Triết Mẫn Hoàng quý phi 哲憫皇貴妃 | ||
---|---|---|
Càn Long Đế Hoàng quý phi | ||
Thông tin chung | ||
Sinh | ? | |
Mất | 20 tháng 8, năm 1735 Tử Cấm Thành, Bắc Kinh | |
An táng | 27 tháng 10, năm 1752 Địa cung của Dụ lăng | |
Phối ngẫu | Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế | |
Hậu duệ |
| |
Tước hiệu | [Cách cách; 格格] [Triết phi; 哲妃] (truy phong) [Hoàng quý phi; 皇貴妃] (truy phong) | |
Thân phụ | Ông Quả Đồ |
Triết Mẫn Hoàng quý phi (chữ Hán: 哲憫皇貴妃; ? - 20 tháng 8, năm 1735), thuộc gia tộc Phú Sát thị, Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
Gia thế
Triết Mẫn Hoàng quý phi không rõ ngày tháng năm sinh, thuộc dòng họ Phú Sát thị, nhưng không có mối quan hệ gì với Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu như một số người hiểu lầm. Theo Bát Kỳ Mãn Châu thị tộc tông phổ (八旗滿洲氏族通譜), tổ tiên của Triết Mẫn Hoàng quý phi sinh sống ở Cát Ha Lý (噶哈里) và La Xá Lâm (羅舍林), trong khi tộc của Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu cư trú tại Sa Tế, một gia tộc lớn thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, có địa vị xã hội cao hơn nhiều. Tổ tiên của Triết Mẫn Hoàng quý phi, Ni Nhã Đường Ngạc (尼雅唐鄂), có lẽ đã được nhập vào Bát kỳ vào đời cháu hoặc chắt. Cha của bà là Ông Quả Đồ (富察翁果圖), cháu 7 đời của Ni Nhã Đường Ngạc, từng giữ chức Tá lĩnh (佐領), và có các chức vụ trung cấp như Bộ quân giáo (步軍校), Bút thiếp thức (筆帖式). Do đó, Triết Mẫn Hoàng quý phi có nguồn gốc từ gia đình quan lại.
Theo Khâm định Bát Kỳ thông chí (欽定八旗通志), gia tộc của Triết Mẫn Hoàng quý phi được ghi nhận là Ông Quả Đồ nhậm Bao y Tá lĩnh (包衣佐領), trước đó từng giữ chức Bao y đại (包衣大). Gia tộc này thuộc nhóm Chính Hoàng kỳ Bao y Quản lĩnh hạ nhân (正黃旗包衣的管領下人), nằm trong nhóm Tân giả khố. Có thể gia tộc Phú Sát thị được chia thành hai nhánh, một ở Đông Bắc và một ở Kinh Kỳ. Nhánh Đông Bắc thuộc Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, có chức Tá lĩnh, Phòng ngự, Hiệp lãnh từ đời tổ tiên, trong khi nhánh ở Kinh Kỳ là Chính Hoàng kỳ Bao y, có sự khác biệt nhất định về kỳ tịch so với nhánh Đông Bắc.
Hoàng tứ tử thiếp
Với vai trò là Chính Hoàng kỳ Bao y, thuộc Thượng tam kỳ Nội vụ phủ, Phú Sát thị được bổ nhiệm làm hầu cận trong Hoàng thất. Có thể sau đó bà trở thành thiếp thất của Bảo Thân vương Hoằng Lịch và được phong vị Cách cách. Bà là người đầu tiên vào phủ của Bảo Thân vương.
Vào năm Ung Chính thứ 5 (1727), vào ngày 18 tháng 7 âm lịch, Bảo Thân vương đã chính thức phong Đích phi Phú Sát thị. Lúc đó, Cách cách Phú Sát thị đã mang thai, và vào ngày 28 tháng 5 (tức ngày 5 tháng 7 dương lịch) năm sau (1728), bà sinh ra Hoàng trưởng tử Vĩnh Hoàng. Đến năm Ung Chính thứ 9 (1731), vào tháng 4 âm lịch, Phú Sát thị sinh người con thứ hai cho Tứ a ca Hoằng Lịch, là một công chúa, nhưng không may đến tháng 12 âm lịch cùng năm thì qua đời.
Vào năm Ung Chính thứ 12 (1734), Ung Chính Đế đã phong Cao thị và Na Lạp thị làm Trắc Phúc tấn của Bảo Thân vương.
Theo quy định của cung đình Mãn Thanh, mỗi Hoàng tử chỉ được có 2 Trắc Phúc tấn, được chỉ định từ Bát kỳ Tuyển tú hoặc là hầu nữ sinh con. Na Lạp thị, xuất thân từ Tương Lam kỳ, được chọn trong Bát kỳ Tuyển tú, trong khi Cao thị đã vào phủ làm hầu nữ cho Hoằng Lịch (có thể cùng thời với Phú Sát thị), nhưng Cao thị không sinh con mà vẫn được phong Trắc Phúc tấn, trong khi Phú Sát thị có con trai cả lại không được như vậy.
Theo thông lệ khi Hoằng Lịch lên ngôi, có câu: ['Chỉ có Cách cách sinh được con mới có đủ tư cách làm Trắc Phúc tấn'], điều này đã dẫn đến suy đoán trong thời Ung Chính Đế, Hoằng Lịch từng muốn phong một Cách cách đã có con trai nhưng bị Ung Chính Đế từ chối, và Phú Sát thị là ứng cử viên sáng giá nhất. Nguyên nhân được cho là Ung Chính Đế ưu ái Cao Bân, cha của Cao thị, nên đã để chức Trắc Phúc tấn lại cho Cao thị, đồng thời chỉ định Na Lạp thị để ngăn cản Phú Sát thị trở thành Trắc Phúc tấn. Cả Phú Sát thị và Cao thị đều là Bao y, nhưng nếu Phú Sát thị trở thành Trắc Phúc tấn thì sẽ làm giảm địa vị của Cao thị - người được Ung Chính Đế trọng dụng.
Truy tặng
Ngày 3 tháng 7 năm Ung Chính thứ 13 (1735), Cách cách Phú Sát thị qua đời. Một tháng sau, Bảo thân vương Hoằng Lịch lên ngôi và được biết đến với tên [Càn Long Đế].
Vào tháng 10 năm Càn Long nguyên niên (1736), Càn Long Đế phong tặng Cách cách Phú Sát thị với thụy hiệu Triết phi (哲妃). Vào thời điểm đó, danh phận các phi tần chưa được công bố, và việc lập Phú Sát thị làm Hoàng hậu hay phong các phi tần khác chỉ diễn ra vào năm Càn Long thứ 2 (1737). Theo Thượng dụ, Triết phi Phú Sát thị được truy tặng trước các phi tần khác, điều này cho thấy vị trí đặc biệt của bà đối với Càn Long Đế.
Ngày 23 tháng 1 năm Càn Long thứ 10 (1745), Càn Long Đế phong Quý phi Cao thị làm Hoàng quý phi. Ngày 24 tháng 1 (âm lịch), một ngày trước khi Hoàng quý phi Cao thị qua đời (ngày 25 tháng 1), Hoàng đế ra chỉ dụ phong tặng Triết phi Phú Sát thị cùng vị Hoàng quý phi. Ngày 26 tháng 1, sau khi Hoàng quý phi Cao thị qua đời, Càn Long Đế chính thức phong thụy hiệu cho Hoàng quý phi Phú Sát thị là Triết Mẫn Hoàng quý phi (哲憫皇貴妃), và vào tháng 4 năm đó, quan chức thực hiện lễ sách thụy, tế cáo Thái Miếu và Phụng Tiên điện. Thụy hiệu 'Triết' trong Mãn văn là 「Getuken」, có nghĩa là 'trong sáng', liên quan đến「Ulhisu」nghĩa là 'thông minh'. Sau đó, thêm 'Mẫn', Mãn văn là「Hairacuka」, có nghĩa là 'đáng tiếc'.
Ngày 27 tháng 10 năm Càn Long thứ 17 (1752), Triết Mẫn Hoàng quý phi được an táng tại địa cung Dụ lăng, thuộc Thanh Đông lăng ở Bắc Kinh. Bà cùng với Càn Long Đế được chôn cất tại địa cung của Dụ lăng, bên cạnh các vị hậu phi như Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng quý phi và Thục Gia Hoàng quý phi. Thần vị của bà được thờ tại Long Ân điện (隆恩殿), nằm ở phía Tây Noãn các, phía Đông là thần vị của Tuệ Hiền Hoàng quý phi, còn phía Tây là Thục Gia Hoàng quý phi.
Hậu duệ
- Vĩnh Hoàng (永璜) (5 tháng 7, 1728 - 21 tháng 4, 1750), sinh năm Ung Chính thứ 6, mất năm Càn Long thứ 15. Được truy phong làm Định An Thân vương.
- Hoàng nhị nữ (皇二女) (1731) mất sớm.
- Hậu cung nhà Thanh
- Hoàng quý phi
- Càn Long
- Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu
- Vĩnh Hoàng
- Phúc tấn
- Thanh sử cảo - Hậu phi liệt truyện