Rất nhiều câu chuyện về những người tí hon đã khiến thế giới ngỡ ngàng. Nhưng không phải ai cũng biết rằng họ thực sự tồn tại. Trong câu chuyện này, họ là những người mượn sinh sống dưới thế giới của con người. Nếu bạn muốn khám phá thế giới thần tiên một cách gần gũi, hãy đến với Những Ai Mượn Một Chút.
#1 Thông Tin Về Cuốn Sách
Tác phẩm Những Ai Mượn Một Chút của tác giả Mary Norton.
Ngôn từ đơn giản cùng cách kể chuyện hấp dẫn đã mang lại cho độc giả cảm giác đáng tin cậy và kinh ngạc về thế giới của những người mượn. Bạn sẽ phải ngạc nhiên trước những cảnh vật mà Mary Norton tái hiện qua từng đoạn văn.
'Bà Homily tự hào về phòng khách của mình: tường được trang trí bằng những mẩu vụn từ các bức thư cũ lượm nhặt từ thùng rác, và bà Homily đã sắp xếp chúng sao cho các dòng chữ viết tay hàng ngang trên giấy trở thành những đường kẻ dọc trên tường, kéo dài từ sàn nhà lên đến trần nhà.'
Dưới gầm nhà bếp, những người nghèo mượn có cả lò nấu ăn, bình nước nóng để sưởi ấm vào mùa đông. Họ tắm trong chiếc chậu cũ chứa patê gan. Chiếc cổng chống chuột thật tinh xảo, xứng đáng được coi là tác phẩm nghệ thuật: 'Ông Pod đã dùng mọi thứ có thể để xây dựng chiếc cổng này - một tấm từ cái bàn nạo pho mát gấp lại, một nắp có lề từ hộp đựng tiền nhỏ, những miếng kẽm vuông có lỗ từ một chậm thức ăn cũ, một chiếc vỉ đập ruồi...'
Tạp chí School Library Journal từng khen ngợi cuốn sách này: 'Lối viết ma mị và hấp dẫn đã thuyết phục được cả trẻ em lẫn người lớn rằng người nghèo mượn có thật.'
Mặc dù nhà văn tài ba Mary Norton đã qua đời nhưng tác phẩm tuyệt vời này của bà vẫn tồn tại và sống động trong hơn nửa thế kỷ qua. Cuốn sách đã được chuyển thể thành phim bốn lần (vào các năm 1973, 1992, 1993, 1997).
Tiểu thuyết Những người nghèo mượn tí hon đã được hãng phim hoạt hình nổi tiếng Ghibli của Nhật Bản chuyển thể thành phim và ra mắt vào năm 2010. Cho đến nay, bộ phim vẫn nhận được sự yêu thích từ khán giả.
Tác phẩm đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá như Giải Carnegie Medal, Giải Thưởng Sách A Liews Carroll Shelf, Sách Ưa Thích của Hiệp Hội Thư Viện Trường Học.
Marry Norton là một nhà văn nổi tiếng người Anh. Bà lớn lên trong một tòa nhà cổ kính từ thời kỳ Georgia, nơi khung cảnh bí ẩn của tuổi thơ đã truyền cảm hứng cho bà sáng tác series Những người vay mượn tí hon. Mặc dù văn chương chỉ là nghề làm thêm của bà, nhưng lại trở thành sự nghiệp được biết đến với danh tiếng Marry Norton. Bộ tác phẩm Những người vay mượn tí hon là tác phẩm lớn nhất của bà.
#2 Những người vay mượn tí hon
Bà May là người đầu tiên kể cho tôi nghe về họ. Không, không phải là tôi. Làm sao có thể là tôi - một cô bé ngổ ngáo, nghịch ngợm, hậu đậu, luôn nhìn chằm chằm với đôi mắt tức giận, và còn bị cho là nghiến răng? Kate, cô bé nên được gọi là thế. Đúng, chính xác là Kate. Dù sao đi nữa thì cái tên ấy cũng không quan trọng lắm: cô bé hầu như không xuất hiện trong câu chuyện.
Bà May sống trong hai căn phòng của ngôi nhà của gia đình Kate ở London; tôi nghĩ rằng bà ấy có liên quan gì đó đến gia đình. Phòng ngủ của bà ở tầng hai, còn phòng khách của bà là nơi được gọi là “phòng ăn sáng”. Thường thì phòng ăn sáng luôn ấm áp vào buổi sáng, khi ánh nắng mặt trời chiếu sáng lên bánh mì nướng và mứt, nhưng vào buổi chiều, chúng dường như tan biến và chìm vào ánh sáng mờ mờ, ánh chiều tàn của chúng; lúc đó chúng mang một loại buồn buồn riêng, nhưng thời Kate còn bé, đó lại là loại buồn mà cô bé thích. Cô thường lẻn vào phòng của bà May trước khi bà uống trà chiều và bà May thường dạy cô cách đan lát.
Bà May đã già, các khớp xương của bà đã cứng cỏi, nhưng bên trong bà vẫn vững vàng. Kate không bao giờ “ngổ ngáo” với bà May, cũng không nghịch ngợm, không hậu đậu; còn bà May thì dạy cho cô nhiều hơn là đan lát: cách gói len thành quả trứng, cách dọn dẹp tủ kéo và cách phủ một tấm giấy lụa sạch sẽ lên đồ đạc để tránh bụi bẩn.
“Tại sao im lặng thế, cô bé?” một hôm bà May hỏi, khi Kate ngồi im lặng trên chiếc gối. “Sao rồi cô? Mất tiếng à?”
“Không ạ,” Kate vừa nói vừa kéo nút giày, “cháu để lạc que đan rồi.” Họ đang đan một chiếc chăn trải giường bằng các ô vuông nhỏ từ len: vẫn còn phải đan ba mươi ô vuông nữa. “Cháu biết mình để nó ở đâu,” cô bé nói nhanh nhẹn, “cháu đã để nó ở ngăn dưới cùng trên giá sách bên cạnh giường.”
“Ở ngăn dưới cùng ư?” bà May nhắc lại, cây kim của bà vẫn vẩy đều trong ánh lửa. “Gần sàn nhà à?”
“Vâng,” Kate nói, “nhưng cháu tìm trên sàn nhà rồi. Dưới cái thảm. Khắp mọi nơi. Len thì vẫn còn đó. Đúng chỗ cháu đã để.”
“Ôi trời,” bà May nhỏ giọng, “không lẽ họ cũng ở trong ngôi nhà này chứ!”
“Ai cơ ạ?” Kate hỏi.
“Những Người Vay Mượn,” bà May nói, và trong bóng tối bà trông như đang mỉm cười.
Kate nhìn chằm chằm, cảm thấy một nỗi sợ hãi nhỏ nhẹ hiện ra trong lòng. 'Có những điều như vậy ư?' cô bé tự hỏi sau khoảnh khắc.
'Như thế nào?'
'Như con người, những người khác biệt, sống trong một tổ ấm và... sử dụng đồ đạc của người khác?'
Bà May đặt chiếc đan xuống. 'Cô nghĩ sao về điều đó?' bà hỏi.
'Cô không biết,' Kate nói trong khi cố giữ vững bước chân. 'Không thể có những người như vậy tồn tại. Nhưng lại có,' cô bé nhìn lên và tiếp tục, '... có những lúc tôi tin chắc là có.'
'Tại sao cô tin chắc là có?' bà May hỏi.
“Vì tất cả những thứ đã biến mất. Ví dụ như cả bình nước lọc. Các cửa hàng vẫn cung cấp bình nước lọc, và mỗi ngày chúng ta vẫn mua bình nước lọc đó nhưng tại sao khi cần thiết lại không thể tìm thấy bình nước lọc nào? Chúng đã đi đâu hết? Làm sao có thể không thấy chúng đâu?” cô bé tiếp tục nói.
“Không thấy chúng ở nhà đâu, phải không?” bà May đồng ý.
“Và tất cả các vật phẩm khác mà chúng ta thường xuyên mua. Làm sao có thể quên bút bi, hộp diêm, bật lửa, hoặc cả kẹp tóc, đinh ghim...”
“Và cả những chiếc kẹp mũ,” bà May thêm, “cùng với giấy thấm.”
“Vâng, giấy thấm,” Kate gật đầu, “nhưng không có kẹp mũ.”
“Chắc cháu nhầm rồi đó,” bà May nói, tiếp tục công việc đan móc. “Có một lý do đặc biệt cho việc sở hữu kẹp mũ.”
Kate nhìn chằm chằm. “Có một lý do?” cô bé nhắc lại. “Ý cháu là... có lý do gì vậy?”
“Ừ, thực ra có hai lý do. Kim kẹp mũ là một vũ khí cực kỳ hữu ích và” - bà May tự nhiên cười - “nhưng tất cả đều có vẻ như rất vô lý và” - bà ngập ngừng - “điều đó đã xảy ra từ rất lâu!”
“Nhưng bà kể cho cháu nghe đi,” Kate nói, “kể cho cháu nghe làm sao bà biết về kim kẹp mũ. Bà đã từng nhìn thấy cái nào chưa?”
Bà May giật mình liếc nhìn cô bé. “À có, có...” bà bắt đầu.
“Không phải kim kẹp mũ,” Kate kêu lên nôn nóng, “mà là một người-gì-gì-đó-như-bà-đã-gọi-họ, một Người Vay Mượn ấy ạ?”
Bà May hít một hơi thật mạnh. “Không,” bà nói nhanh, “ta chưa bao giờ nhìn thấy người nào cả.”
“Nhưng đã có người khác nhìn thấy,” Kate la lên, “và bà biết điều đó. Cháu có thể thấy bà biết!”
“Im đi,” bà May nói, “đừng cần phải hét lên thế!” Bà nhìn xuống khuôn mặt đang ngẩng lên, rồi bà mỉm cười và ánh mắt bà trượt ra phía xa xăm. “Ta có một người em trai...” bà bắt đầu một cách lưỡng lự.
Kate quỳ trên chiếc gối. “Và ông ấy đã nhìn thấy họ!”
“Ta không biết,” bà May lắc đầu nói, “ta thật sự không biết!” Bà trải đều miếng len đan trên đầu gối. “Nó luôn đùa cợt. Nó kể cho chúng ta nhiều chuyện - em gái ta và ta - những chuyện không có thật. Nó qua đời rồi,” bà nhẹ nhàng nói thêm, “nhiều năm trước đây, ở tỉnh Biên giới Tây Bắc. Nó đã trở thành đại tá trung đoàn. Nó qua đời theo cách mà người ta gọi là ‘sự hy sinh của người anh hùng’...”
“Ông ấy là người anh em trai duy nhất của bà à?”
“Đúng vậy, và nó là em út của chúng ta. Ta nghĩ đó là lý do vì sao” - bà suy nghĩ một lát, vẫn đang tự mỉm cười với mình - “đúng vậy, vì sao nó lại kể cho chúng ta những câu chuyện không có thật, những tưởng tượng kỳ lạ như vậy. Nó ghen tị, ta nghĩ như vậy, vì chúng ta lớn hơn nó - và đọc thạo hơn. Nó muốn gây ấn tượng với chúng ta; có thể nó muốn làm chúng ta sửng sốt. Nhưng thế nhưng” - bà nhìn vào bếp lửa - “có cái gì đó ở nó - có thể bởi vì chúng ta đã lớn lên tại Ấn Độ với những bí ẩn, phép màu và huyền thoại quanh mình - cái gì đó đã khiến chúng ta nghĩ rằng nó nhìn thấy những điều mà người khác không thể nhìn thấy được; có những lúc chúng ta biết rằng nó đang trêu đùa, nhưng cũng có những lúc khác - ừm, chúng ta cũng không chắc chắn lắm...” Bà cúi người về phía trước và gọn gàng quét tro vụn dưới ghi lò, rồi tay vẫn cầm chổi, bà lại nhìn chằm chằm vào đống lửa. “Nó không phải một cậu bé khỏe mạnh lắm: lần đầu tiên khi trở về từ Ấn Độ nó đã bị sốt do thấp khớp. Nó lỡ cả một học kỳ và bị đưa về nông thôn để hồi phục. Đến nhà một bà dì. Sau này ta cũng đã đến đó. Đó là một ngôi nhà cổ kỳ lạ...” Bà treo chổi lên cái móc bằng đồng, lau bụi trên tay bằng chiếc khăn mùi soa, rồi cầm miếng đan lên. “Phải châm đèn lên thôi,” bà nói.
“Đã khoan,” Kate nằn nì, cúi người về phía trước. “Xin bà tiếp tục đi. Xin bà kể cho cháu...”
“Nhưng ta đã kể cho cháu rồi mà.”
“Không, chưa. Căn nhà cổ ấy - đó có phải là nơi ông ấy đã thấy - ông ấy đã nhìn thấy...?”
Bà May cười. “Nơi mà nó đã thấy Những Người Vay Mượn? Đúng vậy, đó là điều mà nó đã kể cho chúng ta... điều mà nó muốn chúng ta tin. Và không chỉ thấy họ, nó còn biết rất rõ về họ; thực sự, có vẻ như không chỉ nhìn thấy họ mà nó còn trở thành một phần trong cuộc sống của họ; thực tế, ta gần như có thể nói chính nó đã trở thành một Người Vay Mượn...”
“Ôi, kể cho cháu đi, cháu xin bà. Bà cố gắng nhớ đi. Ngay từ đoạn đầu ấy!”
“Nhưng ta vẫn nhớ rõ đấy,” bà May nói. “Kỳ lạ ở chỗ là ta nhớ nó rõ hơn nhiều chuyện thật đã xảy ra. Có thể đó là sự thật. Chỉ là ta không biết thôi. Cháu có biết không, trên đường trở lại Ấn Độ, em trai ta và ta ở chung một khoang tàu - em gái ta thường ngủ với cô gia sư - và, trong những đêm nóng nực đó, thường xuyên chúng ta không thể ngủ được; lúc đó em trai ta lại nói chuyện hàng giờ đồng hồ, nhắc lại những câu chuyện cũ, kể lại các cuộc trò chuyện, kể đi kể lại cho ta các chi tiết - tự hỏi họ có khỏe không, đang sống ra sao và...”
“Họ? Họ là ai - chính xác họ là ai?”
“Homily, Pod và Arrietty nhỏ bé.”
“Pod?”
“Đúng vậy, ngay cả tên của họ cũng thật kỳ lạ. Họ nghĩ rằng họ có tên riêng của mình - khá khác biệt so với tên của loài người - nhưng chỉ cần nghe qua ta cũng có thể thấy chúng đã được mượn. Ngay cả tên của bác Hendreary và Eggletina. Tất cả những gì họ có đều là vay mượn; họ không có bất kỳ cái gì là của riêng họ cả. Không có gì. Tuy nhiên, em trai ta nói họ rất dễ tự ái và kiêu ngạo, và họ nghĩ rằng họ sở hữu cả thế giới.”
“Ý bà là sao?”
“Họ nghĩ rằng loài người chỉ được tạo ra để làm công việc nặng nhọc - những kẻ nô lệ khổng lồ sinh ra để họ sử dụng. Ít ra họ nói vậy với nhau. Nhưng em trai ta nói rằng dưới vẻ bề ngoài đó, nó nghĩ họ sợ hãi. Vì họ sợ hãi, nó nghĩ, cho nên họ mới trở nên nhỏ bé như thế. Mỗi thế hệ lại bé hơn và ẩn khuất hơn. Ngày xưa, dường như vậy, và ở nhiều nơi trên nước Anh, tổ tiên chúng ta đã nói rất rõ về những ‘người tí hon’.”
“Vâng,” Kate nói, “cháu hiểu.”
“Ngày nay, ta cho rằng,” bà May chậm rãi tiếp tục, “nếu họ còn tồn tại, ta cũng chỉ có thể tìm thấy họ trong những ngôi nhà cũ kỹ và yên bình ở vùng quê xa xôi - nơi mà con người tuân theo quy tắc thông thường. Quy tắc thông thường là điều bảo vệ họ. Họ phải biết phòng nào sẽ được sử dụng và khi nào. Họ không ở lâu ở những nơi có người lơ là hay có trẻ con nghịch ngợm, hoặc có một số loại thú nuôi cụ thể.
“Ngôi nhà đặc biệt đó, tất nhiên, là lựa chọn lý tưởng - tuy rằng đối với một số trong số họ, nó có vẻ hơi lạnh lẽo và trống trải. Bà dì Sophy phải nằm trên giường, do một tai nạn khi đi săn khoảng hai mươi năm trước, và chỉ có bà Driver làm bếp, Crampfurl chăm sóc vườn, và đôi khi có một người hầu không thường xuyên hay cái gì đó. Em trai ta, khi nó đến sau khi bị sốt do viêm khớp, cũng phải nằm hàng giờ trên giường, và trong những tuần đầu, có vẻ như Những Người Vay Mượn không biết đến sự tồn tại của nó.
“Nó ngủ trong căn phòng trẻ con cũ, phía sau phòng học. Phòng học trước đây được đầy đồ lặt vặt - những hòm linh tinh, một chiếc máy khâu hỏng, một bàn viết, một con ma-nơ-canh của thợ may, một cái bàn, vài cái ghế, và một cây đàn piano không còn được sử dụng nữa - vì những đứa trẻ từng sử dụng phòng này, con cái của bà dì Sophy, đã lớn lên từ lâu, đã kết hôn, đã qua đời hoặc chuyển đi chỗ khác. Căn phòng trẻ con mở ra phía phòng học, và từ giường của em trai ta, nó có thể nhìn thấy bức tranh sơn dầu trận Waterloo treo trên lò sưởi phòng học và, ở trên tường, một chiếc tủ kính, và bên trong tủ, treo trên móc và giá, là một bộ ấm trà của búp bê - rất dễ vỡ và cũ. Ban đêm, nếu cửa phòng học mở, nó có thể nhìn thấy đèn dẫn đường dọc hành lang dẫn đến đầu cầu thang, và nó cảm thấy an lòng khi nhìn thấy, vào lúc hoàng hôn, bà Driver xuất hiện ở đầu cầu thang và đi ngang qua mang theo một khay bánh bích quy Bath Oliver và bình pha lê cao đựng rượu vang Fine Old Pale Madeira cho bà dì Sophy. Khi đi ra, bà Driver dừng lại và vặn nhỏ đèn khí ga trong hành lang cho đến khi chỉ còn là ngọn lửa xanh mờ, và sau đó nó nhìn theo khi bà đi cồm cộp xuống cầu thang, từ từ chìm xuống khuất khỏi tầm nhìn giữa những bậc cầu thang.
“Dưới lối đi này, trong hành lang tầng dưới, có một chiếc đồng hồ, và suốt đêm nó nghe tiếng đồng hồ đánh mỗi giờ qua. Đó là một chiếc đồng hồ quả lắc to và rất cũ. Ông Frith từ thị trấn Leighton Buzzard đến mỗi tháng để lên giờ, như bố ông và ông bác của ông đã làm trước đó. Trong tám mươi năm, họ nói (và đây là điều mà ông Frith chắc chắn biết) chiếc đồng hồ chưa bao giờ ngừng lại và, như mọi người đều biết, cả nhiều năm trước đó. Điều thú vị là - chiếc đồng hồ chưa bao giờ được phép di chuyển đi. Nó đứng sát bức tường, và các viên đá lát sàn xung quanh nó đã được lau nhiều đến nỗi có một cái bệ nhỏ, em trai ta kể, nhô lên ở bên trong.
“Và, dưới chiếc đồng hồ ấy, dưới cái ván ốp, có một cái lỗ...”