
Tâm lý con người luôn là một lĩnh vực mà các nhà khoa học và kinh tế học đã nghiên cứu trong nhiều năm qua . Khi đối diện với sự không chắc chắn - về việc đầu tư, con người hay bất cứ điều gì khác - tâm trí quyết định bằng cách nào? Nó xử lý bằng chứng như thế nào - từ một trận đấu bóng chày, báo cáo lợi nhuận, thử nghiệm, buổi khám bệnh hay cuộc hẹn hò? Tại sao tâm trí con người được cho là chuyên gia - lại khiến họ có những đánh giá sai lầm có thể bị lợi dụng bởi những kẻ dám ngó lơ chuyên gia và phân tích dữ liệu? Cuốn sách Logic của Tâm trí của tác giả Michael Lewis sẽ cho bạn câu trả lời thích đáng.
Thiên kiến xác nhận?
Khi đối diện với sự không chắc chắn, tâm trí quyết định bằng cách nào? Bằng số liệu khoa học hay chỉ dựa trên cảm xúc thuần túy? Cuốn sách mở ra một góc nhìn hoàn toàn mới về tâm lý con người. Nếu như trước đây, chúng ta vẫn dựa vào xác suất, thống kê, dữ liệu để dự báo, đưa ra quyết định cho các vấn đề khác nhau trong cuộc sống, thì hai nhà tâm lý học trong cuốn sách lại chỉ ra rằng: dù có sử dụng dữ liệu nhiều đến đâu, con người vẫn luôn bị chi phối bởi cảm xúc, đặc biệt là trong những điều kiện không chắc chắn.
Bạn sẽ chẳng chạm ngưỡng giới hạn mà không bị tổn thương. Tâm trí con người không giỏi nhìn nhận những thứ nó không muốn thấy và hơi quá háo hức muốn thấy những gì mình trông đợi. Có lẽ trò lừa gian trá nhất của tâm trí là dẫn dắt chủ nhân đi tới cảm giác chắc chắn về những điều vốn không hề chắc chắn. Theo một cách lạ lùng nào đó, mọi người, ít nhất là đang đánh giá người khác, đều nhìn thấy những điều mà mình mong đợi và chậm chạp nhìn ra những gì chưa từng thấy. Và nếu định để mọi người quan sát và đánh giá, bạn cũng phải dạy họ đừng quá coi trọng những gì trông thấy. Ta đều bị ảnh hưởng bởi thứ gọi là ‘’ Thiên kiến xác nhận’’, nó là thứ âm ỉ sâu kín nhất bởi bạn còn chẳng biết nó đang diễn ra. Cũng có những thứ người ta gọi là ‘’Thiên kiến hiện tại’’ - khuynh hướng đánh thấp giá trị của tương lai so với hiện tại vào thời điểm đưa ra quyết định. Có cả ‘’Thiên kiến nhận thức muộn’’ - con người có khuynh hướng nhìn vào kết quả nào đó và cho rằng nó có thể dự đoán ngay từ đầu. Giống như một con cá không biết nó đang thở dưới nước trừ khi có ai nói với nó.

Tâm lý học hành vi
Vào đầu thập niên 1950, rất nhiều nhà tâm lý học cứ khăng khăng cho rằng bộ môn này phải tuân theo các chuẩn mực của khoa học đã từ bỏ tham vọng nghiên cứu những vận động nội tại của tâm trí con người. Nếu bạn không thể quan sát điều đang xảy ra trong đầu mình thì làm sao có thể giả vờ nghiên cứu về nó? Điều đáng để khoa học quan tâm - và có thể nghiên cứu một cách khoa học - chính là hành vi của các sinh vật sống. Trường phái tư duy nổi trội này được gọi là tâm lý học hành vi. Các nhà tâm lý học hành vi giả định điều họ khám phá về chuột và bồ câu đều có thể áp dụng cho con người - đối tượng khó tiến hành các thí nghiệm vì nhiều lý do. Tiếc rằng khoa học hành vi này vẫn chưa thành công trong việc kiểm soát cảm xúc như khi nó định hình hành vi, sự lôi cuốn của tâm lý học hành vi nằm ở chỗ khoa học tỏ ra rõ ràng: tác nhân kích thích có thể có thể được quan sát, các phản ứng có thể được ghi lại. Nó có vẻ khách quan, nó không dựa vào chuyện người này nói với người khác về suy nghĩ hay cảm nhận của mình. Tất cả những thứ quan trọng đều có thể quan sát và đo lường.
Nhà tâm lý học của trường phái Gestalt đã dành cả sự nghiệp khám phá các hiện tượng thú vị và thể hiện chúng bằng sự tinh tế tuyệt vời: ánh sáng sẽ chói hơn khi xuất hiện trong màn đêm, màu xám trông như màu xanh lục khi được bao quanh bởi màu tím và sẽ giống màu vàng nếu nếu quanh nó là màu xanh dương, nếu bạn bảo một người ‘’Đừng giẫm lên con cá chuối đó’’ thì chắc chắn anh ta sẽ tin là bạn nói từ ‘’vỏ chuối’’ chứ không phải ‘’cá chuối’’. Những người theo trường phái Gestalt chỉ ra rằng không có mối quan hệ rõ ràng giữa bất kỳ tác nhân kích thích bên ngoài nào với cảm giác mà nó tạo ra ở con người, vì tâm trí đã can thiệp theo nhiều cách lạ lùng. Danny đặc biệt bị tác động bởi cách các nhà tâm lý đưa độc giả đến với trải nghiệm thông qua những bài viết của mình, để họ có thể tự cảm nhận về những vận động nội tại bí ẩn trong tâm trí: Nếu vào một đêm trời quang mây tạnh, chúng ta ngước lên nhìn trời cao, một số ngôi sao ngay lập tức như đang hòa vào nhau và tách rời khỏi ngôi trường xung quanh.
Tâm lý học là một bữa tiệc tối ồn ào, ở đó, mỗi vị khách nói một phách mà cứ nghĩ đang cùng nói về một thứ và thay đổi chủ đề chóng mặt. Tâm lý học không giống như vật lý hay kinh tế học, nó không csos một lý thuyết đủ sức thuyết phục để làm căn cứ thiết lập, hay một bộ quy tắc thảo luận được chấp nhận chung. Các nhân vật hàng đầu của bộ môn này có thể và thực sự đã nói về công trình của những nhà tâm lý học khác. Về cơ bản, những gì bạn đang làm và đang nói hoàn toàn là nhảm nhí, không hề có bất cứ tác động rõ ràng nào lên hành vi của các nhà tâm lý học.
Một quả chuối và một quả táo có vẻ giống nhau?
Họ nói màu đỏ tươi tương tự màu đỏ, nhưng màu đỏ đó lại không giống màu đỏ tươi. Người ta thấy số 103 cũng khá giống số 100 nhưng số 100 đó lại không giống số 103. Mọi người thường cho là con trai giống bố, nhưng nếu bạn hỏi người bố có giống con trai không thì họ lại trả lời bạn với ánh mắt kỳ lạ. Khi mọi người so sánh thứ này với thứ khác - hai con người, hai địa điểm, hai con số, hai lý tưởng - họ không chú ý nhiều đến sự đối xứng thật ra là họ đếm tất cả những đặc điểm chung nổi bật ở cả 2 đối tượng: Càng nhiều điểm chung, chúng càng tương đồng, càng ít điểm chung chúng càng khác biệt. Không phải tất cả các đối tượng đều có cùng số lượng đặc điểm nổi bật.
Khi tiến hành so sánh hai thứ, nếu tâm trí chỉ đếm tất cả những đặc điểm nó nhận thấy ở mỗi đối tượng, nó cũng có thể ngay lập tức đánh giá những thứ đó giống và khác nhau nhiều hơn so với một số cặp đối tượng khác. Yêu và ghét, vui và buồn, nghiêm túc và lố lăng. Khi người ta chọn cà phê thay vì tà và chọn trà thay vì socola nóng, rồi quay lại chọn socola nóng thay vì cà phê - họ đang không so sánh hai thứ đồ uống một cách tổng thể. Sự lựa chọn đã tạo ra bối cảnh của riêng mình: Những đặc điểm khác nhau có thể nổi bật hơn trong tâm trí khi cà phê được so sánh với trà so với lúc nó được so sánh với socola nóng. Điều gì đúng với đồ uống cũng có thể đúng với con người, ý tưởng và cảm xúc.
Niềm tin ở quy luật số nhỏ
Mọi người thường nhầm lẫn một phần rất nhỏ của sự vật với tổng thể. Ngay cả các nhà thống kê cũng có khuynh hướng vội đưa ra kết luận từ số lượng bằng chứng ít ỏi. Họ tư tin ngay cả khi không nhận thức được niềm tin ấy - rằng bất kỳ mẫu nhất định một của một tổng thể lớn cũng đều mang tính tiêu biểu cho tổng thể ấy nhiều hơn mức độ sự thật của nó. Sức mạnh của niềm tin có thể được nhìn nhận theo cách con người tư duy về các mẫu hình hoàn toàn ngẫu nhiên - giống như khi tung đồng xu chẳng hạn. Mọi người biết rằng một đồng xu tung lên có xác suất sấp ngửa như nhau. Nhưng họ cũng nghĩ một đồng xu tung lên chỉ vài lần có xác suất ngửa giảm đi một nửa so với khi được tung lên chỉ vài lần - một lỗi được cho là ngụy biện của con bạc. Ngay cả đồng xu công bằng nhất, với những hạn chế nhất định về trí nhớ và ý thức đạo đức, cũng không thể công bằng như con bạc mong đợi.
Ngay cả những người được đào tạo về thống kê và lý thuyết xác suất đều không thể cảm nhận một mẫu nhỏ có thể biến thiên nhiều hơn tổng thể chung như thế nào - và mẫu càng nhỏ thì càng khó được tổng thể lớn hơn. Họ cho rằng mẫu sẽ tự điều chỉnh cho đến khi nó phản ánh tổng thể mà nó được rút ra từ đó. Nếu tâm trí, vào lúc đang thực hiện các phán đoán khả năng về một thế giới bất định, không phải là một nhà thống kê trực giác thì là gì? Nếu nó không làm những gì các nhà khoa học đứng đầu nghĩ là nó làm, và lý thuyết kinh tế lại cho là nó có làm, thì chính xác nó có làm thế không?
Quy luật của Tâm trí
Cũng giống như họ chưa bao giờ cố gắng giải thích cách thức tâm trí hình thành các mô hình để củng cố cho kinh nghiệm cảm tính về tính tiêu biểu, họ gần như đã gạt đi câu hỏi tại sao trí nhớ con người hoạt động theo cách thức mà ở đó kinh nghiệm cảm tính về sự sẵn có lạ có sức mạnh khiến chúng ta bị lệch lạc. Họ tập trung hoàn toàn vào các mánh lới khác nhau của tâm trí. Họ cho rằng tình huống con người được yêu cầu phán đoán càng phức tạp và càng sát thực tế thì vai trò của tính sẵn có càng mạnh. Những gì con người làm trong nhiều vấn để đời thực phức tạp - chẳng hạn như khi phán đoán Ai Cập có xâm lược Israel không, hay chồng có bỏ mình để đi theo người phụ nữ khác không - là nhằm xây dựng nên các kịch bản. Những câu chuyện do chúng ta tự nghĩ ra, ăn sâu trong trí nhớ, sẽ thay thế các phán đoán xác suất. “Việc tạo nên một kịch bản hấp dẫn có thể sẽ hạn chế tư duy tương lại”, Danny và Amos viết. “Có nhiều bằng chứng cho thấy, khi đã nhận thức hay hiểu một tình huống không chắc chắn theo cách nào đó, con người sẽ khó nhìn nhận nó theo cách khác”

Quy luật của Dự báo
Nó dẫn dắt chúng ta tin rằng có một thế giới ít bất định hơn thực tế và chúng ta không thông minh bằng thực tế. Vì nếu chúng ta có thể giải thích điều không thể dự báo ở ngày hôm nay vào ngày mai mà không cần thông tin bổ sung nào trừ hiểu biết kết quả thực sự xảy ra, thì kết quả này chắc hẳn đã được xác định trước và chúng ta lẽ ra đã có thể dự báo nó. Việc chúng ta không thể làm được coi là dấu hiệu cho thấy trí tuệ có giới hạn của mình, chứ không phải bất định tồn tại trên thế giới. Rất thường xuyên, chúng ta dẫn vặt bù thân vì không thể đoán trước điều sau này dường như là tất yếu. Nhưng tất cả chúng ta đều biết, mọi dấu hiệu đã an bài ngay từ đầu. Vấn là: Chúng ta có nhận ra không?
Cách nhìn nhận sai về những gì đã xảy ra trong quá khứ khiến khó nhìn nhận những gì có thể xảy ra trong tương lai. Các sử gia, trong con mắt khán giả của mình, dĩ nhiên tự hào về “khả năng” xây dựng giải thích cho các sự kiện từ những mảnh ghép của hiện thực quá khi, khiến chúng có vẻ dự đoán được khi hồi tưởng lại. Khi nhà sử học đã giải thích cách thức và lý do một sự kiện nào đó xảy ra, câu hỏi duy nhất còn lại là tại sao con người trong câu chuyện đó lại không nhìn thấy đều mà sử gia giờ đây có thể nhận ra.
Mọi người sẽ chọn điều họ mong muốn nhất
Con người bị bóng tối bao phủ trở nên cực kỳ nhạy cảm với chút tia sáng le lói đầu tiên, giống như ai đắm chìm trong không gian yên ắng nghe được âm thanh nhỏ nhất, và người ở trong tòa nhà cao phát hiện ra sự lắc lư dù nhỏ nhất. Khi bật đèn, có tiếng động hoặc cử động, con người trở nên nhạy cảm hơn với thay đổi nhỏ. Đối với tiền bạc cũng vậy. Con người cảm thấy vui vẻ khi đi từ con số 0 lên 1 triệu đô-la nhiều hơn khi tăng từ 1 triệu đô-la lên 2 triệu đô-la. Lý thuyết về độ thà dụng kỳ vọng cũng dự báo mọi người nhận phần lợi ích chắc chắn hơn một vụ cá cược đem lại giá trị kỳ vọng của khoản lợi ích thậm chí còn lớn hơn. Họ “e ngại rủi ro”. Nhưng sự “e ngại rủi ro” mà mọi người vẫn gọi đó là gì? Nó đồng nghĩa với khoản phí mọi người sẵn lòng trả nhằm né tránh rủi ro, một khoản phí chống nuối tiếc.
Lý thuyết về độ thỏa dụng kỳ vọng không hẳn là sai. Nó chỉ không hiểu được chính mình, đến mức không thể tự bảo vệ bụ thân trước những mâu thuẫn bề nổi. Danny và Amos viết, thất hạ của lý thuyết này trong việc giải thích các quyết định của con người “chỉ thể hiện những thứ có lẽ nên rõ ràng, rằng những hậu quả nhị tiền tệ của các quyết định không thể bỏ qua, như thường lệ, trong ứng dụng lý thuyết về độ thỏa dụng”. Thế nhưng, họ vẫn không làm thế nào để tích hợp một tập hợp những hiểu biết sâu sắc về đản xúc vào trong một lý thuyết trình bày cách con người đưa ra quyết định rủi ro. Họ đang dò dẫm. Amos thích sử dụng cách diễn đạt mà ông từng đọc ở đâu đó: “chia cắt bản chất đến tận cùng xương tủy”. Họ đang cố gắng chia cắt bản chất con người ra từng phần nhưng những gì tinh túy của cảm xúc thật khó hiểu thấu. Ðó là lý do Amos không thích suy nghĩ hay nói chuyện cụ thể về mộ cảm xúc: ông không thích những thứ khó đo lường. “Đây quả thật là một lý thuyết phức tạp, Danny đã thú nhận trong một bản ghi nhớ. “Trên thực tế, nó bao hàm nhiều tiểu lý thuyết, những thứ được gắn kết khá lỏng lẻo”.

Hiệu ứng cô lập
Dù cảm xúc đó là gì đi nữa, nó cũng trở nên mạnh mẽ hơn khi xác suất trở nên nhỏ hơn. Nếu bạn nói với họ xác suất một phần một tỷ là họ sẽ thắng hoặc thua một đống tiền, họ sẽ hành xử như thể xác suất không phải như vậy mà là một phần mười nghìn. Họ e sợ khả năng tổn thất một phần một tỷ và dồn nhiều hy vọng cho khả năng thắng một phần một tỷ hơn mức cần thiết. Phản ứng cảm xúc của con người đối với xác suất đã khiến họ đảo ngược lại ý thích thông thường của mình đối với rủi ro, trở thành kẻ mạo hiểm khi theo đuổi một lợi ích khó thành hiện thực và tránh rủi ro khi đối mặt với xác suất tổn thất nhỏ. (Đó là lý do họ mua cả xổ số lẫn bảo hiểm). “Nếu bạn chỉ nghĩ về các khả năng thì bạn nghĩ về chúng quá nhiều rồi”, Danny nói. Khi con gái bạn về muộn và bạn lo lắng, nó choán hết tâm trí bạn ngay cả khi bạn biết chẳng có gì phải sợ. Bạn sẽ chỉ nhiều tiền hơn cần thiết để rũ bỏ nỗi lo đó”.
Quy luật hoàn tác
Khi hoàn tác một sự kiện, tâm trí có xu hướng loại bỏ cảm giác ngạc nhiên hoặc bất ngờ - không phải theo quy luật xác suất. Thay đổi thời điểm chỉ cần nhanh hoặc chậm hơn vài giây trong hành trình, người đàn ông và cậu thanh niên có thể tránh tai nạn. Khi hoàn tác, mọi người thường không nghĩ đến điều này. Hủy bỏ phần bất thường của câu chuyện thường dễ hơn. “Cậu có thể khiến bản thân vui vẻ bằng cách hủy bỏ Hitler trong tưởng tượng”, Danny viết. Sau đó, ông thảo luận với Amos về một giai đoạn lịch sử khi tưởng tượng ra Hitler đã thành công với tham vọng ban đầu của hắn, trở thành một họa sĩ ở Vienna. “Bây giờ hãy tưởng tượng ra chuyện khác phản sự thật”, Danny viết. “Chỉ cần nhớ rằng trước khi thụ thai, rất có thể Adolf Hitler là phái nữ. Xác suất cho hắn trở thành một họa sĩ thành công có lẽ không bao giờ quá cao. Tại sao khi đó chúng ta lại chấp nhận một trong các cách tiếp cận nhằm xóa bỏ Hitler này rồi coi cách còn lại là gây sốc và hầu như trái quy tắc”.
Khi đối diện với sự không chắc chắn - về các bù đầu tư, con người hay bất cứ điều gì khác - tâm trí xử lý các bằng chứng như thế nào? Tại sao tâm trí con người - ngay cả của những người được cho là chuyên gia - lại khiến họ có những đánh giá sai lầm có thể bị lợi dụng bởi những kẻ dám ngó lơ đám chuyên gia và phân tích dựa vào dữ liệu?
Và làm thế nào hai nhà tâm lý học người Israel lại biết nhiều về những vấn đề này đến mức họ đã dự đoán sẽ có một cuốn sách về bóng chày Mỹ được viết ra vào mấy chục năm sau? Chuyện gì đã khiến hai người đàn ông ở Trung Đông phải ngồi xuống và xác định xem tâm trí đang làm gì khi nó cố gắng đánh giá một cầu thủ bóng chày, một khoản đầu tư hay một ứng viên tổng thống? Và tại sao một nhà tâm lý lại giành Giải Nobel Kinh tế?
Hình ảnh: Hoàng Thương