Trâu ruộng (Bubalus bubalis) xuất phát từ loài trâu rừng đã được thuần hóa, là thành viên của nhóm trâu đầm lầy, phân bố khắp mọi miền của Việt Nam. Ở Tây Nguyên, có giống trâu Langbiang nổi tiếng, trong khi ở Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Giang thì giống trâu Ngố là phổ biến
Mô tả chi tiết
Trâu được phân thành đực và cái. Con đực to lớn, thân hình dài, phần trước cao hơn phần sau. Con cái từ trung bình đến lớn, linh hoạt. Điểm chung của trâu là hiền lành, thân thiện nên được nuôi rộng rãi ở khắp các tỉnh thành của cả nước. Trung bình một con trâu trưởng thành có thể nặng từ 250 – 500 kg. Cân nặng của trâu tùy thuộc vào giới tính và sức khỏe. Các bộ phận của trâu bao gồm đầu, cổ, thân, chân, đuôi và da. Đầu của trâu đực dài, to vừa phải, trong khi đầu của trâu cái thon dài. Trán rộng, phẳng, hơi gồ. Da mặt rất khô, lồi lõm rõ rệt các mạch máu. Mắt to tròn, màu đen sáng, mí mắt mỏng, lông mi dài; mũi kín, sáng, ướt.
Miệng của trâu rộng, răng đều, không bị sứt mẻ. Điều đặc biệt của trâu là hàm trên không có răng mà chỉ có một miếng lót rất dai, mềm mại phù hợp với việc nhai lại thực vật. Hai tai của trâu nhỏ vừa, có thể di chuyển, được bao phủ bởi lớp lông mềm giúp bảo vệ tai khỏi côn trùng xâm nhập. Sừng của trâu thanh, màu đen, cân đối, nhọn và cong về phía sau; các gai sừng đều, rỗng.
Phần cổ và thân của trâu có những đặc điểm sau: cổ có vạch loang cắt ngang phía dưới họng và một dấu chữ V thấp hơn chạy ngang qua phía trên ngực. Cổ dài vừa phải, có nhiều nếp nhăn; vai mạnh mẽ; ức rộng, sâu; lưng cong về phía sau, dài từ 1 – 1,5 m có một chút uốn cong; xương sườn to, tròn, cong đều; bụng tròn lẳn; mông to rộng; vú nhỏ và lùi về phía sau.
Chân của trâu rất mạnh mẽ, vững chắc để chịu đựng cả thân mình, bốn chân thẳng to, gân guốc. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng. Bàn chân thẳng, ngắn, vừa phải. Hai đùi sau to dài, bàn chân sau thẳng, ngắn. Bốn móng rất cứng, khít, tròn, màu đen bóng và chắc chắn. Đuôi của trâu to, dài, với một tầng lông luôn sẵn sàng phe phẩy để đuổi ruồi, muỗi. Da của trâu dày, bóng, màu xám đen. Hiếm khi có trâu có màu lông trắng. Lông đen, cứng, gắn kết chặt với da giúp điều tiết nhiệt độ trong những ngày hè oi ả ở vùng nhiệt đới. Tổng thể, trâu có thân hình chắc nịch, phù hợp với công việc nông nghiệp mệt nhọc.
Điều hành chăn nuôi và giá trị với nhà nông
Tại Việt Nam, người dân nuôi trâu chủ yếu để cày cấy và bừa ruộng, đồng thời có giá trị sử dụng làm thịt và lấy da.
Trâu 3 tuổi có thể sinh sản lần đầu. Trâu sinh sản theo mùa. Một con trâu cái trong đời thường sinh 5 - 6 con nghé; nghé sơ sinh có trọng lượng khoảng 22 – 25 kg. Đôi răng cửa giữa bắt đầu mọc vào 3 tuổi và trâu ngừng sinh trưởng khi 6 tuổi (có 8 răng cửa). Mỗi ngày trâu ăn trung bình 30 kg cỏ. Trâu thành đàn, thường có một con trâu đực lớn nhất làm trâu đầu đàn, các con khác nghe theo. Người chăn trâu có thể điều khiển được trâu đầu đàn thì dẫn được cả đàn trâu.
Khả năng cho thịt chiếm 45% trọng lượng: trâu nái: 42%; trâu đực 2 tuổi: 48%
Sức kéo trung bình: kéo cày: 70–75 kg tương đương 0,36-0,40 mã lực. Loại trâu 'A' mỗi ngày có thể cày được 3-4 sào, loại 'B' cày được 2-3 sào, loại 'C' cày được 1,5->2 sào (sào Bắc Bộ).
Đường xấu: trâu có thể chịu tải trọng từ 400–500 kg, đường tốt có thể lên đến 700–800 kg và trên đường nhựa, khi có bánh xe bơm hơi, trâu có thể kéo được hơn 1 tấn. Kéo gỗ: trên đồi núi, thường một con trâu kéo được từ 0,5-1,3 m³ gỗ với đoạn đường 3–5 km.
Sữa: trâu có thể cung cấp từ 400 – 500 kg sữa trong một chu kỳ vắt, mỡ sữa đạt 9 - 10%.
Phân bón: trong 24 giờ, trâu 2 răng cho ra 10 kg, trâu 4 răng cho ra từ 12 – 15 kg. Trâu trưởng thành có thể cho ra từ 20 – 25 kg.
Lợi ích kinh tế: Lúa mùa chính là thành quả của việc trâu giúp cày bừa ruộng đúng thời điểm thu hoạch.
Ngành chăn nuôi trâu ở Việt Nam hiện đang chuyển từ chăn nuôi sử dụng sức kéo sang chăn nuôi sử dụng thịt.
- Giáo trình về chăn nuôi - Nhà xuất bản Nông nghiệp Hà Nội năm 2000.
- http://vcn.vnn.vn/trau-viet-nam_i936_c124.aspx Lưu trữ vào ngày 5 tháng 3 năm 2016 tại Wayback Machine