
Trống đồng (giản thể: 铜鼓; phồn thể: 銅鼓; bính âm: tóng gǔ; Hán Việt: đồng cổ) là một loại nhạc cụ gõ bằng đồng đặc trưng ở khu vực Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc, xuất hiện từ thời kỳ đồ đồng.
Trống đồng không chỉ được sử dụng như một nhạc cụ mà còn mang nhiều ý nghĩa khác, như biểu tượng của quyền lực và tôn giáo. Theo truyền thuyết Việt Nam, trống đồng là vật linh thiêng với vị thần tự xưng là thần trống đồng, hay còn gọi là thần Đồng Cổ, đã hỗ trợ nhiều triều đại Việt Nam trong việc bảo vệ đất nước từ thời Vua Hùng đến các triều đại Lý, Trần... Trống thường được sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo, lễ hội, và trong chiến tranh khi thủ lĩnh kêu gọi mọi người tụ tập để chiến đấu. Trống thường thuộc về các thủ lĩnh và là biểu tượng của quyền lực; trống càng lớn và đẹp thì quyền lực của người sở hữu càng lớn. Trống đồng cũng được xem là tài sản quý giá và thường được chôn theo khi chủ nhân qua đời.
Ngày nay, mặc dù có hàng trăm chiếc trống đồng được bảo tồn và trưng bày tại các bảo tàng quốc gia và địa phương, trống đồng dường như đã vắng mặt trong đời sống thường ngày, kể cả trong các dịp lễ hội. Hiện nay, trống đồng chủ yếu xuất hiện tại các viện bảo tàng và trong các câu chuyện cổ tích. Tuy nhiên, tại vùng Thanh Sơn, miền Tây tỉnh Phú Thọ, vẫn duy trì ngày hội Trống đồng của dân tộc Mường với các hoạt động như 'Đâm đuống' và 'Chàm thau.' Đây cũng là một trong những vùng ở Việt Nam phát hiện nhiều trống đồng nhất. Do đó, Việt Nam đã khôi phục tập tục đánh trống đồng vào ngày giỗ Tổ các vua Hùng vào ngày 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm.
Người Karenni ở Myanmar vẫn sử dụng trống đồng trong các nghi lễ cầu mưa. Trống đồng cũng là một nhạc cụ lễ nghi phổ biến trong các cộng đồng dân tộc Khơ Mú, Pu Péo, Lô Lô và Mường ở Việt Nam hiện nay. Trong những cộng đồng này, trống đồng chủ yếu được dùng trong tang lễ và không được sử dụng cho các mục đích khác.
Tài liệu lịch sử

Tài liệu cổ xưa nhất liên quan đến trống đồng được ghi chép trong Sử Bản (tiếng Trung: 史本; bính âm: Shǐ běn), một cuốn sách Trung Quốc từ trước thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Cuốn sách này hiện không còn, nhưng một phần nội dung của nó được dẫn lại trong cuốn Thông điển (通典) của Đỗ Hữu (杜佑).
Trong cuốn Hậu Hán thư (後漢書), quyển 14 ghi nhận: 'Người Giao Chỉ coi trống đồng là linh vật, họ rất hăng hái khi nghe tiếng trống trong lúc chiến đấu...'. Cuốn sách này cũng cho biết rằng Mã Viện, tướng nhà Hán, sau khi dập tắt cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng vào khoảng năm 40-43, đã thu thập trống đồng từ các thủ lĩnh địa phương, một phần được tặng, phần còn lại bị nấu chảy để đúc ngựa và cột đồng Mã Viện.
Vào thế kỷ 14, sứ giả Nhà Nguyên, Trần Phu (陳孚), sau chuyến đi công tác tại Đại Việt đã viết một bài thơ để bày tỏ cảm xúc của mình, trong đó phần đầu tiên nguyên văn như sau:
金戈影裏丹心苦, 銅鼓聲中白髮生。
— 陳孚, 交州使還感事其一
Phiên âm Hán-Việt:
Kim qua ảnh lý đan tâm khổ, Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh.
— Trần Phu, Giao Châu sứ hoàn cảm sự kỳ 1
Trần Phu nhắc đến âm thanh của trống đồng cho thấy vào thời điểm đó, trống đồng vẫn còn được sử dụng.
Các tài liệu như Việt Điện U Linh Tập và Lĩnh Nam Chích Quái từ thế kỷ 14 ghi chép nhiều truyền thuyết liên quan đến trống đồng. Ngoài ra, các bộ sử như Đại Việt Sử ký Toàn thư cũng đề cập đến trống đồng.
Khảo cổ

Trống đồng là một trong những di chỉ khảo cổ học quan trọng nhất được phát hiện tại Đông Nam Á và miền Nam Trung Quốc. Trong khu vực này, trống đồng đã được các cộng đồng dân tộc sử dụng từ thời kỳ tiền sử đến hiện tại. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trống đồng ở nhiều địa phương khác nhau ở Đông Nam Á, thường là trong các khu mộ táng quan trọng hoặc mộ của những nhân vật quan trọng trong cộng đồng. Nhiều trống đồng được tìm thấy dọc theo các con sông và tuyến đường thủy, vì đây là phương tiện giao thông chủ yếu của cư dân bản địa thời bấy giờ.
Tại Bắc Việt Nam và Tây Nam Trung Quốc, đặc biệt là tỉnh Vân Nam và khu tự trị người Tráng ở Quảng Tây, đã phát hiện số lượng lớn trống đồng cổ. Theo một báo cáo năm 1988, Trung Quốc đã tìm thấy 1460 chiếc trống đồng. Tại Việt Nam, tính đến năm 1980, tổng số trống đồng được phát hiện là 960 chiếc, trong đó có 540 chiếc thuộc loại trống đồng Đông Sơn và 420 chiếc thuộc loại trống đồng Ngọc Lũ.
Trống đồng cũng đã được phát hiện ở nhiều quốc gia khác như: Indonesia, Thái Lan, Myanmar, Lào, Campuchia, Malaysia, Philippines và Nhật Bản.
Trống đồng đóng vai trò quan trọng trong nền văn hóa Đông Sơn, nổi tiếng với các trống đồng được trang trí tinh xảo và được tìm thấy rộng rãi ở Đông Nam Á và miền Bắc Việt Nam. Một số lượng lớn trống Đông Sơn đã được khai quật tại Mê Linh, trung tâm của nền văn hóa này. Ngoài ra, nhiều trống Đông Sơn cũng được phát hiện ở đồng bằng sông Hồng, nơi cư dân đông đúc sinh sống từ thời kỳ cổ.
Cấu tạo và cách sử dụng

Trống đồng thường có đường kính mặt khoảng 50 cm và chiều cao từ 45 đến 50 cm, với mặt trống phủ sát đến tang trống. Kích thước này cho thấy trống đồng của loại này là trung bình so với các loại trống Đông Sơn đã được phát hiện ở Việt Nam. Mặt trống có hình ngôi sao 14 cánh và không có hình tượng cóc trên viền mặt trống. Phần trên của thân trống phình ra, nâng đỡ mặt trống, trong khi phần dưới có hình dạng trụ tròn.
Loại trống đồng này được chế tác từ hợp kim đồng, âm thanh của nó không vang và không trong như loại Hê gơ I thuộc trống đồng Đông Sơn.
Trống đồng thường được đặt úp trên mặt đất hoặc sàn nhà, và người ta sử dụng dùi có đầu bọc vải để gõ vào. Trong các nghi lễ tang lễ, trống đồng thường đi kèm với kèn bầu, cồng chiêng, thanh la và trống bịt da dê. Người Khơ Mú dùng dùi thẳng có đầu bọc vải để gõ vào trống đặt úp xuống, trong khi người Lô Lô đặt hai trống đồng nghiêng hoặc treo nghiêng với mặt trống đối diện nhau và sử dụng dùi thẳng tương tự như người Khơ Mú.
Đối với các dân tộc này, tiếng trống đồng được coi là âm thanh của trời (như tiếng sét), còn mặt trống tượng trưng cho mặt trời. Âm thanh của trống dẫn đường cho linh hồn người đã khuất trở về với tổ tiên.
Trống đồng ở Việt Nam rất phong phú về chủng loại. Bên cạnh các loại trống đã đề cập, còn nhiều loại khác như Quảng Xương, Sông Đà, Thượng Lâm, Hoàng Hạ và Ngọc Lũ.
Hiện nay, một số nhóm người Dao và người Tráng tại Trung Quốc vẫn tiếp tục sử dụng trống đồng trong các lễ nghi truyền thống. Tại Việt Nam, các dân tộc như Mường, Pu Péo và Lô Lô cũng vẫn sử dụng trống đồng. Người Pu Péo có các trống 'đực' và 'cái' ghép thành cặp đôi, treo quay mặt vào nhau, với một người đứng giữa dùng củ chuối để gõ trống trong các lễ cúng. Người Lô Lô cũng sử dụng trống đồng theo cặp: một trống lớn (trống cái) gọi là dảnh mo và một trống nhỏ (trống đực) gọi là dảnh pố.
Phân loại
Theo phân loại của nhà khảo cổ học người Áo Franz Heger:

- Trống Heger I, thường được gọi là trống Đông Sơn, có kích thước lớn với thân hình trụ thẳng đứng. Mặt dưới của trống để trống, trong khi mặt trên có hình sao nổi với 12 cánh. Một số trống có 8 cánh sao như trống đồng Quảng Xương, 14 cánh như trống đồng Ngọc Lũ, Sông Đà, Thượng Lâm, hoặc 16 cánh như Hoàng Hạ và Salayar. Loại trống này phân bố rộng rãi ở Đông Nam Á, với số lượng tập trung chủ yếu ở Việt Nam. Những mẫu tiêu biểu bao gồm trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ và Sông Đà.

- Trống Heger II: Thân trống chỉ có hai phần, không còn hình người hay vật mà thay vào đó là các hoa văn hình học tinh xảo. Trên mặt trống thường có hình khối với bốn con cóc, đôi khi là sáu con, và mặt trời với 8 tia. Loại trống này chủ yếu phân bố ở Quảng Đông và Quảng Tây, Trung Quốc, và cũng xuất hiện nhiều ở Việt Nam, nơi nó được gọi là trống Mường và được sử dụng bởi người Mường.

- Trống Heger III có quai nhỏ và đẹp mắt. Mặt trống thường có hình mặt trời với 12 cánh và 4 góc có hình các con cóc, thường là ba con xếp chồng lên nhau thành 12. Hoa văn trang trí hoàn toàn bằng họa tiết hình học. Dưới chân trống có hình các voi đúc nổi quanh cây 'đời sống', hoặc đôi khi là ốc thay vì voi. Loại trống này được phát hiện ở Việt Nam, Lào, Thái Lan, Myanmar và Vân Nam (Trung Quốc).

- Trống Heger IV thường có kích thước nhỏ, không có hình cóc. Ngôi sao trên mặt trống luôn có 12 tia, và thường rõ ràng tên 12 con vật địa chi. Loại trống này được tìm thấy ở Trung Quốc và Việt Nam.
Trong hệ thống phân loại này, trống loại I được xem là loại cổ xưa nhất.
Tại Indonesia, tồn tại một loại trống đồng đặc biệt với thân dài, gọi là trống Moko, không thuộc vào các loại trống Heger. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng thiết kế và hoa văn của loại trống này có thể có nguồn gốc từ văn hóa Đông Sơn. Chiếc trống Moko nổi tiếng nhất là 'Trăng Pejeng' (Moon of Pejeng), có đường kính 160 cm và chiều cao 180 cm, được ước tính có niên đại từ 1000 đến 2000 năm, hiện đang được sử dụng trong một ngôi đền ở Pejeng, Bali. Trên đảo Alor, Indonesia, trống Moko vẫn được dùng trong lễ cưới và biểu trưng cho địa vị xã hội.
Vào năm 1976, một loại trống nhỏ được phát hiện tại Vạn Gia Bá (万家坝), Trung Quốc, được gọi là trống Vạn Gia Bá. Theo phân loại của Trung Quốc, loại trống này là trống Tiền Heger và được coi là nguồn gốc của tất cả các loại trống Heger. Ở Việt Nam cũng đã phát hiện loại trống này, nhưng nhiều nhà khảo cổ học Việt Nam lại xem đây là giai đoạn cuối của loại Heger I.
Nghiên cứu nguồn gốc của trống đồng
Ở phương Tây, đã có dấu vết về sự biết đến trống đồng từ năm 1682. Tuy nhiên, phải đến cuối thế kỷ 19 mới có các học giả thảo luận về trống đồng, như Hirth (1890), người cho rằng trống đồng có nguồn gốc từ Trung Quốc, còn De Grooth (1901) lại cho rằng từ Việt Nam. Trong cuốn sách Alte Metalltrommeln aus Südost Asien (Trống kim loại cổ Đông Nam Á) xuất bản năm 1902, Franz Heger, nhà khảo cổ học người Áo, khẳng định rằng trống đồng xuất phát từ miền Bắc Việt Nam và các nghiên cứu sau này về trống đồng phải tập trung ở khu vực này. Heger đã phân loại 165 chiếc trống được biết đến vào thời điểm đó thành bốn loại - phân loại Heger. Trước thập niên 1950, đã có một số phương pháp phân loại khác được đề xuất, nhưng không có phương pháp nào được chấp nhận rộng rãi như phân loại của Heger.
Nghiên cứu về trống đồng chỉ bắt đầu được chú ý từ cuối thế kỷ 19, và công việc này chủ yếu do các học giả phương Tây thực hiện. Trước những năm 1950, đa phần các nghiên cứu quan trọng đều đến từ các học giả phương Tây, nổi bật nhất là Heger. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949 và Việt Nam bị chia cắt năm 1954, các học giả Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu dẫn đầu trong nghiên cứu trống đồng. Cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 chứng kiến nhiều cuộc tranh luận về phân loại trống, ý nghĩa của các họa tiết trang trí, và niên đại trống. Tranh cãi chính là về nguồn gốc của trống đồng: miền Bắc Việt Nam hay miền Nam Trung Quốc. Các học giả Việt Nam ủng hộ phân loại của Heger, cho rằng trống đồng Đông Sơn (Heger loại I) là cổ nhất, trong khi nhiều học giả Trung Quốc ban đầu phản đối và cho rằng trống tương ứng với Heger loại II mới là cổ nhất. Sau khi phát hiện trống Vạn Gia Bá, một loại trống gần giống Đông Sơn nhưng hoa văn đơn giản hơn tại Vân Nam, các học giả Trung Quốc đã đồng thuận với phân loại của Heger nhưng bổ sung thêm một loại trống cổ hơn là Vạn Gia Bá. Theo phân loại của Việt Nam, trống Vạn Gia Bá (như trống Thuong Nong tìm thấy ở Việt Nam trong thập niên 1980) là biến thể cuối của trống Đông Sơn.
Các nhà nghiên cứu từ Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa đạt được sự đồng thuận về nguồn gốc của trống đồng - một truyền thống có thể đã được chia sẻ giữa tổ tiên của cả hai quốc gia. Vào thời điểm trống đồng ra đời, không tồn tại đường biên giới giữa Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc. Nhiều nhóm người sống trong khu vực rộng lớn này có thể đã có liên hệ sinh học hoặc văn hóa. Charles Higham, một học giả phương Tây đứng ngoài cuộc tranh cãi, cho rằng xu hướng dân tộc chủ nghĩa của các nhà khảo cổ học Việt Nam và Trung Quốc đã làm mờ đi những gì khảo cổ học đã tiết lộ. Ông đưa ra giả thuyết rằng trống đồng được tạo ra bởi các nghệ nhân tài ba từ các xã hội ngày càng phức tạp với lãnh thổ trải rộng qua biên giới Việt-Trung hiện nay, để trang bị cho các chiến binh và biểu thị vị thế của các lãnh đạo. Ông viết: 'Việc tìm nguồn gốc ở một vùng cụ thể đã bỏ qua điều quan trọng. Những thay đổi đã diễn ra từ miền Nam Trung Quốc đến đồng bằng sông Hồng bởi các nhóm người đã trao đổi hàng hóa, tư tưởng và cùng chống lại sự bành trướng từ phía Bắc của một quốc gia mạnh mẽ và hiếu chiến.'
Trống đồng trong thời kỳ trung đại và hiện đại

Bảo tàng Lịch sử Việt Nam đang lưu giữ một chiếc trống đồng Cảnh Thịnh nặng 32 kg, với đường kính mặt 54,3 cm và cao 37,40 cm. Chiếc trống được đúc theo kiểu trống da, hình trụ. Mặt trống có hình cong với hai vòng tròn kép tượng trưng cho mặt trời ở giữa. Thân trống chia thành ba phần, được ngăn cách bằng hai đường gân nổi, và có 4 quai hình khuyên gắn đều trên thân. Xung quanh trống, từ trên xuống dưới, là các băng hoa văn nổi: nhũ đinh, lá đề, hồi văn chữ T và đề tài tứ linh: long, ly, quy, phượng. Văn tự khắc trên thân trống ghi lại việc người vợ của Tổng thái giám Giao quận công thuộc năm Vĩnh Hựu thứ 2 đời Vua Lê Ý Tông (1736) đã góp công xây dựng chùa Linh Ứng (nay là chùa Nành), cùng với thông tin về việc đúc trống để thờ cúng và tu bổ chùa. Văn tự cũng cho biết trống được đúc vào tháng 4 năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Thịnh đời Vua Nguyễn Quang Toản (1800), tại xã Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn (nay thuộc xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội).
Tại Thanh Hóa hiện nay, nhiều nghệ nhân vẫn tiếp tục đúc trống đồng bằng phương pháp truyền thống theo yêu cầu của khách hàng. Ví dụ, chính phủ Việt Nam đã đặt hàng nhiều chiếc trống đồng để trưng bày tại các bảo tàng và đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài. Ngoài ra, nhiều tổ chức và cá nhân cũng đặt làm trống đồng theo mẫu cổ, như trống đồng được đặt tại cơ sở Hòa Lạc của Đại học FPT theo kiểu trống đồng Đông Sơn.
- Trống Đồng: Một Mối Liên Kết Với Các Nền Văn Hóa Cổ Đại Lưu trữ ngày 2006-12-09 tại Wayback Machine.
- Những Tiếng Vang Hiện Tại Của Trống Đồng Cổ Đại Lưu trữ ngày 2009-06-10 tại Wayback Machine
Ghi Chú
Liên Kết Ngoài
- Đồng Cổ - Vị Thần Núi Linh Thiêng và Các Hiện Tượng
- Chuyện Huyền Bí Về Đồng Cổ Đã Báo Mộng Cho Vua