Trạng Quỳnh là nhân vật nổi tiếng trong văn học dân gian Việt Nam, đặc trưng bởi sự hài hước và tính cách châm biếm dưới triều đại vua Lê và chúa Trịnh. Mặc dù nhân vật này được biết đến rộng rãi, nhưng Trạng Quỳnh có thể là hình mẫu của Nguyễn Quỳnh (1677 - 1748), một danh sĩ thời Lê Trung Hưng, người xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, với danh hiệu Cống sĩ và còn được gọi là Cống Quỳnh.
Một nhân vật giai thoại khác trong văn học dân gian Việt Nam là Xiển Bột, nổi tiếng với lối sống trào lộng và hài hước dưới triều Nguyễn, được coi là hậu duệ (chắt) của Trạng Quỳnh.
Mô tả
Trạng Quỳnh, người đến từ Thanh Hóa, từ nhỏ đã nổi bật với trí tuệ xuất chúng, được gọi là sao sáng xứ Thanh, và đã đạt danh hiệu Trạng nguyên. Với tính cách châm biếm và sự dám đối đầu với quan lại, ông nhiều lần đùa cợt cả vua Lê và chúa Trịnh. Cuối cùng, chúa Trịnh đã âm thầm đầu độc ông, nhưng Trạng Quỳnh đã khiến chúa Trịnh cũng phải chết theo, tạo nên câu chuyện nổi tiếng 'Trạng chết, Chúa cũng băng hà'.
Những giai thoại tiêu biểu
Dưới đây là một số giai thoại nổi bật, thường gặp trong kho tàng truyện dân gian. Nội dung của những câu chuyện này có thể khác nhau tùy vào từng phiên bản.
Vẽ voi trên giấy thừa
Trong kỳ thi Hương cống, Trạng Quỳnh hoàn thành bài thi nhanh chóng, sớm hơn nhiều thí sinh khác. Mặc dù đã xong bài, nhưng vì không quá quan tâm đến việc đỗ đạt, Quỳnh quyết định mở bài ra xem lại. Thấy một đoạn giấy còn trống, Quỳnh liền vẽ một bầy voi và viết thêm vài câu thơ ngẫu hứng bên cạnh:
- Văn chương đã xong, phú lục đầy đủ
- Vẽ voi trên giấy thừa có sao đâu?
- Tôi có một điều muốn nói thật lòng
- Ai cười tôi, sẽ bị phạt đấy.
Khi viên quan giám thị nhìn thấy bài thơ tứ tuyệt kiêu ngạo của Trạng Quỳnh, ông ta lập tức chạy đi báo với quan giám khảo. Quan sơ khảo và quan phúc khảo tò mò đến xem thử và quả thật đúng như vậy. Dù biết mình đã bị phát hiện, Quỳnh vẫn tỉnh bơ và tiếp tục viết thêm hai câu thơ nữa:
- Voi mẹ, voi con, voi lũ lụt
- Chú sơ, chú phúc, cứ mà xem.
Lúc này, đám quan lại cảm thấy ngượng ngùng và vội vàng rút lui, lo lắng nếu ở lại lâu sẽ bị Trạng Quỳnh trêu chọc và mất mặt.
Đối đáp với sứ Tàu
Khi triều đình chuẩn bị tiếp đón sứ giả từ Trung Quốc, chúa nghe tin rằng viên chánh sứ là người kiêu căng, nên giao nhiệm vụ tiếp đón cho Trạng Quỳnh. Quỳnh nhận nhiệm vụ và đồng thời mời bà Đoàn Thị Điểm cải trang thành người bán hàng rong để tiếp đón khách qua đường, còn bản thân Quỳnh hóa trang thành người lái đò đưa sứ đoàn qua sông.
Khi đoàn sứ giả từ Trung Quốc đi qua quán của bà Đoàn Thị Điểm, thấy một cô gái xinh đẹp đang ngồi bán hàng, họ liền kéo vào uống nước và tranh thủ trêu chọc. Một người trong nhóm bắt đầu đọc bâng quơ:
- Đất Nam một tấc không biết bao nhiêu người cày
- ('Một tấc đất ở nước Nam không biết có bao nhiêu người làm ruộng', ngụ ý rằng phụ nữ nước Nam không nghiêm túc)
Bà Đoàn Thị Điểm đang nhai trầu, nhổ ra một bãi rồi đáp lại:
- Đại trượng phu Bắc quốc đều từ chỗ đó mà ra
- ('Những đại trượng phu ở Bắc quốc đều từ chỗ đó mà ra', ám chỉ rằng dù sứ giả Trung Quốc có oai nghi đến đâu cũng chỉ là kẻ phụ thuộc vào phụ nữ)
Nghe câu đáp của bà Đoàn Thị Điểm, cả bọn sứ giả ngừng uống nước, ngẩn người và há hốc mồm nhìn bà.
Khi đoàn sứ giả Trung Quốc qua sông, một người trong nhóm bị đau bụng và phát ra một tiếng 'bủm'. Hắn liền đọc một câu để chữa ngượng một cách tự mãn:
- Gió động đất Nam bang
- (Sấm sét ở nước Nam)
Trạng Quỳnh đang cầm chèo, đứng dậy, vạch quần tiểu xuống sông và lập tức đáp lại:
- Mưa dập bể Bắc
- (Mưa lớn ở biển Bắc)
Sứ giả Trung Quốc cảm thấy xấu hổ, xông vào định đánh Quỳnh. Quỳnh vững vàng cầm cán chèo, sẵn sàng phòng thủ và mắng lại:
- Sấm trước rồi mưa sau, quy luật trời đất là vậy
- (Sấm động trước, mưa sẽ đến sau, đó là quy tắc tự nhiên)
Cả đoàn sứ giả ngẩn ngơ nhìn nhau, không thể nói gì vì câu đối đáp quá hoàn hảo của Trạng Quỳnh, đành im lặng chờ đến bến.
Đặc sản mầm đá
Có một thời gian, chúa bị bệnh không thể ăn uống ngon miệng, dù là món ăn quý hiếm đến đâu cũng không làm ông hài lòng. Một hôm, khi Trạng Quỳnh vào hầu, chúa hỏi:
- Gần đây ta ăn uống không thấy ngon miệng, dù là món ăn cao lương mỹ vị cũng không cảm thấy thèm. Trạng có biết món nào thực sự ngon không?
Trạng Quỳnh nghe vậy liền tâu:
- Thưa Chúa, Chúa đã bao giờ thử món mầm đá chưa?
- Mầm đá? À, món đó tôi chưa nghe bao giờ. Có vẻ như là rất ngon phải không?
- Thưa Chúa, đúng vậy!
Nghe vậy, chúa cảm thấy hào hứng, liền bảo Trạng Quỳnh về chuẩn bị món ăn, để chiều hôm đó chúa sẽ đến thưởng thức.
Mới đầu chiều, chúa đã đến nhà Trạng Quỳnh. Quỳnh cho người bày biện bếp núc, dao thớt xôn xao, gia vị bay mùi thơm lừng; còn mình thì pha trà và trò chuyện với chúa. Đến gần tối, chúa cảm thấy đói cồn cào, chỉ còn nước trà trong bụng, liên tục hỏi thăm, nhưng Quỳnh vẫn khuyên chúa kiên nhẫn chờ thêm và tiếp tục bảo người nhà bận rộn với dao thớt.
Khi trời sắp tối, chúa đói đến mức không chịu nổi, liền yêu cầu Quỳnh dâng món gì để ăn tạm. Quỳnh liền ra lệnh cho người hầu mang lên một mâm cơm trắng, tự tay xới cơm cho chúa. Mỗi bát cơm, Quỳnh lại cẩn thận cho vào một ít từ một lọ nhỏ dán nhãn 'Đại Phong'. Chúa thấy món ăn này có hương vị thơm ngon, ăn một lúc hết mấy bát cơm mà vẫn thấy ngon miệng. Khi đã hết cơn đói, chúa mới hỏi Quỳnh.
- Trạng Quỳnh, món Đại Phong là món gì mà ta chưa từng thử qua?
- Thưa chúa, đó chỉ là món ăn bình dân hàng ngày của gia đình thần thôi ạ!
- Nhưng món đó thực chất là gì?
- Thưa Chúa, 'Đại Phong' nghĩa là gió lớn. Gió lớn thì làm đổ chùa, đổ chùa thì khiến tượng loạn, mà tượng loạn tức là... Lọ tương đấy ạ!
Chúa mới nhận ra mình đã bị Trạng Quỳnh trêu đùa. Vì đã ăn nhiều món ngon vật lạ nên khẩu vị bị lệch, Quỳnh đã sử dụng mưu mẹo để khiến chúa đói cồn cào mới cho chúa ăn, vì thế món nào cũng thấy ngon.
Trạng Quỳnh chết, chúa cũng ra đi
Sau nhiều lần bị Trạng Quỳnh đùa cợt, chúa ngày càng ghét Quỳnh, bèn ra lệnh mời Quỳnh đến dự yến tiệc và âm thầm chuẩn bị thuốc độc để giết chết. Trạng Quỳnh biết đây là mối nguy hiểm đến tính mạng, nên trước khi đi đã dặn vợ con rằng:
- Hôm nay ta vào dự yến của chúa, khả năng sống sót ít, nguy cơ cao. Nếu có chuyện gì xảy ra với ta, không được phát tang ngay lập tức. Hãy để ta nằm võng, cắt hai người quạt hầu, rồi gọi nhà trò đến hát. Đợi đến khi phủ chúa phát tang thì mới phát tang ngoài.
Sau khi dặn dò xong, Trạng Quỳnh vào cung dự yến tiệc của chúa. Trong bữa tiệc, chúa hỏi:
- Khi nào thì Quỳnh chết?
Trạng Quỳnh đáp:
- Khi nào chúa băng hà, thì Quỳnh cũng chết theo.
Sau khi ăn xong, Quỳnh cảm thấy không ổn, liền xin phép về. Vừa về đến nhà, Quỳnh tắt thở. Vợ con làm theo đúng lời dặn của Quỳnh. Chúa sai người đi kiểm tra, thấy Quỳnh đang nằm võng, nghe nhạc và gia đình vui vẻ như thường. Chúa liền gọi đầu bếp đến hỏi cách pha thuốc độc ra sao mà Quỳnh không hề hấn gì. Chúa thử ăn món đó, một lát sau thì lăn ra chết.
Khi gia đình Trạng Quỳnh nghe tin trong phủ chúa phát tang, họ cũng bắt đầu làm lễ tang. Chúa và Trạng cùng đưa tiễn suốt một ngày. Đó mới thấy, Quỳnh dù đã chết vẫn có thể khiến chúa cũng phải ra đi theo. Người đời sau đã có câu thơ để nhắc lại:
- Trạng Quỳnh chết, chúa cũng ra đi
- Dưa đỏ thì lựu cũng đỏ
Trong văn hóa đại chúng
Năm | Tác Phẩm | Diễn Viên | Nhân Vật |
1989 | Trang Quỳnh | Hoàng Dũng | Trạng Quỳnh |
2019 | Trạng Quỳnh | Quốc Anh | Trạng Quỳnh |
Ở miền Bắc Trung bộ Việt Nam, người dân thường dùng từ 'trạng' để chỉ những người thích khoe khoang, thể hiện, và thường dùng thán từ 'trạng hè !' ('thằng đó trưng ra vẻ') để biểu thị sự châm biếm.