Máy Game Boy nguyên bản | |
Còn được gọi |
|
---|---|
Nhà phát triển | Nintendo R&D1 |
Nhà chế tạo | Nintendo |
Dòng sản phẩm | Dòng Game Boy |
Loại | Máy chơi trò chơi điện tử cầm tay |
Thế hệ | Thế hệ thứ tư |
Ngày ra mắt |
|
Vòng đời | 1989–2003 |
Giá giới thiệu | JP¥12,500 US$89.99 £67.40 DM169 |
Ngừng sản xuất | 23 March 2003; 21 năm trước |
Số lượng bán | Toàn thế giới: 118.69 triệu (gồm Game Boy (Play it Loud!), Game Boy Pocket, Game Boy Light và Game Boy Color) |
Truyền thông | Game Boy Game Pak |
CPU
| Lõi Sharp LR35902 @ 4.19 MHz |
Màn hình | STN LCD 160 × 144 pixels, 47 × 43 mm (w × h) |
Năng lượng | 4 × pin AA (nguyên mẫu) |
Kích thước | 5.8"/148 mm × 3.5"/90 mm × 1.3"/32 mm (l × w × d) |
Trọng lượng | 7.76 oz/0.22 kg (không gồm pin) |
Trò chơi bán chạy nhất | Pokémon Red và Blue, khoảng 31 triệu máy |
Sản phẩm trước | Game & Watch |
Sản phẩm sau | Game Boy Color |
Trò chơi Game Boy (GB) là một máy chơi trò chơi điện tử cầm tay 8-bit do Nintendo phát triển và phát hành. Đây là hệ máy đầu tiên trong Dòng Game Boy, máy phát hành lần đầu tiên tại Nhật Bản ngày 21 tháng 4 năm 1989, sau đó 3 tháng sau ra mắt ở Bắc Mỹ và cuối cùng là ra mắt ở châu Âu gần 1 năm sau. Gameboy được thiết kế bởi cùng một nhóm đã phát triển Game & Watch và nhiều trò chơi của hệ máy Nintendo Entertainment System: Okada Satoru,Yokoi Gunpei và Nintendo Research & Development 1.
Trò chơi Game Boy là máy chơi trò chơi cầm tay thứ hai của Nintendo, máy kết hợp các tính năng từ NES và phần cứng của Game & Watch. Máy có màn hình ma trận điểm màu xanh tối với độ tương phản có thể điều chỉnh, bốn nút điều khiển (phím điều hướng, hai nút trò chơi và nút START/SELECT), một loa đơn với nút xoay điều chỉnh âm lượng, và như các đối thủ, máy sử dụng hộp băng ROM là phương tiện vật lý. Máy phối màu từ hai tông xám với các điểm nhấn đen, xanh dương và nâu. Tất cả các góc máy có hình chữ nhật dọc, bo tròn mềm mại, phía dưới bên phải uốn cong nhẹ. Khi ra mắt, máy bán dưới dạng độc lập hoặc đi kèm với một trong số các trò chơi: Super Mario Land hoặc Tetris. Một số phụ kiện cũng phát triển theo đó, bao gồm túi đựng, Game Genie và máy in.
Mặc dù về mặt kỹ thuật, máy kém hơn các đối thủ cạnh tranh cùng thế hệ thứ tư (Game Gear của Sega, Lynx của Atari, và TurboExpress của NEC), Trò chơi Game Boy nhận nhiều lời khen nhờ tuổi thọ pin và độ bền. Máy nhanh chóng bán chạy hơn đối thủ, với một triệu máy bán ra tại Mỹ chỉ trong vòng vài tuần. Game Boy và kế nhiệm, Trò chơi Game Boy Màu, bán ra khoảng 118 triệu máy trên toàn thế giới. Đây là một trong những thiết bị dễ nhận biết nhất trong thập niên 1980, trở thành một biểu tượng văn hóa. Một số thiết kế lại cũng phát hành trong suốt thời gian tồn tại của máy, bao gồm Trò chơi Game Boy Pocket (1996) và Trò chơi Game Boy Light (1998; chỉ ở Nhật Bản). Việc sản xuất Trò chơi Game Boy vẫn tiếp tục vào đầu những năm 2000, và cuối cùng dừng lại sau khi phát hành kế nhiệm, Trò chơi Game Boy Advance, ra mắt vào năm 2001. Việc sản xuất ngừng hẳn vào năm 2003.
Phát triển
Kỹ sư trưởng của Nintendo là Yokoi Gunpei và nhóm Nintendo R & D1 đã thiết kế Game Boy. Sau sự nổi tiếng của Nintendo Entertainment System, ông đã tổ chức một cuộc họp với chủ tịch Nintendo, Yamauchi Hiroshi, nói rằng ông có thể tạo ra một máy chơi trò chơi điện tử cầm tay với các trò chơi có thể hoán đổi cho nhau. Sau khi lắng nghe, Yamauchi nói với Yokoi rằng các trò chơi hẳn sẽ rất thú vị và để ông bắt tay vào làm. Tên mã nội bộ ban đầu của Game Boy là Dot Matrix Game, đề cập đến màn hình ma trận điểm, trái ngược với dòng Game & Watch trước đó (do chính Yokoi tạo ra vào năm 1980) đã phân đoạn màn hình LCD được in sẵn bằng lớp phủ, hạn chế mỗi máy chỉ có thể chơi một trò chơi. Tên viết tắt DMG được đưa vào số model của những sản phẩm cuối cùng: 'DMG-01'. Satoru Okada và Yokoi cùng thiết kế nhưng không có sự đồng thuận. Yokoi cảm thấy rằng máy có thể nhỏ, nhẹ, bền, đem lại thành công và có một thư viện trò chơi dễ nhận biết. Itoi Shigesato đến thăm Nintendo và đặt tên 'Game Boy' cho chiếc máy mà Yokoi đang thiết kế. Khi Yokoi giới thiệu máy tại Nintendo, phản ứng ban đầu rất kém, các nhân viên Nintendo đặt cho máy biệt danh 'DameGame', trong đó dame (だ め) có nghĩa là 'vô vọng' hoặc 'không xài được' (dame có nguồn gốc là một thuật ngữ sử dụng trong trò chơi cờ vây, có nghĩa là 'lãnh thổ vô nghĩa'). Henk Rogers đưa trò chơi Tetris đến Nintendo of America và thuyết phục chủ tịch Arakawa Minoru chuyển nó lên hệ máy mới , để nó có thể tiếp cận nhiều đối tượng hơn. Arakawa đã đồng ý và kết quả là trò chơi cuối cùng cũng được đóng gói cùng với Game Boy và hệ máy này phát hành tại Nhật Bản vào tháng 4, Bắc Mỹ vào tháng 7 và tháng 9 năm sau đó ở châu Âu.
Phần cứng
Game Boy có bốn nút thao tác có nhãn 'A', 'B', 'START' và 'SELECT', cũng như một miếng đệm định hướng (d-pad). Có một nút điều chỉnh âm lượng ở cạnh phải của thiết bị và một nút xoay tương tự ở cạnh trái để điều chỉnh độ tương phản. Ở đầu Game Boy, là một công tắc bật tắt trượt và khe cắm cho hộp băng Game Boy. Công tắc bật tắt bao gồm khóa vật lý để ngăn người dùng lắp hoặc tháo băng trong khi thiết bị đang bật. Nintendo khuyên người dùng nên để một băng trong khe để ngăn bụi bẩn xâm nhập vào máy.
Game Boy cũng có các đầu nối vào và/hoặc đầu ra tùy chọn. Ở phía bên trái của máy là một cổng 3,5 mm × 1,35 mm DC cho phép người dùng sử dụng một thiết bị pin có thể sạc lại hoặc AC adapter (được bán riêng) thay vì bốn pin AA. Game Boy yêu cầu 6V DC ít nhất 150 mA. Một giắc cắm tai nghe stereo mm đặt ở cạnh dưới để người dùng nghe âm thanh bằng tai nghe đi kèm hoặc loa ngoài.
Phía bên phải của máy là một cổng để người chơi kết nối với máy Game Boy khác thông qua cáp liên kết, miễn là cả hai người dùng đang chơi cùng một trò chơi. Cổng cũng có thể được sử dụng để kết nối Máy in Game Boy. Cáp liên kết ban đầu được thiết kế để người chơi chơi các trò chơi hai người đối đầu như Tetris. Tuy nhiên, nhà phát triển trò chơi Tajiri Satoshi sau này đã sử dụng công nghệ cáp liên kết như một phương thức giao tiếp và kết nối mạng trong loạt trò chơi Pokémon nổi tiếng.
Thông số kỹ thuật
Các phiên bản khác
Play It Loud!
Ngày 20 tháng 3 năm 1995, Nintendo phát hành một số phiên bản Game Boy với vỏ nhiều màu sắc, quảng cáo chúng trong chiến dịch 'Play It Loud!', được biết đến tại Nhật Bản với tên Game Boy Bros. Thông số kỹ thuật vẫn giữ nguyên như phiên bản Game Boy ban đầu, bao gồm cả màn hình đơn sắc. Dòng Game Boy nhiều màu này đã mở đầu cho các thiết bị cầm tay Nintendo sau này, với nhiều thiết bị chơi game được phát hành với nhiều màu sắc khác nhau. Play It Loud được ra mắt với các màu như đỏ, xanh lá cây, đen, vàng, trắng, xanh lam, và trong suốt (được gọi là X-Ray ở Anh). Màu phổ biến nhất là vàng và đỏ, trong khi xanh lá cây là màu hiếm, và màu xanh và trắng là hai màu hiếm nhất. Màu xanh chỉ được phát hành độc quyền tại châu Âu và Nhật Bản, trong khi màu trắng chủ yếu được phân phối tại các cửa hàng Toys R Us tại Anh. Màu trắng vẫn là màu hiếm nhất trong tất cả các màu của Play It Loud. Một phiên bản giới hạn của Game Boy Manchester United có màu đỏ, với logo của đội bóng được khắc trên thiết bị. Máy được phát hành đồng thời với Play It Loud ở Anh. Màn hình của Play It Loud cũng có viền tối hơn so với Game Boy thông thường.
Game Boy Pocket
Ngày 21 tháng 7 năm 1996, Nintendo ra mắt Game Boy Pocket - một phiên bản nhỏ gọn, nhẹ hơn và tiết kiệm pin hơn. Máy chỉ sử dụng hai viên pin AAA, cho thời gian chơi lên đến khoảng 10 giờ. Game Boy Pocket cũng có một cổng 3 volt, 2.35 mm x 0.75 mm để sạc pin từ nguồn điện bên ngoài. Máy cũng có một cổng kết nối nhỏ hơn, yêu cầu một bộ chuyển đổi để kết nối với các thiết bị Game Boy cũ hơn. Các cổng này đã được thiết kế chung cho tất cả các phiên bản Game Boy tiếp theo, trừ Game Boy Micro. Màn hình của Game Boy Pocket đã được cải tiến với màu trắng-đen, thay vì màn hình màu 'súp đậu' của phiên bản trước đó. Ngoài ra, màn hình của Game Boy Pocket (GBP) lớn hơn so với Game Boy Pocket Color (GBC). Màn hình của GBP có kích thước 65 mm (2.56 in) theo đường chéo, rộng 48.5 mm (1.91 in), và cao 4 mm (1.71 in), so với màn hình 59 mm (2.32 in) của GBC. Mặc dù giống như phiên bản trước, Game Boy Pocket không có đèn LED để chơi trong bóng tối, nhưng máy cải thiện tầm nhìn và thời gian phản hồi điểm ảnh (chủ yếu là loại bỏ hiện tượng mờ màn hình). Phiên bản ban đầu của máy cũng không tích hợp đèn LED nguồn. Do nhu cầu của người dùng, Game Boy Pocket nhanh chóng được cập nhật với nhiều tính năng mới, và đồng thời cũng phát hành phiên bản Game Boy Pocket màu mới vào ngày 28 tháng 6 năm 1997. Game Boy Pocket cũng có một số phiên bản giới hạn, bao gồm cả phiên bản màu vàng ánh kim độc quyền tại Nhật Bản. Tuy nhiên, Game Boy Pocket không phải là một hệ máy chơi game mới và vẫn sử dụng chung thư viện phần mềm với phiên bản Game Boy trước đó.
Một phiên bản "xương xẩu" của Famitsu xuất hiện vào năm 1997, chỉ có 5.000 máy, và một phiên bản màu vàng trong suốt.
Game Boy Light
Game Boy Light phát hành vào ngày 14 tháng 4 năm 1998, chỉ ở Nhật Bản. Giống như Game Boy Pocket, có giá ¥ 6.800. Game Boy Light chỉ hơi lớn hơn so với Game Boy Pocket và có đèn nền công nghệ LED trong điều kiện ánh sáng yếu. Sử dụng 2 pin AA sẽ chơi được 20 giờ nếu tắt đèn và 12 giờ nếu bật. Có sẵn hai màu tiêu chuẩn, vàng và bạc. Máy cũng có nhiều phiên bản đặc biệt, bao gồm phiên bản Astro Boy với vỏ trong suốt và hình ảnh của Astro Boy in trên đó, phiên bản Osamu Tezuka World với vỏ màu đỏ trong suốt và hình ảnh các nhân vật của ông, và một phiên bản Pokémon Center Tokyo màu vàng đậm.
Trò chơi
Những tựa trò chơi đã ra mắt
Game Boy phát hành cùng với sáu tựa trò chơi ra mắt, được liệt kê trong bảng dưới đây:
Tựa | Nhật Bản | Bắc Mỹ | Châu Âu | Chú thích |
---|---|---|---|---|
Super Mario Land | Có | Có | Có | trò chơi Platform trong dòng Super Mario |
Alleyway | Có | Có | Có | Breakout clone |
Baseball | Có | Có | Có | trò chơi thể thao, chuyển từ trò chơi NES bản1984 |
Yakuman | Có | Không | Không | trò chơi Mahjong |
Tetris | Không | Có | Có | Chuyển thể từ trò chơi puzzle năm 1984 |
Tennis | Không | Có | Không | trò chơi thể thao, chuyển từ trò chơi NES bản 1984 |
Tiếp nhận
Mặc dù về mặt kỹ thuật máy yếu hơn so với Lynx và các đối thủ cạnh tranh, Game Boy có thời lượng pin tuyệt vời, phần cứng chắc chắn và sự phổ biến của Tetris cùng các trò chơi khác đã đem lại nhiều thành công cho Game Boy. Trong hai tuần đầu tiên phát hành ở Nhật là ngày 21 tháng 4 năm 1989, toàn bộ 300.000 máy đã bán ra chỉ một vài tháng sau đó, Game Boy phát hành ở Mỹ vào ngày 31 tháng 7 năm 1989, và 40,000 máy bán hết ngay ngày đầu tiên. Game Boy và Game Boy Color tổng cộng đã bán ra 118.69 triệu máy trên toàn thế giới, với 32.47 triệu máy ở Nhật Bản, 44.06 triệu ở châu Mỹ, và 42.16 triệu ở các khu vực khác. Vào năm tài chính 1997 ở Nhật Bản, trước khi Game Boy Color phát hành vào cuối năm 1998, một mình Game Boy đã bán 64.42 máy trên toàn thế giới. Ngày 14 năm 1994 tại một cuộc họp báo ở San Francisco, Phó chủ tịch tiếp thị của Nintendo, Peter Main, trả lời các câu hỏi về việc Nintendo sắp ra mắt với một hệ máy cầm tay có màu, bằng cách tuyên bố rằng doanh số của Game Boy đủ mạnh để họ quyết định ngừng phát triển một số thiết bị cầm tay kế nhiệm trong tương lai gần.
Năm 1995, Nintendo of America tuyên bố 46% người chơi Game Boy là nữ, cao hơn tỷ lệ người chơi nữ của cả Nintendo Entertainment System (29%) và Super Nintendo Entertainment System (14%). Năm 2009, Game Boy được giới thiệu là Đồ chơi quốc gia, 20 năm sau khi ra mắt. Đến ngày 06 tháng 6 năm 2011, trò chơi của Game Boy và Game Boy Color đều có mặt trên dịch vụ Virtual Console Nintendo eShop của Nintendo 3DS.
Trong một đánh giá cuối năm 1997, một nhóm bốn biên tập viên Electronic Gaming Monthly đã cho Game Boy điểm số là 7,5, 7,0, 8,0 và 2,0. Sushi-X (người góp phần tạo ra phiên bản 2.0) đã hạ điểm máy do màn hình đen trắng và chuyển động mờ, trong khi ba người đồng đánh giá ca ngợi thời lượng pin dài và thư viện trò chơi mạnh mẽ, cũng như kiểu dáng đẹp, thiết kế tiện lợi bỏ túi, như kích thước của mẫu Game Boy Pocket mới.