Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát hoặc Bài ca ngất ngưởng được phân tích chi tiết cùng với 7 mẫu bài viết hay nhất. Điều này giúp các bạn lớp 11 có thêm nguồn tư liệu và ý tưởng cho bài viết số 2 của mình.
Trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát, nhân cách của nhà nho chân chính được thể hiện một cách sâu sắc.
Dàn ý về nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát được trình bày một cách logic và chi tiết.
1. Mở đầu
- Giới thiệu một chút về tác giả Cao Bá Quát và tác phẩm 'Bài ca ngắn trên bãi cát'.
- Tác phẩm cho thấy nhân cách cao quý của nhà sư xưa.
2. Nội dung chính
a. Đặc điểm quan trọng của tác giả và tác phẩm:
- Cao Bá Quát (1809 - 1855) là một tài năng, trí tuệ, có ý chí mạnh mẽ nhưng cuộc đời ông trải qua nhiều gian nan.
- Người ta tôn kính ông với biệt danh 'Thánh Quát'.
- Ông sáng tác 'Bài ca ngắn đi trên bãi cát' khi đi thi Hội qua các tỉnh miền Trung với những bãi cát bạt ngàn.
- Tác phẩm phản ánh sự vất vả, khó khăn cũng như niềm tin về con đường danh lợi đã thay đổi, phủ phục trong thời đại đó.
- 'Bài ca ngắn đi trên bãi cát' là minh chứng cho nhân cách tinh khiết và cao đẹp của nhà Nho.
b. Đặc điểm chung của nhà Nho trung thực:
- Là người nghiên cứu Kinh Thánh, thông thái và được đánh giá cao, tôn trọng.
- Hành động vì cộng đồng mà không mưu danh lợi, giàu sang và vinh quang.
- Vẫn duy trì phẩm chất cao quý dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào.
c. Tính cách của nhà Nho qua tác phẩm 'Bài ca ngắn trên bãi cát':
- Quyết tâm thi cử và thành công để đóng góp cho đất nước.
- Nhận ra rằng con đường vinh quang hiện tại đã lỗi thời, không đúng lắm.
- Cao Bá Quát nhận thức được cần phải rời bỏ những lợi ích vô ích.
- Mong muốn thay đổi xã hội, tìm kiếm con đường mới cho cuộc sống.
III. Kết luận
- Tóm tắt một số điểm nổi bật về khía cạnh nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách chân chính của nhà Nho trong Bài ca ngắn trên bãi cát.
- Tự suy ngẫm về nhân cách chân chính của nhà Nho.
Nhân cách của nhà Nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Mẫu 1
Nhắc đến nhà Nho là nhắc đến kỷ niệm một thời đại đầy vinh quang. Mặc dù trong xã hội hiện đại, đó chỉ còn là quá khứ, nhưng trong một thời gian dài, nó là nguồn cảm hứng tự hào của nhiều thế hệ. Và không thể phủ nhận rằng giá trị nhân cách ấy vẫn tỏa sáng mãi trong mỗi con người. Chúng ta càng cảm thấy sâu sắc hơn khi đọc Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát và Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ, nhân cách chân chính của nhà Nho được mô tả một cách rõ ràng và làm xúc động lòng người.
Nhân cách ở đây là tư cách và phẩm giá của mỗi người. Nhà Nho là những người có tri thức trong quá khứ, tuân theo lời dạy của Nho học, đọc sách thánh hiền và được mọi người kính trọng. Họ là những người hiểu biết sâu sắc về lễ giáo và coi nó là có ích cho đất nước và nhân dân.
Đầu tiên, ta có thể nhận thấy điểm chung về nhân cách chân chính của nhà Nho mà hai tác giả đề cập đến là quan điểm về con đường danh lợi. Tuy nhiên, mỗi tác giả lại thể hiện điều này theo cách riêng biệt. Trong khi Cao Bá Quát than thở rằng:
“Bãi cát dài bãi cát dài ơi
Đi một bước như lùi một bước
Mặt trời đã lặn chưa dừng được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
Liệu có phải vì quá nhiều khó khăn với con đường danh lợi mà nhà thơ trở nên bi quan như vậy? Ông không còn đam mê mà cảm thấy chán nản khi nói về điều này. Với ông, con đường ấy quá gập ghềnh và khó đi. Ông có tài năng và kiến thức sâu rộng, nhưng có lẽ sự hao mòn của thời đại đã làm hủy hoại một con người. Sử dụng hình ảnh tượng trưng của bãi cát dài, người đi trên bãi cát cũng rất tinh tế. Con đường danh lợi dài và khó đi, đầy gian nan và mệt mỏi... Giọt nước mắt không chỉ là vì những năm tháng mải miết với sách vở mà còn là vì một xã hội suy đồi và hỏng hóc. Còn đối với Nguyễn Công Trứ, ông lại cảm nhận một cách khác:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông HI Văn tài bộ đã vào lồng”
Nguyễn Công Trứ đạt được thành công lớn trong sự nghiệp, nhưng ông không phải là người hâm mộ của con đường làm quan. Thậm chí, ông cảm thấy bị gò bó bởi chốn quan trường. Điều này được thể hiện rõ qua từ “vào lồng”. Có lẽ sống trong thời đại đó, sự tham vọng làm quan và việc học hành thi cử được coi là vinh quang. Dù có nhiều người có thể phê phán con đường đó, nhưng trong bối cảnh đó, họ không có lựa chọn nào khác.
Tuy nhiên, Cao Bá Quát đã thể hiện phong cách riêng của mình. Không cần phải cố gắng quá nhiều trên con đường đó. Nếu không, sẽ có một lựa chọn khác. Đừng để danh lợi làm bạn mất đi chính bản thân mình, hãy dũng cảm vượt qua nó. Trong xã hội thời đó, Cao Bá Quát được coi là người tiên tiến khi đặt sự hạnh phúc lên hàng đầu. Còn đối với Nguyễn Công Trứ, ông lại có cách thể hiện khác nhau.
“Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng tằn bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi gì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”.
Nguyễn Công Trứ đã thể hiện mình rất ngất ngưởng. Ông luôn tạo ra sự khác biệt không giống ai. Ông tự hào về những thành tựu của mình và cho rằng mình hơn người khác. Hơn nữa, ông sống một cách tự do và không quan tâm đến những ý kiến xung quanh. Tuy nhiên, hình ảnh của ông vẫn mãi trong lòng người dân với hình ảnh tốt đẹp và đáng kính trọng. Điều đáng quý nhất là ông dám đứng lên và tỏa sáng với bản thân mình.
Vẻ đẹp của nhân cách nhà Nho chân chính được thể hiện rất thành công trong hai tác phẩm 'Bài ca ngắn đi trên bãi cát' và 'Bài ca ngất ngưởng'. Mỗi tác giả có phong cách riêng nhưng cả hai đều thể hiện được tinh thần của người trí thức và để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả.
Nhân cách của nhà Nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Mẫu 2
Chúng ta thường nghe: 'Tài cao phận thấp, chí khí uất'. Có vẻ như tài năng chưa đủ để con người tỏa sáng mà còn bị 'phận' gò bó. Đây là bi kịch của cuộc đời của Cao Bá Quát, một nhà văn tài năng. Ông được biết đến là một nhà nho xuất sắc, có tâm hồn văn chương cao cả và phẩm chất thanh cao. Nhân dân coi ông như một vị thánh – thánh Quát. Tuy nhiên, trong thời đại của ông, Chu Thẩn phải trải qua nhiều khó khăn, nỗi đau của một thời kỳ suy thoái.
Là một nhà nho chân chính, Cao Bá Quát chịu ảnh hưởng sâu sắc từ quan niệm 'chí làm trai'. Như Nguyễn Công Trứ và nhiều người khác, ông luôn khát khao thành công và vinh quang trong sự nghiệp. Tuy nhiên, ông gặp nhiều khó khăn khi phải đối mặt với một xã hội bảo thủ.
“Bãi cát dài lại bãi cát dài,
Đi một bước như lùi một bước.
'Bài ca ngắn đi trên bãi cát' tuy là một bài thơ ngắn nhưng lại tạo ra một hình ảnh rất sâu sắc và ý nghĩa. Bức tranh về sa mạc cát trắng và người vượt qua khó khăn thực sự rất đầy ý nghĩa và sâu sắc. Đi mà như lùi, thể hiện sự khó khăn, mệt mỏi của con đường thi cử.
Mặt trời đã lặn chưa dừng được,
Lữ khách trên đường nước mắt rơi.
'Mặt trời lặn' là biểu tượng của thời gian trôi qua, khi thiên nhiên bắt đầu nghỉ ngơi, nhưng đối diện với điều đó là hình ảnh của người lữ khách 'chưa dừng lại'. Lý do là vì con đường còn dài và không có đích đến. Cao Bá Quát tự thấy mình trơ trọi và cô đơn trước bãi cát hoang vu, khóc lóc cho số phận của mình.
Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non, lội suối giận khôn vơi.
Chu Thần đang giận bản thân vì nhiều lý do. Đầu tiên, ông cảm thấy tiếc nuối vì không thể giúp dân và nước bằng tài năng của mình. Thứ hai, ông cảm thấy xấu hổ vì không đạt được chức danh và danh vọng mà ông mong muốn.
Thứ ba, ông tự hỏi về ý nghĩa của cuộc đời và tầm quan trọng của việc học hành thi cử.
'Ta ngẩng đầu lên nhìn tận ngoài trời
Những muốn vịn mây mà lên cao mãi.'
Mong muốn được ban cho phép thần kỳ để tiếp tục vượt qua những khó khăn trên con đường, không ngừng đối mặt với đói khát, mệt mỏi và buồn ngủ, hy vọng sớm tìm ra mục tiêu rõ ràng cho bản thân.
Cách hiểu cuối cùng thực sự sâu sắc: đó là sự thoát khỏi thực tại bình thường. Dù Nguyễn Công Trứ lạc hậu nhưng vẫn tìm cách trốn tránh bằng cách tránh xa xã hội. Cao Bá Quát, dù có thể phớt lờ và lẩn tránh, nhưng với lý tưởng cao quý và tinh thần mạnh mẽ, ông không thể làm điều trái với đạo lý của mình. Từ đó, 'giận khôn vơi' của ông thể hiện sự cao quý và đáng ngưỡng mộ của nhân cách.
Những câu thơ tiếp theo cho thấy quan điểm của Cao Bá Quát đối với xã hội mưu danh lợi:
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên con đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Con đường danh lợi cũng là một con đường gập ghềnh, trắc trở. Công danh như một loại rượu cám dỗ, khiến con người phải đấu tranh, bỏ qua giá trị đạo đức để chạy theo vật chất. Cao Bá Quát thể hiện cái nhìn tỉnh táo và sâu sắc về thực tại, vượt ra khỏi không gian và thời gian. Những suy nghĩ của ông là minh chứng cho trí tuệ vượt trội của danh sĩ họ Cao. Ông tự hào là người tỉnh táo giữa đám đông say sưa. Tuy nhiên, ông vẫn tiếp tục theo đuổi con đường này, tự hỏi mình rằng liệu mình có tỉnh hay đang lảng mạng, để rồi thở dài trong vô vọng.
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều đâu ít.
Hãy nghe ta hát khúc 'đường cùng',
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng,
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.
Tiếng thở dài chán ngán, mệt mỏi của Cao Bá Quát khi gặp phải sự bế tắc, lòng luôn thao thức câu hỏi: 'tính sao đây?'. Khó khăn tiếp nối khó khăn, nhìn bốn bể, đâu đâu cũng chỉ thấy những trắc trở, gian lao muôn trùng. Lúc này, Chu Thần đã bị đẩy vào 'đường cùng'. Dường như, trong ông đang có sự đấu tranh quyết liệt, ông dậm chân tại chỗ. Cao Bá Quát không muốn đi tiếp vì biết đường gian khổ mà vô định. Nhưng có một tiếng gọi vang lên từ tấm lòng thương dân sâu sắc, đó là cái nợ nước nhà chưa thể trả, nợ công danh cuộc đời. Vì không còn một con đường nào khác cho bất cứ một ai, kể ra những người có chí lớn vượt ra ngoài sự nghiệp công danh. Bi kịch của Chu Thần không chỉ là của riêng Chu Thần, nhưng còn là bi kịch của thời đại, một thời đại sắp đi đến phút cáo chung.
Câu hỏi vang lên vô vọng giữa bãi cát mênh mông. Nhưng có vẻ kín đáo trả lời cho mâu thuẫn nội tâm của Cao Bá Quát. Một lần nữa, ông khẳng định tính chất vô nghĩa của con đường 'bãi cát' ấy để làm tiền đề cho cái nhìn của mình: cái nhìn sáng suốt và đầy đạo đức: từ bỏ cái cũ lỗi thời để đến với cái mới. Đến đây, ta chợt nhớ đến triết lí của Lỗ Tấn: 'Trên thế gian làm gì có đường, người ta đi mãi thì thành đường thôi.' Quả thật vậy, câu hỏi tu từ: 'Anh đứng làm chi trên bãi cát?' như là lời thúc giục, là tiếng gọi lên đường, khai phá lối đi mới tiến bộ. Đó cũng là nguyên nhân chính và động cơ thúc đẩy Chu Thần đứng ra lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa Mỹ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn – việc làm để lại tiếng danh muôn đời và khiến thế hệ sau nể phục khôn nguôi.
'Bài ca ngắn đi trên bãi cát' là bài thơ ngắn nhưng sâu lắng, hiện thực nhưng đầy ý nghĩa, trữ tình nhưng đau lòng với ý thơ giàu biểu tượng, ý nghĩa sâu sắc. Ẩn dưới những từ ngữ là suy tư sâu sắc của tác giả, là tình yêu thương quê hương, là lòng dũng cảm của người làm việc, là trí tuệ thông minh, là cái nhìn vượt thời gian, là khát vọng cải thiện xã hội và cũng là phẩm chất cao quý của nhà nho chân chính Cao Bá Quát.
Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát - Mẫu 3
'Đi một bước như lùi một bước'
Hình ảnh 'bãi cát' như một ám ảnh không nguôi theo ông. Không gian vô định, bãi cát trải dài làm mất phương hướng và kiên nhẫn của ông. Hình ảnh này là biểu tượng cho con đường công danh xa xôi, mịt mù giống như con đường đời gập ghềnh trong xã hội phong kiến lạc hậu. Những nhọc nhằn và bế tắc khi đi trên con đường đó được ông thể hiện:
'Mặt trời đã lặn, chưa dừng lại được
Lữ khách trên đường nước mắt rơi'
Dù mặt trời đã lặn, nhưng chân không thể dừng lại vì không thể ngừng bước. Cao Bá Quát mô tả trạng thái kiệt sức cùng tâm trạng lo âu và buồn rầu. Giữa bãi cát vô tận, ông cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Con đường danh lợi gập ghềnh đã khiến ông phải đi qua trong phẫn uất và tự trách bản thân.
Cùng với tâm trạng bế tắc và bất lực, tác giả thốt lên với biết bao sự chán ghét, khao khát được giải thoát:
'Không học được tiên ông phép ngủ
Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!'
Xưa nay phường danh lợi
Tất tả trên đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu
Người say vô số tỉnh bao người?'
Tác giả nói về những người ham danh lợi cũng giống như là những kẻ ham rượu. Ở đâu có quán rượu, họ sẽ đổ xô tới, chen lấn để giành cho được thứ cám dỗ ấy. Dù biết điều đó chẳng cao quý, nhưng có mấy ai có thể thoát ra được cái mùi hương ấy. Qua đó, ta thấy được Cao Bá Quát nhận ra rằng con đường danh lợi mà ông đang đi chỉ là vô nghĩa, bị xã hội phong kiến làm cho mục nát và từ từ tha hóa. Tại sao phải tranh giành để vào quan trường danh lợi? Đó là sự day dứt từ nhân cách cao đẹp của ông, người coi thường danh lợi, vinh hoa phú quý. Giống như nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm khi xưa đã viết:
'Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao'
(Nhàn)
Nhưng đáng tiếc tác giả nhận ra rằng dù biết con đường danh lợi là vô nghĩa, nhưng vì ràng buộc của xã hội phong kiến, ông vẫn tiếp tục đi trên con đường ấy, không dễ gì thoát ra được. Một tiếng thở dài ngao ngán vì chẳng biết đang tỉnh hay say trên con đường cùng không lối thoát:
'Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Hãy nghe ta hát khúc 'đường cùng'
Phía Bắc núi Bắc, núi muôn trùng
Phía Nam núi Nam, sóng dào dạt.
Cao Bá Quát dường như bế tắc không biết có nên dừng lại hay tiếp tục đi tiếp nữa. Dù biết đi trên con đường giữa 'bãi cát của lợi danh' thì mình cũng chẳng khác gì đám người chỉ biết chạy theo hơi rượu. Bài ca kết lại bằng một câu hỏi đầy trăn trở và khao khát những con đường mới:
'Anh đứng làm chi trên bãi cát?'
Tác giả đã thốt lên một câu hỏi chứa đựng từ lâu như hỏi chính bản thân. Nếu biết rõ con đường danh lợi ấy là tầm thường thì tại sao lại đứng đây làm gì. Có lẽ, nhà Nho Cao Bá Quát cần tìm một con đường mới cho chính mình và cho đất nước.
Bên cạnh đó, sự sụp đổ của xã hội phong kiến cũng khiến những người có tài khó lòng giúp đỡ dân tộc. Với Cao Bá Quát, ông có một tư tưởng sống rất khác biệt trong xã hội đó, được thể hiện qua câu thơ nổi tiếng: 'Nhất sinh đê thủ bái mai hoa'. Ông tôn trọng và hướng về sự cao quý và thanh khiết của hoa mai, của con người, chứ không phải là quyền lực. Do đó, ông bước ra khỏi những quan niệm cũ của xã hội để tìm kiếm một con đường mới, để làm lợi cho dân tộc và đất nước.
Phong cách viết của bài thơ, cùng với những hình ảnh sâu sắc, phong phú, đã làm cho 'Sa hành đoản ca' để lại ấn tượng mạnh mẽ với độc giả. Bút phú của 'Thánh Quát' thật sự là một tài năng.
Tóm lại, bài thơ 'Bài ca ngắn đi trên bãi cát' đã giúp chúng ta hiểu được sự khinh miệt và sự chán ghét của nhà thơ với một xã hội đang suy thoái và ước mơ có thể thay đổi nó. So sánh với Nguyễn Công Trứ, ta thấy Uy Viễn tướng quân cũng là một người sống tự do nhưng vẫn giữ vững trong giới Nho giáo. Tuy nhiên, Cao Bá Quát đã thể hiện tư tưởng khai sáng và lòng nổi loạn hơn để thay đổi xã hội lạc hậu trong 'Sa hành đoản ca'. Sự đẹp đẽ trong tâm hồn và phẩm cách của một nhà nho chân chính đã được Cao Bá Quát thể hiện qua tấm lòng trung thực, không khao khát danh lợi, luôn suy ngẫm về ý nghĩa cuộc đời, và mong muốn tìm ra con đường sáng để dâng hiến cho dân tộc.
Qua bài thơ 'Bài ca ngắn đi trên bãi cát', chúng ta đã thấy được vẻ đẹp tâm hồn và phẩm cách của một nhà nho chân chính, đó là Cao Bá Quát, một người luôn tận tụy vì dân, không sợ khó khăn và thử thách, luôn giữ gìn bản thân trong mọi hoàn cảnh. Những nhà nho như ông đã mở ra một con đường mới trong một xã hội còn đầy bóng tối và sự lạc hậu.
Nhân cách của nhà nho trong 'Bài ca ngắn đi trên bãi cát' - Mẫu 4
Cao Bá Quát, một nhà thơ tài năng, được coi như thánh vị Quát trong thời của mình. Thơ của ông phê phán sự lạc hậu, bảo thủ của phong kiến và phản ánh nhu cầu cải tổ xã hội Việt Nam trong thế kỷ 19. Mặc dù tài hoa, con đường danh vọng của ông gặp nhiều chướng ngại. 'Bài ca ngắn đi trên bãi cát' là lời than phiền về sự mệt mỏi trên con đường mưu danh. Tác phẩm này phản ánh tâm tư sâu sắc và nhân cách đáng kính của một nhà nho trước thách thức của thời đại.
Bài ca này được viết khi Cao Bá Quát trên đường tới Huế tham dự kỳ thi Tiến sĩ. Mặc dù tài năng, ông không thành công trong cuộc thi này. Con đường tìm kiếm danh vọng của ông đầy gian nan và khó khăn, nhưng đây không phải là lần đầu tiên. Ông muốn chia sẻ sự chán nản và khó khăn mà mình đã và đang trải qua.
Bãi cát dài vô tận,
Một bước đi như một bước lùi.
Thời phong kiến, kỳ thi Tiến sĩ chỉ tổ chức tại Kinh thành, con đường dẫn tới đó của Cao Bá Quát là một hành trình xa xôi và gian nan. Mỗi bước đi trên bãi cát dài là một nỗ lực, nhưng con đường có thể trở nên mơ hồ và khó khăn, dường như muốn ngăn lại sự tiến bộ.
Mặt trời đã lặn, nhưng vẫn không ngừng,
Lữ khách trên con đường nước mắt rơi.
Không thể ngủ được như tiên ông,
Leo núi, vượt suối, giận dữ vẫn còn!
Thông qua đoạn thơ này, ta thấy được phẩm cách cao quý của một nhà nho chân chính, giống như những người nho sĩ khác trong thời đại. Cao Bá Quát nuôi ước mơ cống hiến cho đất nước, dốc lòng vì nền vua chúa, mặc dù con đường đầy gian nan. Sự đối lập giữa 'mặt trời đã lặn' và 'không dừng lại' cho thấy tinh thần kiên trì của nhà nho, mặt trời đã lặn nhưng con đường vẫn còn xa, cần phải đi nhanh để không bỏ lỡ cơ hội hoặc chỉ trích xã hội lạc hậu, cần phải thay đổi, và Cao Bá Quát nhận thức được điều này, muốn cống hiến cho sự thay đổi đó.
Trước con đường đầy mệt mỏi và chán ghét, Cao Bá Quát ước mình có thể học được như vị tiên ngủ, nhưng ông không thể. Ông phải trèo non, lội suối, và sự giận dữ không thể che giấu. Ông giận bản thân và giận bọn quan lại, những kẻ không trọng dụng nhân tài, gây trở ngại cho con đường sự nghiệp của ông và nhiều người khác.
Xưa nay, phường danh lợi,
Tất cả trên con đường đời.
Đầu gió hơi men thơm quán rượu,
Người say vô số, tỉnh bao người?
Cao Bá Quát, một nhà nho với phẩm cách cao quý, khinh thường những kẻ theo đuổi danh lợi. Dù con đường sự nghiệp đầy gian nan, 'tất cả trên con đường đời' nhưng vẫn có người lao vào để giành lấy chút danh lợi, ít ai tỉnh táo trước sức hấp dẫn của nó. Cao Bá Quát cũng mưu cầu sự nghiệp, dù không vì lợi ích cá nhân, nhưng ông cũng không biết liệu mình có phải là người tỉnh táo trong những kẻ say mèm không, và ông cũng đang mưu cầu sự nghiệp như họ.
Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!
Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,
Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?
Nhìn thấy tâm trạng nổi sóng của nhà thơ, những suy tư, nghi ngờ, ông đang bị thời gian, không gian và những lo lắng trong lòng chi phối. Con đường trước mắt vất vả và gian nan, chỉ giống như mới bắt đầu, đầy cạm bẫy và trở ngại. Những khó khăn này không chỉ làm động lòng nhà nho mà còn làm lung lay ý chí và nghi ngờ bản thân. Những câu hỏi không có câu trả lời làm ông rơi vào tình trạng bế tắc, không biết liệu phải tiếp tục hay dừng lại.
Hãy lắng nghe khúc “đường cùng” này
Phía bắc núi Bắc, núi vĩnh cửu,
Phía nam núi Nam, sóng dữ dội.
Anh đứng ở đây trên bãi cát dài làm gì?
Đứng trước sự phân vân, mệt mỏi như bước vào con đường cùng, không có lối thoát, chỉ thấy núi non đầy hiểm nguy, “núi vĩnh cửu”, “sóng dữ dội” biểu thị những khó khăn, gian nan cản trở con đường của nhà nho, chán nản với cuộc đời, chán ghét chế độ. Sau những suy tư, lo lắng, ông vẫn đứng ở đây, trên bãi cát dài. Cao Bá Quát giống như một người lạc lối, muốn cống hiến cho cuộc sống, nhưng lại mệt mỏi vì mưu cầu sự nghiệp. Mặc dù gặp gian nan khó khăn, nhưng ông vẫn không chịu dừng lại.
“Anh đứng ở đây trên bãi cát dài làm gì?”
Một câu hỏi khác của nhà thơ, liệu đó có phải là sự phân vân về con đường sự nghiệp hay không? Trước khó khăn, Cao Bá Quát không muốn dừng lại, bởi con đường phía trước còn xa lắm, mặt trời đã lặn, một ngày mới sắp qua đi. Ông không muốn đứng lại, muốn tiếp tục, nhận ra rằng đang lãng phí thời gian khi đứng ở đây, còn nhiều thách thức phía trước mà ông cần vượt qua để không bỏ lỡ cơ hội của mình.
Trên bãi cát dài này, hiện tại chỉ là lúc nghỉ ngơi của một lữ khách, không phải là lúc ông từ bỏ. Ông đương đầu với khó khăn, không bao giờ từ bỏ, điều này thể hiện một nhân cách đẹp, một nhà nho chân chính.
Qua Bài ca ngắn đi trên bãi cát, ta thấy Cao Bá Quát là một người tài năng, tận trung với đất nước, chán ghét chế độ thi cử tầm thường và mong muốn thay đổi cuộc sống. Ông là một nhà nho chân chính, không bao giờ từ bỏ ước mơ của mình, mạnh mẽ đương đầu với mọi thách thức. Dù gặp khó khăn, nhưng ông không bao giờ chùn bước.
Tài văn của Cao Bá Quát thực sự xứng đáng với danh hiệu thánh Quát, qua Bài ca hành, ta nhận thấy cách ông sử dụng từ ngữ độc đáo, miêu tả một cách tinh tế. Ta có thể hình dung con đường mà ông đi, thấy rõ những cảnh đẹp và gian khó trên con đường của ông.
Nhân cách của nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng
Bản tóm tắt về nhân cách của nhà nho trong Bài ca ngất ngưỡng
I. Khai mạc
- Giới thiệu về Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng với dấu ấn sâu sắc trong văn chương và nhiều lĩnh vực khác. Thơ văn của ông thể hiện sự sâu sắc về nhân sinh và thế sự.
- Giới thiệu vấn đề: Bài ca ngất ngưởng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Công Trứ, thể hiện tài năng và ý thức cá nhân của ông - một nhà nho chân chính.
II. Nội dung chính
1. Khám phá về 'nhân cách nhà nho chân chính'
- Nhân cách: phẩm cách, phẩm đức, phẩm hạnh của con người
- Nhà nho chân chính: Người nho sống theo nguyên tắc và chuẩn mực của bản thân, không vi phạm lương tâm, dám tự tin khẳng định tài năng và bản lĩnh của mình
2. Nhà nho chân chính là người dám thể hiện bản lĩnh, mang tài năng đến với cõi quan trường
- Sự xuất hiện của nhà nho với tài năng, bản lĩnh và tính cách độc đáo
+ “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: Thái độ tự tin khẳng định mọi sự trong trời đất đều do tác giả quyết định ⇒ Tuyên ngôn về chí khí của nhà thơ.
+ “Ông Hi Văn…vào lồng”: Bước vào thế giới quan trường có thể là gò bó, nhưng cũng là cơ hội để nhà nho chân chính thể hiện tài năng của mình
- Tác giả tổng kết những việc đã làm tại quan trường và tài năng của mình ⇒ Những hành động mà một nhà nho chân chính nên và cần thực hiện
+ Tài năng: Xuất sắc trong văn chương (đạt thủ khoa), Lãnh đạo quân sự (chiến thắng trong trận trận) ⇒ Tài năng vượt trội
+ Tự hào về danh vị, vượt trội xã hội: Tham gia chính trị, Trở thành Tổng đốc, Lãnh đạo quân đội (thắng lợi ở Trấn Tây), Đảm nhận chức vụ ở Thừa Thiên
⇒ Khẳng định tài năng và tinh thần lý tưởng tự do của một nhà nho với tài năng vượt trội
3. Nhà nho chân chính cũng là người tự do tự tại, sống tự nhiên theo phong cách của mình
- Theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ, nhà nho chân chính sống theo ý chí và sở thích riêng của mình
+ Lên ngựa bằng cách đeo đai ngựa.
+ Khi đến chùa, ông đi với đôi gót tiên đi trước.
+ Kể cả bụt cũng phải ngạc nhiên: cho thấy hành động độc đáo của tác giả là những hành động đặc biệt (lưu ý, điều này là minh chứng cho nhân cách của nhà nho chân chính theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ)
⇒ Nghệ sĩ mong muốn sống theo cá tính riêng
- Nhà nho theo triết lí tự nhiên, tự do tự tại, tận hưởng niềm vui làm lẽ sống
+ “Được mất... ngọn đông phong”: Tự tin so sánh với 'thái thượng', tức sống tự do, không màng đến lời khen chê từ thế gian
+ “Khi ca… khi tùng”: Tạo ra cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, với việc lặp lại từ “khi” để tạo ra cảm giác vui vẻ triền miên.
+ “Không … tục”: Khẳng định lối sống riêng biệt của bản thân
⇒ Nhà nho chân chính theo Nguyễn Công Trứ là người không bị ràng buộc bởi tư tưởng cũ, bảo thủ của phong kiến
4. Theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ, nhà nho chân chính cũng là người tuân theo đạo lý trung quân
+ “Không ngược như Trái.. Như ý vua ta cho trọn con đường đạo sơ chung”: Sử dụng biện pháp so sánh để nêu bật sự trung thành và tài năng của bản thân, sánh ngang với những danh tướng như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…
⇒ Tự khẳng định bản lĩnh, tài năng không thua kém danh tướng. Tự tin tuyên bố là người tôn trọng và tuân theo đạo lý trung quân.
+ “Ai trong triều cao ngạo như ông”: Đặt câu hỏi nhưng cũng đồng thời khẳng định vị trí đặc biệt và cao quý trong triều đình về cách sống “cao ngạo”
⇒ Nhà nho chân chính không bị ràng buộc bởi những quy tắc cũ kỹ, những nguyên tắc bảo thủ mà sống chân chính theo tài năng và quan điểm của mình
III. Phần Kết
- Tóm tắt một số điểm nổi bật về mặt nghệ thuật thể hiện thành công nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ
- Suy ngẫm về chính mình đối với nhân cách nhà nho chân chính
Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 1
Nguyễn Công Trứ là một học giả uyên bác, tài năng vượt trội, đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng trong triều đình. Dù gặp phải nhiều khó khăn và trở ngại trong cuộc đời, ông vẫn giữ vững bản tính của một nhà nho chân chính, không bị gì có thể làm lay chuyển được. Lối sống 'ngất ngưởng' đặc biệt của ông đã được thể hiện một cách toàn diện trong tác phẩm 'Bài ca ngất ngưởng' của ông.
Nhân cách là về đạo đức và phẩm chất của con người, và nhà nho là cách gọi cho những người có tri thức theo truyền thống Nho học. Nhân cách của một nhà nho chân chính chính là biết cách 'tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ'. Sự hiện diện của nhân cách nhà nho chân chính trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã được thể hiện rõ khi ông làm quan và khi ông về hưu.
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.”
Trong tác phẩm, ông đã khẳng định rằng mọi việc trên thế giới này đều là phận sự của tác giả. Dù ông đã đạt được nhiều thành công và giữ vững những vị trí quan trọng trong triều đình, nhưng ông cũng bộc lộ sự buồn bã vì cuộc sống bị 'vào lồng', hạn chế. Các vị trí quan trọng mà ông giữ đều là những vị trí quan trọng: Tham tán, Tổng đốc đông, Bình Tây đại tướng, Phủ doãn Thừa Thiên. Nguyễn Công Trứ là một người rất rõ ràng về trách nhiệm của một người sĩ với cuộc sống. Dù ông biết rằng làm quan sẽ mất đi sự tự do, nhưng ông vẫn sẵn lòng làm điều đó, bởi chỉ khi ở trong đó, ông mới có cơ hội góp phần vào sự phát triển của đất nước, làm tròn chí làm trai của một người đàn ông: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển”. Trong khi các nhà Nho thường sống khiêm nhường và không bao giờ tự cao tự đại, ông Hi Văn lại tỏ ra mạnh mẽ, dám thể hiện bản lĩnh và khẳng định mình: “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”. Trong lời thơ của ông ta, ta còn cảm nhận được sự khinh thường của tác giả đối với những người không có tài năng mà chỉ hám danh lợi, sống trong hạn chế của xã hội phong kiến.
Khi ông từ chức quan, đó chính là lúc cái tôi ngất ngưởng của ông được thể hiện rõ nhất:
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Nguyễn Công Trứ thực sự đã sống một cuộc đời tự do, tự tại như con chim được tháo cúi sổ lồng. Hành động và lời nói của ông là biểu hiện của một lối sống rất 'ngông', là nét đặc trưng của cốt cách Nguyễn Công Trứ. Ông Hi Văn cưỡi bò vàng với nhạc ngựa, thu hút rất nhiều sự chú ý. Sau khi nghỉ hưu, ông sống ở núi Đại, với mây trắng bao phủ, tạo ra cảnh quan như ở thiên đường. Ông thường đi viếng chùa, nhưng luôn dẫn theo các cô hầu con, điều này không tuân thủ quy tắc của chùa. Nguyễn Công Trứ không quan tâm đến luật lệ, sống cuộc đời phá cách, ngang tàng, khiến cho thậm chí cả bụt cũng phải cười với lối sống của ông.
Không chỉ thế, ông cũng bày tỏ quan điểm về lẽ sống: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Ông nhấn mạnh rằng việc thăng trầm trong cuộc sống là điều bình thường và mỗi người cần chấp nhận những biến đổi đó. Ông cũng tuyên bố rằng ông không quan tâm đến lời khen - chê từ người khác, và thích thú làm những điều mình muốn: “Khi ca khi tửu, khi cắc, khi tùng/ Không Phật, không Tiên, không vướng tục”.
Cuối cùng, trong khổ thơ cuối, Nguyễn Công Trứ tỏ ra rất trung thành với lẽ sống của mình: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung/ Trong triều ai ngất ngưởng như ông”. Mặc dù có thể ông không phải là một danh tướng, nhưng ông vẫn giữ vững đạo đức của mình, điều này thật sự đáng trân trọng. Ông đã dành cả cuộc đời để phục vụ đất nước, làm trọn vẹn lẽ sống của mình, và không ai có thể ngất ngưởng như ông.
Qua Bài ca ngất ngưởng, ta có thể thấy rằng, lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ có nguồn gốc từ quan niệm Nho giáo về lòng trung quân, và đó cũng chính là nhân cách của một nhà nho chân chính. Nhân cách đó thật đặc biệt, khác biệt, ông không bị ràng buộc bởi những tư tưởng Nho học truyền thống, nhưng vẫn giữ vững đạo đức với vua và đất nước. Điều này tạo nên dấu ấn riêng biệt cho Nguyễn Công Trứ.
Nhân cách của nhà Nho trong 'Bài ca ngất ngưởng' - Mẫu 2
Nguyễn Công Trứ là một người có tài năng, ý chí và phẩm chất đạo đức. Sinh ra trong một gia đình theo truyền thống Nho giáo, từ khi còn nhỏ ông đã nghiên cứu sâu lắng các tác phẩm triết học và thi cử thành công, trở thành một quan lại quan trọng dưới triều đại Nguyễn. Ông không chỉ là một nhà quân sự và chính trị gia tài ba, mà còn là một nhà thơ tài năng sử dụng thơ ca để thể hiện quan điểm và tự khẳng định. Trong tác phẩm văn học của mình, ông được biết đến nhiều nhất qua 'Bài ca ngất ngưởng', nơi ông thể hiện nhân cách của một nhà Nho chân chính, với nhiều điểm khác biệt vượt ra khỏi lề lối truyền thống của Nho giáo, tạo nên một cá nhân mới mang đậm dấu ấn của Nguyễn Công Trứ.
'Bài ca ngất ngưởng' có thể được coi là một bản tóm tắt ngắn gọn về cuộc đời và tính cách của ông Hi Văn (tên hiệu của Nguyễn Công Trứ). Ông thể hiện giá trị của bản thân mình thông qua thái độ kiêu căng, sự trung thực và lối sống 'ngông' của mình. Điều này làm nổi bật nhân cách của một nhà Nho chân chính, người có quan điểm sống tiến bộ đáng được tôn vinh và học tập.
Nhà Nho là ai? Nhà Nho là những nhà tri thức thời xưa theo đạo đức, triết lý và tôn giáo của Nho giáo, được thiết lập để xây dựng một xã hội tốt đẹp. Những người này tuân thủ các chuẩn mực đạo đức và triết lý, được gọi là nhà Nho. Nhân cách là gì? Nhân cách là tư cách, phẩm chất đạo đức mà mỗi người mang trong mình. Nhân cách này làm nên giá trị con người và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Vậy nhân cách của một nhà Nho chân chính được hiểu như thế nào? Để hiểu rõ hơn, hãy tìm hiểu qua tác phẩm 'Bài ca ngất ngưởng' của Nguyễn Công Trứ, nơi ông thể hiện nhân cách của mình.
Trước hết, nhân cách của một nhà Nho chân chính phải là người có 'Chí làm trai'. Ngay từ đầu, ông đã khẳng định: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”, ý nói mọi việc trong vũ trụ đều phận sự của ta. Ông thể hiện tư tưởng này nhiều lần trong các tác phẩm khác như “Gánh trung hiếu” với câu “Vũ trụ chức phận nội”, hay trong bài “Luận kẻ sĩ” có câu “Vũ trụ giai ngô phận sự”, tức là mọi việc trong vũ trụ đều là phận sự của ta. Ý nói đến trách nhiệm của kẻ sĩ đối với cuộc đời. Tư tưởng này thể hiện lòng trung thành và trách nhiệm của một người đàn ông đối với xã hội, tiếp nối truyền thống của các nhà Nho chân chính từ xưa như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Thứ hai, nhân cách của nhà Nho chân chính được thể hiện qua việc họ biết 'tự trau dồi bản thân' theo quan niệm của nhà Nho, gồm ba việc quan trọng là 'trau dồi bản thân, cống hiến cho đất nước, đảm bảo hòa bình cho thiên hạ'. Trong việc 'trau dồi bản thân', việc học tập mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Học là con đường để theo đuổi công danh và thành tựu. Như nhiều nhà Nho khác, Nguyễn Công Trứ luôn nỗ lực để đỗ đạt và cống hiến kiến thức và phẩm đức của mình cho đất nước và nhân dân. Điều này được chứng minh thông qua việc ông đã từng giữ nhiều chức vị quan trọng trong triều như được thể hiện trong bốn câu thơ:
“Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Ông từng đảm nhận nhiều vị trí quan trọng như Thủ khoa, Tham tán chỉ huy quân ở vùng Tây Nam Bộ, Tổng đốc Đông làm trưởng một tỉnh hoặc vài ba tỉnh, Đại tướng là người dẫn đầu đội quân bảo vệ Trấn Tây, phủ doãn đứng đầu kinh đô. Ngoài ra, ông còn tham gia vào nhiều hoạt động khác như khai hoang ở Kim Sơn và Tiền Hải, quản lý hệ thống đê sông Hồng; chiến đấu với tệ nạn ở nông thôn… Tất cả các công việc đều được Nguyễn Công Trứ thực hiện với trách nhiệm và có hiệu quả cao. Sự nghiệp của ông mở ra những cơ hội mới cho đến khi ông nghỉ hưu. Ông tự tin xác định mình là người có 'tài năng lỗi lạc, xuất chúng' trong vũ trụ. Theo quan điểm của nhà Nho, người có tài năng cũng cần phải khiêm nhường, nhưng Nguyễn Công Trứ đã tự tin, mạnh mẽ đánh giá cao bản thân, thể hiện tài năng của mình một cách đặc biệt, vượt ra khỏi giới hạn của nhà Nho.
Nhà Nho chân chính là những người không quan tâm đến danh lợi, không mơ mộng về sự giàu có và danh vọng. Họ hy sinh bản thân chỉ để phục vụ vua và đất nước. Như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi thời cuộc hỗn loạn, tranh giành quyền lực, họ chọn con đường rút lui, ẩn dật. Nguyễn Công Trứ cũng vậy, khi nói về các chức vị của mình, ông sử dụng ngôn từ súc tích, ngắn gọn để chỉ ra rằng ông không coi trọng danh vọng, mà tất cả chỉ là phận sự của một con người trong vũ trụ. Ông từng nổi tiếng với câu nói: “Làm tổng đốc tôi không làm lớn lao, làm lính tôi cũng không thấy nhục”. Mặc dù giữ nhiều chức vị cao trong triều, nhưng ông coi nhẹ, không coi trọng những điều đó. Điều đó làm cho ông tự hào thể hiện cái tôi 'ngất ngưởng' của mình trong toàn bài.
Nhân cách của Nguyễn Công Trứ, một nhà Nho chân chính, đặc biệt và khác biệt, tạo nên nét độc đáo riêng. Trong khi nhiều nhà Nho khác, khi đạt được vị trí quan trọng thì suốt đời họ dành toàn bộ thời gian và công sức cho việc công danh, thì với ông, sau khi hoàn thành trách nhiệm của mình 'về tôi', hết sức cho phép mình thưởng thức cuộc sống, hưởng lạc. Ông tin rằng 'cuộc sống là để thưởng lạc, chơi đâu đó là lợi' và ông thể hiện điều này một cách không giống ai. Người ta thường thấy các quan lớn di chuyển bằng ngựa hoặc kiệu, nhưng Nguyễn Công Trứ lại chọn cách ngất ngưởng trên con bò vàng đeo đầy những vật trang trí: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”. Một số người cho rằng ông quá phô trương, kỳ lạ, còn một số khác nghĩ rằng ông kiêu ngạo, coi thường ý kiến của người khác, nhưng thực tế đó chỉ là cách ông thể hiện sự cá nhân 'ngất ngưởng' của mình, cho thiên hạ thấy ông đã được 'giải tổ chi niên', thoát ra khỏi 'lồng' làm quan trở nên tự do, không bị gò ép tâm hồn như tác giả cá nhân đã mô tả.
Ông sống ẩn dật và tận hưởng cuộc sống theo cách riêng của mình. Trái với mọi người đến chùa để cầu phước, ông lại tổ chức tiệc hát hò, có cả dàn nhạc đi kèm:
“Kìa núi nọ phủ mây trắng
Tay Kiếm tay cung mà vẫn từ bi
Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng phải cười ông ngất ngưởng”
Bốn câu thơ này thể hiện sự đối lập trong nhân cách của nhà nho. Sử dụng kiếm và cung mà lại mang tư tưởng từ bi là điều kỳ lạ. Viếng chùa để tịnh tâm nhưng mang theo ảnh hầu có vẻ không phù hợp, nhưng đó lại là điều khiến Bụt phải mỉm cười trước sự rộng lượng của ông.
Ông không quan tâm đến danh lợi và không để ý đến sự khen chê từ người khác:
“Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới như cơn gió đông
Khi ca, khi uống, khi đánh bài, khi tiệc tùng
Không Phật, không tiên, không quan tâm đến việc vật chất”
Ông sống giữa thế tục nhưng tâm hồn ông bay vút cao lên trên với những giai điệu rộn rã của ca hát, tiếng đàn. Đối với ông, hạnh phúc thật sự là được sống theo cách của mình, không quan tâm đến sự đánh giá của người khác về thành công hay thất bại, lời khen ngợi hay lời chỉ trích. Dù đang ở nơi cửa Phật và có người theo sau nhưng ông vẫn cảm thấy tâm hồn mình thanh sạch và không bị ràng buộc bởi vật chất. Bốn dòng thơ này thể hiện tâm hồn rộng mở, phóng khoáng của ông, khác biệt hoàn toàn với những quy tắc và chuẩn mực truyền thống.
Ông tự tin đặt mình ngang hàng với những danh tài lỗi lạc ở Trung Hoa:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông”
Ông vẫn tự tin khẳng định mình là nhà nho chân chính, đã trọn vẹn đạo sơ chung. Ông sống và làm việc với tinh thần cống hiến mà vẫn biết tận hưởng cuộc sống. Ông tự tin khẳng định trong triều không ai sánh kịp ông.
Mặc dù ngông nghênh nhưng ông vẫn là một nhà nho chân chính với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Tư duy độc đáo và tầm nhìn xa trông rộng của ông cũng được thể hiện trong tác phẩm “Sa hành đoản ca” của Cao Bá Quát, khi ông coi thường danh lợi, công danh và những kẻ ham mê vật chất.
'Bài ca ngất ngưởng” là minh chứng cho cái tôi độc đáo của Uy Viễn đại nhân, không bị ràng buộc bởi lễ giáo nho gia mà luôn tự do phóng khoáng với niềm vui cá nhân. Những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đã làm nên bộ mặt mới cho nhân cách nhà nho chân chính trong thời đại đó.
Nhân cách nhà nho trong Bài ca ngất ngưởng - Mẫu 3
Cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, một nhà nho chân chính, phản ánh sự đối lập và đặc biệt trong tính cách của ông. Dù gặp nhiều sóng gió và thăng trầm trong cuộc sống, ông vẫn giữ vững bản ngã của mình và không theo khuôn mẫu của xã hội phong kiến.
'Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc Bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.'
'Bài ca ngất ngưởng' là một tác phẩm ca trù mang đậm nét độc đáo và sáng tạo. Nguyễn Công Trứ đã thể hiện sự khác biệt bằng cách sử dụng câu chữ Hán và chữ Nôm, tạo nên một cách diễn đạt mới lạ và độc đáo.
Theo quan điểm của ông, trên thế gian này không có gì thuộc về riêng của bất kỳ ai. Ông sử dụng tri thức và tài năng của mình để phục vụ đất nước và nhân dân mà không cốt lõi vào sự sở hữu cá nhân. Ông vượt qua những ràng buộc của việc làm quan và không sợ phản đối ý kiến phổ biến.
'Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.'
Nguyễn Công Trứ, sau khi từ chức vào năm 1848, thể hiện sự độc lập và kiêng nhẫn của mình. Ông làm rõ rằng ông không còn bị ràng buộc bởi các quy tắc xã hội và tôn giáo nữa, ông theo đuổi cuộc sống của riêng mình.
'Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không tiên, không vướng tục.'
Hai câu thơ cuối nhấn mạnh ý nghĩa của sự 'ngất ngưởng' trong cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, là sự vượt trội và độc lập so với xã hội và tôn giáo. Ông không bị buộc vào các giá trị truyền thống mà tự tạo ra con đường riêng cho mình.
'Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.'
Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh rằng trong cuộc sống, việc 'được' và 'mất' là điều bình thường. Ông chấp nhận những biến động của cuộc sống mà không quá quan trọng với sự thành công hay thất bại. Quan trọng hơn, ông chủ trương một tư duy tích cực về việc được đánh giá và phê phán.
'Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Trong triều ai ngất ngưởng được như ông.'
Hai câu cuối của bài thơ nhấn mạnh phong cách riêng biệt của Nguyễn Công Trứ, khi ông tự nhận mình vào hàng của những người tài giỏi. Ông khẳng định vị thế và phong cách độc đáo của mình trong xã hội.
Trong tác phẩm 'Sa hành đoản ca', Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ thể hiện quan điểm sống độc đáo của mình. Cả hai nhà thơ đều coi thường danh lợi và công danh trong một xã hội đã thối nát. Họ không chấp nhận bị buộc vào tư tưởng lỗi thời của Nho học, mà tạo ra phong cách sống và tư duy mới mẻ, đặc trưng cho bản thân mình.