I. Một chút về nhà văn Ngô Sĩ Liên
- Ngô Sĩ Liên, người chưa có ngày sinh và ngày mất rõ ràng, quê gốc làng Chúc Lý, huyện Đức Chương, nay thuộc xã Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, Hà Nội.
- Ông đã đậu Tiến sĩ vào năm 1442 dưới triều vua Lê Thái Tông, và được gửi vào Viện Hàn lâm.
- Trong thời vua Lê Thánh Tông, ông giữ chức vụ Hữu thị lang bộ Lễ, Triều liệt đại phu kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, và cũng là người soạn thảo Quốc sử giám.
II. Giới thiệu về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn
1. Nguồn gốc
- Đoạn văn về Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được lấy từ “Đại Việt sử ký toàn thư”.
- “Đại Việt sử ký toàn thư” là tập sách lịch sử quan trọng của Việt Nam thời Trung Đại được Ngô Sĩ Liên soạn, hoàn thành vào năm 1479, bao gồm 15 quyển, ghi chép sự kiện lịch sử từ thời Hồng Bàng đến khi vua Lê Thái Tổ lên ngôi (năm 1428).
- Tác phẩm được biên soạn dựa trên tài liệu của Lê Văn Hưu từ thời Trần và Phan Phu Tiên từ thời Hậu Lê.
2. Cấu trúc
Bao gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “đó là cách sách giữ nước như vậy”. Chiến lược bảo vệ quốc gia của Trần Quốc Tuấn.
- Phần 2. Tiếp theo đến “cho Quốc Tảng màu viếng”. Lời dặn của cha Trần Quốc Tuấn trước khi qua đời.
- Phần 3. Phần còn lại. Các thành tựu của Trần Quốc Tuấn.
Vị Vua Hưng Đạo Đại Tướng Trần Quốc Tuấn
Nghe Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn được phát ra:
Tháng sáu, ngày hai mươi tốt, ngôi sao lấp lánh.
Hưng Đạo Đại Tướng đang ốm. Vua đến thăm nhà, hỏi rằng:
- Nếu có điều không may mắn xảy ra và quân giặc từ phương Bắc lại xâm nhập, kế sách phải làm thế nào?
Vương đáp lại:
- Xưa kia, Triệu Vũ lập quốc, vua Hán sai quân tấn công, nhân dân xây “thanh dã”, quân lớn đánh vào Khâm Châu, Liêm Châu, đồng thời quân nhỏ tiến vào từ phía sau. Đó là một thời kỳ. Đời Đinh, Lê tận dụng tài năng của người, phía Nam mới mạnh mẽ trong khi phía Bắc mệt mỏi, suy yếu, nhưng lòng dân vẫn không lìa xa, xây thành Bình Lỗ để đánh bại quân Tống. Đó cũng là một thời kỳ. Vua Lý khai mở, nhà Tống xâm phạm lãnh thổ, sử dụng Lý Thường Kiệt để chiến đấu ở Khâm, Liêm, cho đến Mai Lĩnh là vì có sức mạnh. Gần đây, Toa Đô, Ô Mã Nhi từ bốn phía vây hãm, nhưng vì lòng dân đồng lòng, anh em hoà thuận, toàn bộ quốc gia đều đóng góp sức mạnh, quân địch phải bị bắt. Đó chỉ là do sự may mắn. Nó tin tưởng vào sức mạnh trận địa, còn chúng ta dựa vào chiến thuật quân binh. Sử dụng binh pháp đó là điều bình thường. Nếu chỉ thấy quân địch tiến tới như lửa, như gió, thì thế dễ kiểm soát. Nếu chúng di chuyển chậm như sâu róm ăn, không cần phải chiến thắng nhanh chóng, thì phải chọn sử dụng các tướng giỏi, sử dụng quyền lực biến đổi, như chơi cờ vậy, tạo ra thế cờ phù hợp với thời điểm, chỉ khi có được lòng tin tưởng của quân lính như cha con thì mới có thể sử dụng được. Hơn nữa, còn phải lấy sức mạnh của dân chúng để tạo ra những chiến lược sâu rộng và bền vững, đó chính là cách bảo vệ quốc gia.
Trần Quốc Tuấn là con của Vua An Sinh, khi còn nhỏ, có một vị tướng nhìn vào và nói rằng: “Người này sau này có thể giúp đất nước thoát khỏi nguy hiểm”. Khi lớn lên, anh ta có nhan sắc xuất sắc, thông minh hơn người, học rộng các sách vở, và có tài về văn võ. An Sinh Vương trước đây không hài lòng với Chiêu Lăng và, với sự căm hận, anh ta tìm kiếm những người tài năng để giáo dục Quốc Tuấn. Trước khi qua đời, An Sinh cầm tay Quốc Tuấn và nói:
- Con nếu không thể đạt được vinh quang cho cha mẹ và đất nước thì ngay cả khi dưới đất có là vàng thì cha mẹ cũng không thể ngủ yên.
Quốc Tuấn ghi nhận điều đó trong lòng, nhưng không chấp nhận nó.
Khi quyền lực và sức mạnh quân đội đều nằm trong tay mình, ông đã truyền lời cha dặn dò cho hai người gia nô là Dã Tượng và Yết Kiêu.
- Việc làm đó có thể mang lại phú quý tạm thời nhưng để lại tiếng xấu vĩnh viễn. Bây giờ đại vương có đủ phú và quyền không? Chúng tôi xin cam kết chết già dưới vai làm gia nô, không muốn trở thành quan lại mà thiếu trung hiếu. Chúng tôi chỉ mong được phục vụ người như Duyệt, người làm thầy như thế!
Quốc Tuấn bày tỏ sự khâm phục đến mức rơi nước mắt và khen ngợi hai người.
Một ngày nọ, Quốc Tuấn giả vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương:
- Người xưa có cả thiên hạ để truyền lại cho con cháu, ngươi nghĩ sao về điều đó?
Hưng Vũ Vương đáp lại:
- Dù họ khác nhau, họ cũng không nên làm như vậy, đương nhiên là ngay cả khi họ cùng một dòng máu!
Quốc Tuấn hiểu được điều đó trong lòng mình.
Một ngày khác, Quốc Tuấn hỏi con thứ hai của mình là Hưng Nhượng Vương Quốc Tảng về vấn đề đó. Quốc Tảng trả lời:
- Tống Thái Tổ từng là một người nông dân, nhưng đã tận dụng cơ hội để thay đổi số phận và chiếm được lòng tin của thiên hạ.
Quốc Tuấn vùng gươm kể tội:
- Tên phản bội xuất phát từ một đứa con vô hiếu.
Quyết định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương nghe tin, nhanh chóng đến khóc lóc xin chịu trách nhiệm thay, chỉ khiến Quốc Tuấn tha thứ. Sau đó, ông dặn Hưng Vũ Vương:
- Sau khi tôi qua đời, hãy mở nắp quan tài rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng.
Vào mùa thu, ngày 20 tháng 8, Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn qua đời tại phủ đệ Vạn Kiếp, và được tặng danh hiệu Thái sư Thượng phụ Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương.
Thánh Tông đã soạn bài văn bia tại nơi sinh của Quốc Tuấn, so sánh ông với Thượng phụ của mình ngày xưa. Ông đã được phong làm Thượng quốc công vì những công lao lớn của mình, nhưng ông từ chối phong tước cho bất kỳ ai. Khi quân giặc Hồ đến tấn công, Quốc Tuấn chỉ ra lệnh cho những người giàu có cung cấp lương thực cho quân đội, nhưng không bao giờ phong họ làm quan thực sự, ông giữ gìn danh dự như vậy.
Quốc Tuấn cũng đã soạn sách để động viên tướng sĩ dưới quyền mình, ví dụ như việc Kỉ Tín hy sinh để cứu Hán Cao và Do Vu tự nguyện chịu đòn để cứu Sở Tử. Điều này thể hiện lòng trung đạo của ông.
Trước khi qua đời, ông dặn con rằng:
- Khi ta qua đời, tôi muốn được hỏa táng và xương của tôi được đặt vào một vật tròn, sau đó bí mật chôn dưới vườn An Lạc. Sau đó hãy san lấp đất và trồng cây như bình thường, để người khác không biết nơi chôn và phải làm sao để mau tan đi.
Quốc Tuấn làm lãnh địa Lạng Giang, khi quân Nguyên xâm nhập hai lần, ông liên tục đánh bại chúng. Ông lo lắng rằng sau khi mình qua đời, có thể sẽ có nguy cơ bị đào mộ, và ông đã nghĩ về điều đó.
Ông lại tài tình trong việc lựa chọn những người tài năng cho đất nước, như Dã Tượng, Yết Kiêu, họ là các quan trọng của ông, đã tham gia vào việc dẹp Ô Mã Nhi và Toa Đo. Những người như Phạm Ngũ Lão, Trần Thị Kiến, Trương Hán Siêu, Phạm Lãm, Trịnh Dũ, Ngô Sĩ Thường, Nguyễn Thế Trực, đều là những người bạn thân của ông, nổi tiếng với văn chương và chính trị, vì ông có tài lãnh đạo và anh hùng, và luôn giữ trung nghĩa. Ví dụ, khi Thánh Tông nói rằng: “Địch quân mạnh thế này, chúng ta phải đầu hàng”, Quốc Tuấn trả lời: “Nếu bệ hạ muốn chém đầu tôi trước thì hãy làm điều đó trước, sau đó hãy đầu hàng”. Do đó, thời Trùng Hưng đã thiết lập một sự nghiệp hiếm có. Người Bắc gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám nói tên. Sau khi qua đời, nhiều người trong Lạng Giang khi gặp rắc rối hoặc dịch bệnh đều cầu nguyện với ông. Ngày nay, mỗi khi đất nước bị xâm lược, người ta đến thờ ông, và khi kiếm được treo lên thì chiến thắng luôn đến.
Quốc Tuấn đã soạn sách Binh gia diệu lý yếu lược để giảng dạy cho các tướng lĩnh. Ông cũng thu thập các chiến thuật binh pháp của các nhà chuyên môn, tạo ra Bát quái cửu cung đồ và gọi nó là Vạn Kiếp tông bí truyền thư.