Trong cuộc sống, mỗi người đều gắn bó với một hay nhiều nơi mà họ từng sống, đem theo bao kỷ niệm về những người xung quanh. Đôi khi, những kỷ niệm đó chỉ thuộc về riêng mình. Cuộc sống bận rộn thường khiến con người quên đi nơi mình đã từng ở, nhưng đến một lúc nào đó, dù chỉ là một thời gian ngắn, hoặc mãi mãi, họ sẽ nhớ về những nơi đã từng gắn bó. Thời gian càng trôi, kỷ niệm càng sâu sắc. Đối với một số người, đó là niềm hoài niệm, nhưng với người khác, đó là sự tiếc nuối về những kỷ niệm đã qua.
Với tư duy đơn giản, tôi đã sống lâu dài tại Kim Liên, đã chứng kiến nhiều biến động, đã có nhiều đêm thức trắng ôn lại kỷ niệm. Tôi muốn viết cuốn sách này để kỷ niệm những thời khắc đẹp tại đó. Đầu tiên, dành tặng cho những người dân của khu Kim Liên, nếu có lúc họ hoài niệm về quá khứ. Sau đó, tôi muốn chia sẻ câu chuyện của mình và của khu tập thể Kim Liên với mọi người, những ai muốn hiểu sâu hơn về Hà Nội, muốn tìm hiểu về thế hệ trước đó đã sống như thế nào, và những người quan tâm đến lịch sử từ góc độ cá nhân.
Về Tác Giả
Vũ Công Chiến trở nên nổi tiếng sau khi xuất bản cuốn Hồi Ức Lính vào năm 2016 và được trao giải 'Tiểu Thuyết Đầu Tay Xuất Sắc' của Hội Nhà Văn Hà Nội một năm sau. Cuốn sách này được đánh giá là 'một phát hiện thú vị và như một làn gió mới trong văn học', bởi vì ông không phải là một nhà văn chuyên nghiệp, chỉ mới 'tập viết văn' từ khoảng năm 2008. Ông tiếp tục làm nổi bật tên tuổi của mình khi viết cuốn sách về kỷ niệm tại Kim Liên, một khu tập thể có tuổi đời hơn nửa thế kỷ, đưa người đọc vào những kỷ niệm của người Hà Nội, trong đó có cả gia đình của ông.
Về Sách
Ký Ức về Khu Tập Thể Kim Liên - một trong những khu tập thể đầu tiên của Hà Nội, gợi nhớ nhiều kỷ niệm đẹp của những người đã từng sống tại đó.
Vẫn chỉ là cách kể chuyện, nhưng Vũ Công Chiến muốn chia sẻ về một khu tập thể đặc biệt của Thủ Đô trong hơn nửa thế kỷ. Dù có nhiều thay đổi, cuốn sách vẫn là minh chứng cho sức mạnh của tình người và văn hóa cộng đồng trong khu tập thể Kim Liên.
Ký Ức Kim Liên
Năm 1954, miền Bắc Việt Nam được giải phóng.
Một nửa đất nước bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Hà Nội không bị tàn phá trong chiến tranh nhưng vẫn phải trải qua nhiều khó khăn. Trong tinh thần hợp tác toàn cầu, các nước Xã hội chủ nghĩa đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng miền Bắc. Sau chuyến thăm Bắc Triều Tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1958, Triều Tiên đã hỗ trợ Việt Nam xây dựng khu tập thể Kim Liên. Mùa hè năm 1962, khu tập thể Kim Liên đã hoàn thành và đón những cư dân đầu tiên.
Gia đình tôi được vinh dự là một trong những gia đình đầu tiên dọn đến ở khu tập thể Kim Liên theo tiêu chuẩn được phân phối nhà ở của bố tôi. Hè năm 1962, tôi 9 tuổi, vừa học xong lớp một và sắp lên lớp hai.
Gia đình tôi đã chuyển nhà mấy lần từ khi về Hà Nội. Mỗi lần chuyển nhà là một lần tới nhà mới rộng hơn. Vì vậy, mỗi khi nghe có chuyển nhà mới là tôi rất hào hứng.
Đồ đạc không nhiều, nhưng cơ quan của bố tôi đã sắp xếp một chiếc xe Com măng ca để chở đồ lẫn người, giúp gia đình tôi dọn nhà.
Xe ô tô đi qua các con phố, vào đường đất, nhìn thấy xung quanh có dê, có ruộng rau, và cuối cùng rẽ vào một khu nhà cao tầng. Xung quanh nhà có cỏ mọc um tùm, nhiều chỗ cỏ cao hơn cả người tôi. Xe dừng trước một tòa nhà lớn. Quanh nó không có đường, chỉ là đường đất nhỏ được tạo ra do xe ô tô đi qua. Cả nhà xuống xe và mang đồ lên tầng hai. Bố tôi kiểm tra tờ giấy phân nhà và dẫn cả nhà vào căn phòng cuối hành lang. Từ cầu thang rẽ trái, chỉ có hai cửa, gia đình tôi vào cửa thứ hai, nhìn thấy con số 17 - 19. Bố tôi cầm hai chiếc chìa khóa đồng to để mở cửa. Bước vào, thấy có đến 5 cửa nữa. Bố tôi mở cửa căn phòng số 17. Đây là nhà của gia đình tôi, phòng 17 của tòa nhà B9, khu tập thể Kim Liên. Trong nhà rộng rãi, sạch sẽ và thơm mùi vôi mới. Mẹ tôi quét dọn phòng, rồi cả nhà bắt đầu sắp xếp đồ đạc.
…
Mọi thứ đều mới mẻ với tôi. Tôi ngạc nhiên và thích thú trước những điều mới lạ và kích thích trí tò mò ở đây. Tôi nhìn, ngắm, và thậm chí là sờ thử mọi thứ. Căn nhà mới này đẹp và rộng rãi hơn nhiều so với nhà cũ, có cửa sổ và ban công sau nhà. Bố tôi nói chỉ riêng trong nhà đã rộng hơn 20 mét vuông.
Cuộc Sống ở Khu Tập Thể Kim Liên
Cư dân trong khu B sống như một gia đình lớn, gần gũi nhau nhưng vẫn giữ được sự thân thiện như ở quê. Thậm chí, có những gia đình cho trẻ em đi bắt châu chấu mà không cần phải lo lắng về việc tranh giành.
Gia đình tôi thường ăn châu chấu, đến khi mùa chấm dứt và đất được làm bằng phẳng để trồng cây. Không ai gọi đó là sân vì khắp nơi đều là đất trống, chơi ở đâu cũng được.
Những bãi đất giữa các nhà khu B ban đầu là những địa điểm lồi lõm, có nhiều vũng nước đọng. Một thời gian sau, dân cư mới sử dụng đất này để trồng cây và làm vườn. Ví dụ, khu vực giữa B9 và B10 đã trở thành một khu vườn chuối lớn. Đất ở đây rất tốt nên nhiều người đã trồng cây và có nhiều gia đình có vườn chuối riêng.
Thời gian sơ tán
Sau hơn hai năm sống và học tập ở Kim Liên, tôi phải rời xa nơi này. Dù đã quen với mọi thứ nhưng giờ đây phải quay về quê và thích nghi với cuộc sống mới. Dù buồn lòng nhưng không có cách nào khác.
Trong những tháng đầu tiên, không khí trong làng quê tôi vẫn được giữ nguyên, không một chút dấu hiệu của sự di tản, mặc dù có một vài gia đình trong làng đã có trẻ em trở về sau thời gian sơ tán. Đến khi mùa gặt cuối năm đến, một phong trào làm mũ rơm đã bắt đầu. Rơm từ cánh đồng được đem về, thả ra và xe lại được dùng để bện mũ rơm. Cuộn rơm được bện thành hình dáng của mũ, có vành rộng. Cả quá trình làm mũ rơm được thực hiện một cách cẩn thận. Mọi người trong làng đều tham gia vào việc bện mũ rơm cho cả trẻ em và người lớn. Sau đó, mũ rơm được mang theo. Chúng tôi có thể đội mũ rơm khi trời nắng hoặc mưa, thay vì đội mũ nón thông thường.
Trong thời gian đó, cả trường học và các gia đình đều phải chuẩn bị hầm trú ẩn để ứng phó khi có máy bay Mỹ xuất hiện. Ở làng quê của tôi, hầm trú ẩn chủ yếu được làm bằng cấu trúc hình chữ A bằng tre, sau đó được phủ bên ngoài bằng rơm trộn bùn và một lớp đất dày. Chỉ có một lối vào duy nhất. Mỗi hầm có thể chứa được khoảng năm đến sáu người. Chúng tôi không đào hầm sâu để tránh nguy cơ ngập nước. Các cán bộ dân quân cũng khuyến khích mọi người làm hầm và đội mũ rơm để bảo vệ an toàn, chỉ sợ bị mảnh đạn của bản thân trúng phải, chứ không sợ bị bom tấn.
Suốt cả năm học đó, làng quê tôi vẫn yên bình. Chỉ có một lần vào năm 1965, một chiếc máy bay Mỹ lạc đến khu vực này. Âm thanh ồn ào của máy bay vẫn còn đọng lại khiến chúng tôi không kịp nhìn thấy nó. Tuy vậy, một số người dân vẫn ngồi ở nhà gác trên cánh đồng và bắn một phát súng lên trời. Quan trọng hơn, các bà lớn tuổi đang làm đồng đã hét lên khi thấy những người mang theo nón trắng phải gỡ nón và ném xuống ruộng để máy bay không thể phát hiện. Sau đó, toàn bộ làng buộc phải từ bỏ áo trắng. Tất cả mọi người, từ trẻ em đến người lớn, nếu có áo trắng đều phải nhuộm lại màu khác, chủ yếu là màu nâu hoặc màu gụ. Những người phụ nữ có nón cũng phải sơn lại màu tối lên nón của mình.
Điều gì đang chờ đợi khu Kim Liên trong tương lai?
Khu Kim Liên đã tồn tại suốt hơn nửa thế kỷ trở lại đây. Trải qua nhiều biến cố, số lượng cư dân ban đầu giảm sút đáng kể. Tại nhà B9, thế hệ đầu tiên gần như không còn ai, chỉ còn một số nhỏ sống tại B9 chẵn. Thế hệ thứ hai, bao gồm chúng tôi, cũng đang dần ra đi. Bên cạnh đó, các gia đình từ miền Nam trở về sau năm 1975, cũng dần chuyển đi. Đa số họ là những người có điều kiện, họ chọn mua đất ở những nơi khác để xây dựng ngôi nhà mới hoặc mua căn hộ chung cư rộng rãi hơn. Điều đáng mừng là thế hệ thứ hai này có nhiều người xuất sắc. Một điều đáng quý là sau khi ra đi, hầu như mọi người đều quay lại thăm lại Kim Liên khi có cơ hội. Đó giống như những người rời xa quê hương nghèo khó để đi kiếm sống xa xứ, nhưng không bao giờ quên được nơi họ đã sinh ra hoặc đã trải qua một phần tuổi thơ và tuổi trẻ của mình.
…
Kim Liên hiện nay và trong tương lai sẽ thuộc về những người chủ mới. Thế hệ thứ hai, chúng tôi, đa số đã ở độ tuổi trên 70. Chúng tôi đã già lên. Các con cháu của chúng tôi, thế hệ thứ ba của khu tập thể Kim Liên, đã trưởng thành. Và các cháu của họ, thế hệ thứ tư của cư dân Kim Liên, cũng đã nhiều và đang chuẩn bị đi học.
Cả thế hệ thứ ba và thứ tư không biết gì về thời kỳ sơ tán của ông bà, không hiểu về cuộc sống khó khăn và cả những biến cố lịch sử của dân tộc. Họ chỉ biết thông qua sách báo hoặc nghe kể, và ngày càng ít hơn là thấy trong các bảo tàng. Họ muốn một cuộc sống mới, với điều kiện sống hiện đại, không muốn sống trong ký ức của cha ông. Điều này là dễ hiểu.
Họ sẽ dễ dàng chấp nhận một Kim Liên mới, đã được cải tạo và xây dựng lại, hiện đại và đẹp mắt. Tương lai đang chờ đón họ. Chúng ta hy vọng rằng hình ảnh tươi sáng về tương lai sẽ trở thành hiện thực.
Kết luận
Cuốn sách dày 300 trang chứa đựng nhiều câu chuyện về cuộc sống hàng ngày, ký ức vui buồn của khu tập thể đặc biệt này. “Kim Liên một thuở” là một cuốn hồi ký đầy tình cảm của một người con dành cả tuổi thơ và tuổi già cho mảnh đất quê hương. Vũ Công Chiến đã tái hiện lại Kim Liên những năm 60 một cách sống động và chân thực. Cuốn sách không chỉ dành cho cư dân Kim Liên, mà còn là tài liệu quý báu cho những ai muốn tìm hiểu về một khía cạnh khác của Hà Nội trong những năm đầu của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Đánh giá chi tiết bởi: Diệu Linh - MyBook