. Đám cưới sẽ diễn ra sau khi chàng trai đồng ý, và trước đám cưới 1 ngày là đêm hội bắt chồng. Trong đêm này, cả cô dâu và chú rể đọc luật lệ riêng của đồng bào và trong ngày cưới, cả hai đeo nhẫn, sau 7 ngày, cô dâu tháo nhẫn đưa cho mẹ chồng, chú rể tháo nhẫn đưa cho mẹ vợ.

2. Vỗ mông kén vợ
Người Hà Giang và người Mông thực hiện phong tục vỗ mông để chọn bạn đời trong phiên chợ cuối năm. Ngoài phong tục chặn đường cướp dâu, họ tụ tập buổi sáng đầu năm chơi trò “ú tìm”. Cô gái đồng ý sẽ bỏ chạy, chàng trai đuổi theo và vỗ mông cô gái khi đuổi kịp, thể hiện ý chí lấy cô làm vợ.

3. Tục kéo vợ
Phong tục “kéo vợ” của người Dao đỏ là biểu hiện của tình yêu lâu dài. Sau quãng thời gian tìm hiểu và yêu nhau, chàng trai được phép “kéo” người con gái về nhà. Sau 3 ngày, chàng trai sẽ quay lại nhà vợ để thông báo việc họ đã trở thành vợ chồng. Đám cưới chỉ tổ chức khi có đủ của cải và con đàn cháu đống, điều này dẫn đến việc có những cặp đôi 70 tuổi mới tổ chức đám cưới.

4. Tục cưới sau 5 lần “ngủ thử”
Phong tục “cưới sau 5 lần ngủ thử” xuất hiện ở vùng người Mường. Các chàng trai khi đến tuổi trưởng thành được phép đến “ngủ thử” nhà cô gái mà họ thích. Cô gái ban ngày đi làm, tối buông màn và thắp đèn. Nếu đèn sáng, chàng trai có thể vào, nhưng phải tự cạy cửa.
Sau 5 ngày thử nghiệm, nếu cả hai đều ưng nhau, nhà trai sẽ đến nhà gái để xin cưới. Quy định rằng khi đã vào được nhà cô gái, họ chỉ được tâm sự và trò chuyện, không chạm vào nhau. Tính đến nay, tục lệ này vẫn được duy trì.

5. Tục lệ cưới 2 lần
Tục lệ này là phong tục truyền thống của người Paco ở vùng núi Thừa Thiên và Quảng Trị. Theo đó, khi trai gái trưởng thành, họ phải cà 6 chiếc răng cửa, và sau khi đã tìm hiểu kỹ, nếu cha mẹ đồng ý, sẽ tiến hành đám cưới.
Đám cưới đầu tiên, nhà trai mang theo lễ vật như rượu nếp, trâu bò, nồi đồng…; sau đó, về nhà chồng, vợ chồng trẻ tổ chức lễ “đạp bếp” và ra mắt gia đình nhà gái. Từ đây, cô gái chính thức rời gia đình để nhập vào họ nhà trai. Sau đó, vợ chồng cùng làm việc chăm chỉ để trả nợ thách cưới và chuẩn bị cho lễ Pẩy Ploh, còn được biết đến với tên gọi là lễ “kết thúc trọn vẹn”.

6. Tục lệ rước dâu ban đêm
Người dân tộc Thái ở Nghệ An thực hiện tục lệ rước dâu vào lúc 0h đêm, vì họ tin rằng ban ngày có nhiều linh hồn quỷ dữ có thể gây trở ngại cho hạnh phúc của đôi trẻ. Thời điểm nửa đêm, chuyển giao giữa ngày cũ và ngày mới, được coi là lúc có nhiều lộc trời nhất và trong lành nhất.
Đoàn rước dâu bắt đầu từ 10h, trên đường, nhà trai mang theo chiêng để gõ và đuổi tà ma, cũng như để thông báo việc cô gái trở thành con dâu của họ.
Khi đến nhà gái, cổng không mở, cô gái hát vọng và chàng trai phải vượt qua thử thách hát đối đáp giao duyên với cô dâu mới được vào. Trong sân, chú rể sẽ nhận thách thức của cô dâu và nhà gái, thường là những màn hát đối về quá trình sinh thành và lớn lên để tôn vinh truyền thống dân tộc.
Khi thời khắc rước dâu đến, cô dâu bước ra khỏi nhà, và về nhà chú rể, mẹ chồng rửa chân bằng nước suối trong, trao cho cô dâu vòng bạc may mắn. Sau đó, đôi vợ chồng trao nhau vòng cưới và thề hẹn chung thủy suốt cuộc đời. Một điều đặc biệt là dù nhà cô dâu và chú rể cách xa nhau, họ vẫn phải đi bộ trong lễ rước dâu.

7. Tục lệ chỉ được cưới 2 ngày trong 1 tháng
Thị trấn Yên Lạc tại Vĩnh Phúc, nơi duy nhất tại Việt Nam có quy ước cưới xin, đặt ra rõ ràng về ngày cưới và ngày dạm ngõ. Hai ngày này là mùng 2 và 16 âm lịch hàng tháng. Quy ước còn ràng buộc cách tổ chức đám cưới, không dựng rạp, sân khấu, loa kèn, âm nhạc, không ăn lại mặt,…
Với mức sống cao do 80% dân số làm nghề thợ mộc, trong ngày cưới, mọi người đóng cửa, tạm dừng công việc và tham gia ăn cỗ. Đây như một lễ hội hàng tháng vì có nhiều đám cưới cùng diễn ra trong ngày này.

8. Người Thái ở rể 3 năm mới được cưới
Đối với những chàng trai dân tộc Thái, để cưới vợ, họ phải trải qua một chuỗi thách thức dài. Khi chọn được cô ưng ý, chàng trai sẽ thương lượng với cha mẹ về việc cưới hỏi. Truyền thống trước đây yêu cầu chàng trai phải ở nhà cô gái trong vòng 3 tháng, sống trong khu vực dành cho khách và chỉ mang theo một con dao để làm việc.
Khi hết thời gian ấy và được sự đồng ý của bố mẹ cô gái, chàng trai quay về báo tin cho cha mẹ. Từ đó, chàng trai mới được mang đồ đạc tới nhà cô gái và ở đó trong suốt 3 năm.
Sau 3 năm ở rể, lễ cưới chính thức mới diễn ra. Trong trường hợp cô gái không đồng ý, cô sẽ tự cắt tóc của mình. Sau lễ cưới, chú rể tiếp tục ở nhà cô gái từ một đến mười năm, và chỉ sau lễ đưa dâu trọng thể, anh mới được đưa vợ về nhà mình.

9. Lễ cưới độc đáo của người Ma Cong
Theo tìm hiểu về tình yêu, người Ma Cong có lễ cưới độc đáo, khi tổ chức cưới hỏi, nhà trai chỉ được ngồi ở góc bên trái và giới hạn trong khu vực nhỏ gần cửa chính. Nhà gái chuẩn bị 5-7 hũ rượu cần từ sáng đến tối, hoặc thậm chí là 12-13 hũ nếu gia đình nhà gái đủ khả năng.
Vào buổi tối, nhà trai được nhà gái tặng một cái chăn, hai cái gối, và một chiếc chiếu mới. Trong đêm, nhà trai phải tham gia trò chuyện với gia đình nhà gái từ tối đến sáng. Cả hai gia đình cùng thưởng thức rượu và thưởng thức cỗ từ đêm đến sáng. Sau đó, hai bên sẽ thống nhất giờ đưa cô dâu về nhà chồng.
Người Ma Cong thường nói đùa rằng: 'Muốn cưới hỏi ở đây, nhà trai phải thức trắng đêm 'chịu nhục'. Nhà gái sẽ mời rượu và nhà trai phải uống cho đến khi say. Họ muốn nhà trai say, vì vậy nhà trai phải uống đến say. Nhà trai ngồi nói chuyện từ tối đến sáng. Chỉ khi họ hài lòng, lễ cưới chính thức mới diễn ra tại nhà gái'.
