Bài mẫu 1
Xưa nay, người Việt thường gọi bài “Con mèo mà trèo cây cau' là ca dao, cũng được biết đến như là đồng dao (ca dao dành cho con trẻ). Theo nghĩa của đồng dao, người lớn muốn truyền đạt cho con biết rằng: Con mèo chỉ biết trèo cây, còn chuột lại làm tổ trên cây cau. Ý nghĩa ngụ ngôn chủ yếu là của người lớn:
“Con mèo mà trèo cây cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đường xa,
Mua mắm, mua muối giỗ cha con mèo'.
Thông qua bài ca dao, mọi người đều hiểu được bản chất giả dối của kẻ mạnh, ranh mãnh (nghĩa đen là của con mèo, nghĩa bóng là của người giả đạo): Sát hại kẻ yếu (ăn thịt chuột), mèo lại giả vờ thân thiện gọi chuột là “chú' (hỏi thăm chú chuột). Nhiều người hiểu rõ hơn: Thông qua lời nói, người nông dân bày tỏ sự khinh bỉ, tố cáo kẻ mạnh, ác, giả đạo; họ ủng hộ, bảo vệ sinh vật nhỏ bé, yếu thế. Điều này phản ánh tâm lý bảo vệ kẻ yếu của người nông dân xưa. Tâm lý này phát sinh từ việc họ bị áp bức, bị lợi dụng (từ thời phong kiến đến thời thuộc địa). Họ không chỉ bảo vệ, họ còn giúp đỡ kẻ yếu chống lại kẻ mạnh, ác, giả đạo một cách thâm độc:
“Mua mắm, mua muối giỗ cha con mèo'
Mắm, muối là thức ăn mặn, mèo rất sợ; đồng thời mắm, muối cũng dùng để làm thịt mèo. Tuy nhiên, ý nghĩa nhân văn sâu sắc của bài ca dao là lòng tốt của người nông dân. Họ mong muốn điều tốt lành xa xa tận cùng sự ác, không muốn điều xấu xảy ra. Trong khi con mèo (kẻ gieo rắc sự ác) đang trèo cây cau để săn chuột ăn thịt - nghĩa là đang hướng lên trên, thì người nông dân mong muốn (chỉ hướng) cho “chú' chuột đi chợ ở nơi mặt đất. Chợ không rõ ràng ở đâu, miễn là không trùng hợp với hướng di chuyển của con mèo.
Bài mẫu 2
“Con mèo mà trèo cây cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đường xa,
Mua mắm, mua muối giỗ cha con mèo'.
Chỉ với bốn câu ngắn ngủi, nhưng một cảnh tượng đã được xây dựng: Góc sân, cây cau và con mèo đang trèo cây để tìm bắt chuột…
Mèo và chuột là những con vật rất gần gũi với con người. Dù con người có
bên trọng, bên khinh”, thì khi nói đến mèo khó có thể quên nói đến chuột và ngược lại. Mèo và chuột như là một cặp phạm trù tương phản. Chúng tồn tại vì có nhau. Sự liên kết này dựa vào quy luật của sự sinh tồn. Mèo cần chuột để làm thức ăn. Con người cần mèo để chuyên trị kẻ gieo rắc khó khăn và trộm cắp lương thực là con chuột.
Hình ảnh mèo tìm bắt chuột là hình ảnh bình thường và quen thuộc, nhất là tại các gia đình ở khu vực nông thôn. Sự tìm kiếm và tiêu diệt này dưới cái nhìn công bằng của muôn loài dường như có điều gì đó bất nhân. Ngày xưa, ai đó đã thi viện hóa chuyện mèo diệt chuột thành những câu ca dao mà từ nhỏ không ai không biết.
“Con mèo mà trèo cây cau,
Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà.
Chú chuột đi chợ đường xa,
Mua mắm, mua muối giỗ cha con mèo'.
Đọc đi đọc lại mấy câu ca dao trên, rồi suy ngẫm ta thấy cổ nhân rất thâm thúy và hài hước. Với chỉ bốn câu ngắn ngủi, nhưng một cảnh tượng đã được xây dựng: Góc sân, cây cau và con mèo đang trèo cây để tìm bắt chuột.
Ở quê, để tránh sự lũ lụt hàng năm và để cho an toàn, những con chuột tinh khôn đã làm tổ trên tận ngọn cây cao vút. Điều này khiến cho mèo không thích viếng luôn được. Trèo cao luôn là chuyện mệt nhọc. Nhưng mèo đã trèo và đã đến. Thảo nào, mệt nhọc mà không nên công cán gì, vì sự trùng hợp tình cờ giữa sự viếng thăm và vắng mặt.
Sự “hỏi thăm chú chuột” của mèo là tiếng gầm gừ và động tác cào cấu hù doạ để làm lộ mặt đối phương. Tiếc thay, kẻ mạnh lần này đã thất bại trong kế hoạch săn mồi. Hãy tưởng tượng vẻ mặt ngơ ngác, tiếc nuối và thất vọng của con mèo sau khi vất vả trèo cao nhưng không tìm thấy mục tiêu. Sự vắng mặt của chuột cũng là vì kế sinh nhai mà thôi: chú chuột đi chợ xa/ Mua mắm, mua muối… Nhưng quả thực thì chuột cũng sẽ bị vồ dưới nanh vuốt của mèo. Bởi từ xưa nay nó luôn là con vật để “giỗ cha con mèo”.
Có thể hiểu đoạn ca dao này như là lời đùa cợt hay là sự cảm thông chia sẻ với con “mèo cưng” đã bỏ nhiều công sức ra để săn mồi nhưng tạm thời thất bại.
Tuy nhiên, qua những lời ca dao đẹp này, mối quan hệ gần gũi giữa mèo và chuột được nêu lên, quy luật sinh tồn tất yếu trong tự nhiên được diễn tả, nhưng không để lộ dấu vết nào của sự chết chóc. Cách thể hiện của đoạn ca dao thực sự là tuyệt vời. Chính điều đó đã làm mê đắm lòng tất cả những ai đọc và thuộc đoạn ca dao qua nhiều thế hệ, cho dù là trẻ thơ hay người đã cao tuổi.