Tranh ảnh về vẻ đẹp tự nhiên và tình yêu đối với cuộc sống trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.
Bình giảng khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử.
BÀI LÀM
Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ra đời có nguồn gốc sâu xa từ ký ức của Hàn Mặc Tử về cảnh đẹp của Huế và nhân vật ở Huế, ông đã từng học ở đó. Khi làm việc ở Quy Nhơn, ông đã quen biết một người con gái Huế là Hoàng Cúc. Sau đó, ông chuyển ra Sài Gòn làm báo, nhưng khi quay lại Quy Nhơn, Hoàng Cúc đã về thôn Vĩ Dạ. Một lần cô gửi cho ông một bức ảnh kèm theo lời thăm hỏi, điều này đã làm cho Hàn Mặc Tử có cảm hứng để viết nên tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ - một bài thơ kỳ ảo về cảnh đẹp của cố đô Huế và nỗi buồn về một mối tình xa xứ không được đáp lại. Tuy nhiên, qua bài thơ này, ta cũng thấy được tình yêu chân thành đối với tự nhiên, cuộc sống và đất nước của con người.
B - Khổ 1 (bình giảng): Bắt đầu là một câu hỏi trách móc nhẹ nhàng của một cô gái. Lời trách thực ra là một thái độ dịu dàng, đầy quyến luyến: Sao anh không về thăm thôn Vĩ?
Câu hỏi này cho ta thấy phần nào tính cách của người hỏi là sự nhẹ nhàng, nền nã của người phụ nữ Huế. Một tình yêu thành thật được diễn đạt bằng ngôn từ nhẹ nhàng. Chỉ cần thấy câu thơ này bằng cách diễn đạt: “Anh sao không về thăm thôn Vĩ?”, thì sự trìu mến, sự kín đáo đã giảm đi rất nhiều. “Anh” ở đây rõ ràng và gần gũi, yêu cầu một cái bổn phận của người đối diện.
Nhìn ánh nắng mới bừng lên trên hàng cây cau.
Dòng thứ hai là một phản ứng ngay lập tức của nhân vật “anh', dường như tín hiệu phát ra từ người mờ nhạt, mơ hồ, nhưng ở người đón nhận thì lại cảm nhận mạnh mẽ. Hàn Mặc Tử không suy nghĩ về sự thực, sự ảo trong lời mời của anh đang chờ đợi và chỉ cần có lời mời đó.
Hai câu thơ này khó giải thích về ý nghĩa thực tế. Người vừa hỏi dứt câu thì người nghe câu hỏi đã vượt qua một khoảng không gian lớn để đến thôn Vĩ. Thực ra câu hỏi đó chính là một điểm sáng trong ý nghĩa của người viết. Hàn nghe thấy rõ ràng, rành mạch, nhưng chúng ta thì không. Ký ức cá nhân đã hiện ra qua những lần đấu tranh đau đớn với căn bệnh nghiêm trọng. Thơ của Hàn đầy những nỗi đau thương, đau buồn tới mức điên cuồng nhưng cũng có những lúc nó trong trẻo đến kỳ diệu. Trong nỗi đau thương thì có những phút giây của hạnh phúc. Người ta phải nắm bắt nó như một phao cứu sinh, như sự cứu rỗi cho linh hồn. Những phút sáng ngời đó trong thơ Hàn thường là những suy tưởng về thượng đế, về một quá khứ và tình yêu tưởng tượng. Thôn Vĩ hiện lên như một khu vườn cổ tích, như một vườn địa đàng mà Hàn lần đầu tiên phát hiện, nó trùng với khao khát của ông về việc trở về với thượng đế. Thôn Vĩ trong mắt Hàn đã trở thành một thế giới mà ông ao ước. Nó không đẹp bởi những hàng cây cao, những khu vườn sum suê và khuôn mặt của người làng. Điều quan trọng là vẻ đẹp của thôn Vĩ hiện diện ở mọi nơi trong làn gió Việt Nam từ Bắc vào Nam. Vẻ đẹp của thôn Vĩ là ở đôi mắt của Hàn. Hình như ông không chỉ đứng trước thôn Vĩ mà còn đứng từ xa, nhìn ngắm vẻ đẹp của thôn Vĩ, sau đó tiến gần đến khu vườn và cuối cùng là đến “lá trúc che nắng mặt làng”. Nhưng điều quan trọng hơn là thôn Vĩ được nhìn thấy vào buổi sáng, khi ánh nắng mới bắt đầu ló dạng. “Ánh nắng mới” kích thích những gì trong sáng, và sự trong trắng ấy được truyền từ trên cao xuống cả khu vườn, một loại nắng trong lành, tươi mới. Khu vườn đó đem lại cho chúng ta một gam màu xanh mướt, sáng bóng, lung linh. Tất cả những cành lá mềm mại của khu vườn đẹp bằng sương, màu xanh của lá và màu sắc của nắng đã tạo nên một loại màu xanh ngọc quý giá mà một lần trong giấc mơ Xuân Diệu đã thấy: Làm đỏ cả bầu trời.
Ấn tượng về khu vườn cổ tích đó được tăng cường bằng cách miêu tả: “mượt mà” và so sánh “xanh như ngọc”.
Câu thơ thứ tư có nhiều cách hiểu:
Lá trúc che khuôn mặt của người làng.
Hàn đã đến thôn Vĩ, đến khu vườn của người làng và vì thế ông đã được nhìn thấy khuôn mặt của người phụ nữ mời ông. Nói một cách đơn giản, khuôn mặt của người làng ở đây là một khuôn mặt phúc hậu, đẹp đẽ.
Có một quan điểm cho rằng: Mặt chữ điền chỉ vào một đối tượng, mang đến linh hồn cho bức tranh của thôn Vĩ. Nó là một phần của bức tường phía trên, thường làm thành bình phong trước hiên nhà của những gia đình quyền quý trong thôn Vĩ được biết đến là 'xóm quang', nơi mà có nhiều bức bình phong chữ điền như thế. Một ý kiến thứ ba đáng tin cậy hơn cả khuôn mặt chữ điền đó chính là khuôn mặt của Hàn Mặc Tử. Thơ của Hàn thường có sự gặp gỡ giữa con người đau khổ ngày nay với con người tươi đẹp của một quá khứ xa xưa. Thế giới mà Hàn cảm nhận thực tế luôn đầy xót xa cay đắng, nên ở bên ngoài thôn Vĩ là một thế giới trong tưởng tượng, nơi Hàn có cơ hội gặp lại quá khứ và gặp chính mình. Vâng, gặp lại chính mình trong khuôn mặt đầy kiêu hãnh. Lưu ý rằng, lá trúc trong văn hình là biểu tượng của quân tử dành cho trượng phu.
Dĩ nhiên, câu cuối không cần phải phân tích, không nên phân tích vì nó có tính chất phá vỡ bản thân. Người đọc có thể cảm nhận được một hoặc nhiều cách hiểu khác nhau đồng thời. Đó là câu thơ sống theo quy luật của nghệ thuật.
Khổ thơ thứ hai hồi tưởng về một cảnh đẹp không thể tách rời khỏi thôn Vĩ.
c. Từ hai bờ sông Trăng ấy bỗng vọng lên một câu hỏi:
Có chăng trăng về kịp tối nay?
Trăng mãi mãi là biểu tượng của hạnh phúc, “tối nay” là muốn nói về thời gian ngắn trước khi tối, “kịp” như một cảm giác: Cảm giác về hiện tại ngắn ngủi, lóe mờ để thấy được cách sống. Nhưng cũng là phải vội vã đua với cái chết, với bệnh tật. Vâng, mời tới thôn Vi nhưng có thể mang lại hạnh phúc kịp thời không? Vì:
Ngày mai tôi chết bên khe Ngọc Tuyền
Bây giờ tôi dại, tôi diên
Chắp tay tôi lạy mọi miền trần gian
Câu hỏi “có chăng...” là một lời chào hỏi không gian của thôn Vĩ, con người thôn Vĩ trong tâm trạng điên dại của hiện tại, nên nó là khát vọng rất đau đớn. Vì thế, ánh trăng rất nhẹ, “tối nay” rất ngắn lại được nói bằng từ “kịp”, bằng cái tâm hồn nặng trĩu nỗi đau.
Hàn Mặc Tử rất yêu trăng, trăng tràn vào mọi thiên nhiên đẹp nhất của Hàn, đó là thươn đất Huế với Vĩ Dạ của trăng. Cảnh vật làm cho chúng ta thêm một lần yêu Huế đẹp, Huế thơ; nhưng con người thôn Vì lại là một ẩn số không biết có đáp lại tình yêu chân thành hay không. Vì thế mà Hàn chia sẻ tâm sự với trăng.
Khổ thơ thứ ba: Hai khổ đầu nói nhiều về cảnh, trong khi khổ cuối chủ yếu là tâm sự của nhân vật trữ tình.
Giấc mơ nào về tình yêu cũng đẹp nhưng giấc mơ được đánh thức, chỉ làm đau khổ trái tim. 'Khách đường xa' xa lạ hơn từ 'ai' và tất nhiên sẽ xa lạ hơn rất nhiều so với những người con gái hỏi câu đầu tiên trong bài thơ. Thế mà 'khách đường xa' lại xuất hiện hai lần như một cú sốc cho giấc mơ. 'Khách đường xa' bất ngờ trở thành 'em' trong gang tấc. Hạnh phúc bất ngờ không được dự đoán đã khiến Hàn choáng váng, cái áo trắng kỳ lạ ấy lại trở nên rõ ràng. Liệu có phải là sương khói của Huế làm mờ nhân ảnh mà Hàn 'không nhận ra'? Trong ý nghĩa ẩn dụ, đây là một cảm giác mà mọi người thường có:
Em lớn quá, anh làm sao giữ được?
Nên khi nào em muốn, hãy đi xa anh
Hàn mong ước tình yêu, khi tình yêu không đến thì trách móc, dỗi hờn. Nhưng khi người yêu hi sinh cho anh (dĩ nhiên là tưởng tượng) thì Hàn lại sợ hãi, lại không dám nhìn vào hạnh phúc chứ không phải là 'không nhận ra'.
Câu thứ ba: 'Ở đây sương khói mờ nhân ảnh' lại trở về với nhận thức rằng mình không có tình yêu. Câu thơ mang một vị chát của triết lí ngàn đời 'Con quay búng sậu lên trời - Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm' (Nguyễn Gia Thiều). Hạnh phúc trong cuộc đời là một cuộc xổ số mà có bao nhiêu người giữ được tấm vé độc đắc? Vì thế mà Hàn cảm thấy nghi ngờ, buồn rầu. Câu hỏi nghi vấn nhưng thực ra là tan vỡ hy vọng về một mối tình trong tâm tưởng:
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hai từ 'ai' nhắc lại đối tượng mà mình yêu, nên chúng cảm thấy thiết tha, nhưng cũng vì thế mà xa lạ hơn. Vừa mới gọi là 'em' một lần, Hàn đã nhận ra đó là ai. Hàn không cần những mối tình thoáng qua. Muốn có một mối tình đậm đà trong hoàn cảnh bi kịch không phải là điều dễ dàng?
Đây là thôn Vì Dạ, một bức tranh bâng khuâng thật đẹp vì có sự hòa quyện giữa thực và ảo, giữa cảnh và người, giữa tình yêu con người và tình yêu thiên nhiên. Tình yêu đó được viết ra từ một trái tim của một con người đang đếm từng giờ để đón nhận cái chết, điều mà đáng quý trọng. Hàn sắp trở về với thế giới bên kia nhưng vẫn khao khát một tình yêu trần thế. Đó là một giá trị nhân văn, là niềm mơ ước không ngừng của Hàn. Hàn sẵn sàng ngã giá: Ai mua trăng, tôi bán trăng cho Chẳng bán tình duyên ước hẹn hò.
Mytour