Đã từng có một thời, con người xưa tìm đến những thú vui tao nhã như thưởng trà, thả thơ, ngắm cảnh thu muộn trong khu vườn nhỏ,... để tìm lại sự tĩnh lặng trong tâm hồn mình. Nhưng khi làn sóng “văn minh vật chất phương Tây' bắt đầu du nhập vào nước ta, những thú chơi đậm đà bản sắc dân tộc ấy đứng trước nguy cơ phai tàn và quên lãng. May thay, có người vẫn nâng niu và lưu luyến, tiếc thương những lối sống xưa, không đành để vẻ đẹp của chúng phai nhạt, trong số đó có nghệ sĩ ngôn từ Nguyễn Tuân. Trong Những Kỷ Niệm Ngọt Ngào, những thú vui xưa và những câu chuyện bi hùng khác như Chữ người tử tù, Chém treo ngành, Báo oán được sống lại lần nữa. Qua ngòi bút và văn phong duy mỹ của Nguyễn Tuân, khó ai có thể cưỡng lại âm vang đẹp đẽ của một thời xưa cũ khi những giá trị văn hoá tinh thần hiện hữu rõ ràng hơn bao giờ hết.
Chén trà trong sương sớm:
Trời rét như cắt. Không kể tiểu hàn, không kể cả đến đại hàn, buổi sớm mùa đông nào, cụ Ấm cũng dậy từ lúc còn tối đất. Từ trên bàn thờ đức Thánh Quan, cụ nhắc cây đèn để xuống. Ðược khêu hai tim bấc nữa, cây đèn dầu sở phô thêm màu xanh lá mạ phủ trên chất sứ Bát Tràng.
La liệt trên chiếu cói cạp điều đã sờn cạnh, cụ ấm đã bày lên đấy khay trà, ống nhổ, ấm đồng và hỏa lò đất. Cái điếu bát vẽ Mai Hạc kêu vang lên một hồi rất dòn, rất đều. Khói thuốc lào đặc sánh lại bao trùm lấy ánh sáng yếu ớt của một ngọn đèn dầu. Rồi làn khói loãng dần biến ra màu nhờ nhờ như làn hơi nước sủi. Sau màn khói, ẩn hiện một ông già chống nạnh bên gối xếp, cặp mắt lim dim như một nhà sư nhập định. Vẻ nghiêm trang lặng thinh của ông già muốn làm ngừng cả áng khói trắng hiếu động đang trôi trong không khí gian nhà gạch. Ba gian nhà, chỉ có một người thức.
Trong cảnh trời đất lờ mờ chưa đủ phân rõ phần đêm và phần ngày, ông cụ Ấm có cả phong thái một triết nhân ngồi rình bước đi của thời gian.
Đêm đông kéo dài không biết khi nào mới kết thúc. Nó vô tận và rời đi rất chậm chạp.
Gió bấc thổi qua những kẽ cửa, âm thanh của những tiếng gà chưa thể chịu đựng với bóng tối. Bên ngoài, bóng đêm bao trùm những bước chân nặng trĩu. Cuộc sống dần dần trở lại với tình thế thức tỉnh.
Cụ Ấm quạt mạnh bên cạnh lửa bếp. Hòn than nhỏ bật lên, âm thanh phát ra vô cùng vui tai. Lửa không tuân thủ một quy tắc nhất định, tự do biến đổi thành những hình dáng khác nhau. Khi có các cháu nhỏ ở bên, cụ Ấm thường hỏi liệu chúng có thích cảm giác của pháo hoa không.
Những hòn than cháy rực, màu đỏ phát sáng, những tia lửa xanh nhấp nhô xung quanh. Không khí trở nên sôi động hơn với ánh sáng của ngọn lửa. Lửa trở thành một khối đỏ rực và trong suốt như thỏi vàng chảy.
Đôi khi, hòn than tự cháy và phát ra âm thanh nhỏ nhẹ. Sau đó, hòn than hết khả năng cháy. Bây giờ, nó chỉ còn là một ngọn lửa nhỏ trong tro tàn trắng. Cụ Ấm vuốt nhẹ tóc bạc, quay đom đóm trong lò, lắng nghe tiếng nước sôi trong ấm đồng. Cụ Ấm thở dài như khi gặp lại người thân sau một khoảng thời gian dài chờ đợi.
Cụ Ấm thở nhẹ nhàng, giống như khi gặp lại người thân yêu sau một khoảng thời gian dài chờ đợi.
Cụ nhẹ nhàng nâng chiếc vải tây từ trên khay trà gỗ khắc có chân quỳ. Khoan thai, cụ Ấm lấy đĩa dầm, chén tống và chén quân ra khỏi khay. Khi đến lượt ấm trà, cụ chú ý hơn. Ngắm nhìn chiếc ấm màu đỏ da chu, bóng mượt mà không một vết nứt. Dáng ấm hình quả sung, được thợ nung Tàu tạo hình cẩn thận. Cụ Ấm thử sờ vào bề mặt ấm độc ẩm, như muốn tìm kiếm một chút gợn trên đất nung để thấy thỏa mãn hơn.
Nước đã sôi kỹ rồi. Nhưng thói quen cũ vẫn khiến cụ Ấm rót một ít nước xuống đất để kiểm tra xem đã sôi chưa. Điều này là bước khởi đầu cho những công việc nhỏ trong ngày của ông già, nhưng cái mà cụ sợ nhất vẫn là ấm trà Tàu sẽ bị hỏng vào sáng mai.
Từ trên bàn trà, nước sôi trút mạnh xuống đất, phát ra tiếng kêu lộp bộp.
Trên bếp than, cụ đặt thêm một ấm đồng khác. Những người uống trà giống cụ Ấm thường luôn có ít nhất hai ấm đồng đun nước. Mỗi khi một ấm nước sôi được đưa ra khỏi bếp, một ấm khác đã sẵn sàng trên lửa. Hai ấm đồng này luôn thay phiên nhau trên bếp than, để bất kỳ lúc nào cũng có nước sôi đủ nóng để pha trà.
Tuy nhiên, hiếm khi cụ Ấm uống trà Tàu một cách thất thường như vậy. Với ông, chỉ cần hai chén là đủ. Nhưng những chén đó đã được cụ chăm sóc rất kỹ lưỡng.
Cụ cầm chén trà như cầm lấy những giọt sương mai. Khi uống trà, ông ấy chẳng bao giờ vội vã, mà luôn thưởng thức từng giọt trà một cách tận hưởng.
Không có y khoa không làm việc.
Một sáng, thấy thầy vui vẻ, tôi đã xin phép đọc để quan Ðốc chữa bài nói thơ.
Mỗi tuần sáng một lần trà.
Buổi tối muộn, uống một ít rượu.
Mỗi ngày, mỗi lúc như vậy,
Thầy dùng thuốc từ xa đến nhà tôi.
Cụ Ðốc tạm thôi là đủ.
Sáng nay, cụ Ấm cũng ngâm thơ. Cụ tin rằng ngâm thơ khi yên bình, khi mới thức giấc là cách tốt nhất để kích hoạt tinh thần trong mỗi người sống bằng tâm hồn. Mỗi buổi sáng ngâm thơ như vậy đủ để loại bỏ những gánh nặng trong tâm trí và chào đón sự trong lành đầu tiên của thiên nhiên. Đó cũng là một niềm tin về sức khỏe của người xưa. Và người xưa uống trà để bảo vệ sức khỏe của họ.
Thường xuyên tự hỏi mình để tự sửa mình vào những giờ uống trà tàu, cụ Ấm thường nhớ đến câu nói cổ xưa của thầy Tăng Tứ: “Ngủ sớm ba giờ, thức sớm mười phút”.
Trong nhà của cụ Ấm, mọi người đã tỉnh giấc. Cụ Ấm cũng bắt đầu ho. Hình như trước đó, cụ đã cố nén hơi thở để không ho, lo sợ làm mất đi khoảnh khắc yên bình và lạ kỳ của sự chuyển đổi giữa đêm và ban ngày.
Đứa con trai lặng lẽ lại đề nghị cha già và ngồi gần bên thành cái sập cũ. Anh ta vung quạt, kéo lò ra một bên, quạt mạnh để than khí tỏa hết.
– Thầy đã uống xong rồi. Con pha trà cho mình uống đi. Trà vẫn còn thơm lắm đấy.
Câu này thừa rồi. Sớm nào cha con ông Ấm cũng dậy sớm uống trà, cha luôn uống trước hai chén và con trai cả uống sau, thường là ba chén. Sáng nay, như mọi ngày, cụ Ấm lại yêu cầu người trưởng nam mở tập Cổ Văn đọc lại bài “Trà Ca” của Lư Ðồng. Bài văn viết rất hay. Lối cổ điển của nó thật sâu sắc, nhưng cụ Ấm còn đọc thêm đoạn cuối của câu thơ trên xuống câu dưới, với một chút ngâm ngẩm và dài dòng. Hai cha con uống trà như thể là thầy trò trong một buổi học sáng sớm. Ông Ấm vẫn nói mãi về trà tàu, và ông cụ Ấm còn lấy cả tập” Vũ Trung Tùy Bút” ra, giảng những đoạn tinh hoa của tác giả - ông Quốc Tử Giám Tế Tửu Phạm Ðình Hổ – một cách sâu sắc và khen ngợi về trà tàu. Sau đó, cụ Ấm thở dài về mùa thu đã qua, về sen hồ rách và lá rụng hết.
– Ông ơi, thầy cho rằng không gì có mùi thơm tự nhiên bằng nước đọng trong lá sen. Mỗi lá chỉ có một ít thôi. Phải chừa cạn nhiều lá mới đủ cho một ấm trà. Khi thầy còn trẻ, mỗi lần được quan Ðốc dạy nhặt giọt sương ấy trên lá sen mặt đầm, thầy cho là điều kỳ diệu nhất trong cuộc đời một người học trò được thầy yêu quý như con.
Trong gia đình của cụ Ấm, gần đây họ đã tiếp tục phong tục uống trà. Một thời gian trước, khi buồn phiền quá, cụ Ấm đã cất bộ đồ trà vào tủ, nghĩ rằng họ sẽ không bao giờ sử dụng nó mỗi ngày nữa.
Nhưng cuối cùng, thiên nhiên cũng ban phước cho họ. Năm nay, cụ Ấm được mùa cả hai vụ.
– Thưa ông, tôi đi mua ít trà Lý Tú Uyên để dự trữ. Năm nay tôi ướp thêm vài chục chai để dành. Sen nhà, năm nay thu hoạch được nhiều lắm. Tôi và cụ Kép ở xóm dưới mua chung! Ngày mai thì tách rợ hoa hết phần vỏ. Các củ sen hoa kép sẽ được dùng để ướp trà.
– Thưa ông, tôi nghĩ trà nên để tự nhiên hương của nó. Tôi thấy ông nội nhà tôi không bao giờ ướp trà mới, chỉ là với những loại hoa thơm. Ông nội tôi nói chỉ nên ướp trà khi nào trà đã mất hương hoặc gần hết hạn sử dụng.
Bầu trời dần sáng. Tia nắng rực rỡ tỏa sáng qua những tán cây, làm nhấp nhô từng chiếc lá rơi dần.
Mặc kệ sợi khăn mặc mạo phức tạp, ông Ấm đã lấy gậy và bước ra ngoài.
Quay lại, ông dặn con trai đang lau khay trà:
– Thầy vào thăm một bệnh nhân già ở làng bên. Bệnh này cần nhiều sâm. Thầy sẽ ở đó cả ngày, vì phải chuẩn bị thuốc cho bệnh nhân.