Ngay sau khi Bác Hồ ngàn thu đãn của dân tộc ta ra đi, thực hiện nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, vào ngày 29 tháng 11...
nguoidanongvoituigau
Sau khi Bác Hồ ngàn thu đãn của dân tộc ta ra đi, thực hiện nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, vào ngày 29 tháng 11 năm 1969, Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng đã ban hành Nghị Quyết với nội dung: 'Với tấm lòng kính yêu bao la và mãi mãi nhớ ơn Hồ Chủ Tịch, chúng ta phải thực hiện một cách tốt nhất nhiệm vụ bảo tồn di sản của Hồ Chủ Tịch và xây dựng Lăng của Người...'.
Ngày 18/6/1973, trong buổi lễ trọng đại tháo gỡ lễ đài cũ để xây dựng Lăng Bác, Thay mặt Đảng, Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh đã phát biểu:
“Đóng góp của Hồ Chủ tịch cho dân tộc và Tổ quốc chúng ta như biển cả vô bờ. Hồ Chủ tịch là người lãnh đạo vĩ đại của chúng ta, là tượng đài không thể nào quên của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, là tượng đài của phong trào cộng sản và giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.”
“Cuộc đời của Hồ Chủ tịch là biểu hiện rõ nét của ý chí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nhân dân tha thiết, đạo đức cao quý, kiệm lời, chính trực, công tâm, gần gũi với nhân dân, khiêm tốn và giản dị.”
“Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân chúng ta sẽ mãi mãi ghi nhớ công lao của Hồ Chủ tịch, và tiếp tục học tập và thực hiện tư tưởng, đạo đức và phong cách lãnh đạo của Người. Chúng ta quyết tâm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người và tiếp tục công cuộc cách mạng vĩ đại của Người.”
“Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã quyết định bảo tồn lâu dài thi hài của Hồ Chủ tịch và xây dựng Lăng Bác tại Quảng trường Ba Đình lịch sử để mọi người có thể đến viếng và chiêm ngưỡng…”
“Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ mãi mãi là một kiến trúc ý nghĩa về chính trị và tư tưởng, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhân dân đối với Bác Hồ yêu quý. Đây là nơi mà từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhân dân Việt Nam sẽ đến chiêm ngưỡng để bày tỏ lòng biết ơn đối với Hồ Chủ tịch. Công trình này sẽ ghi lại công lao và sự nghiệp của Bác Hồ, đồng thời khuyến khích mọi người Việt Nam đoàn kết, phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Đây sẽ là niềm tự hào và vinh dự của dân tộc Việt Nam hiện tại và mai sau”.
Do đó, việc xây dựng Lăng Bác là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Làm thế nào để Lăng Bác đáp ứng được với thời đại. Thời đại hoành tráng, tươi đẹp nhất trong lịch sử của dân tộc ta xứng đáng với Bác Hồ, vị anh hùng vĩ đại nhất và cũng là người giản dị, trong sáng và gần gũi nhất. Đồng thời, cũng làm thế nào để Lăng Bác thể hiện được tình cảm biết ơn bất tận của nhân dân đối với Bác.
Trong Nghị quyết ngày 29/11/1969, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra các yêu cầu cơ bản đối với việc thiết kế và xây dựng Lăng Bác. Những yêu cầu này là nguyên tắc hướng dẫn suốt quá trình thiết kế và xây dựng Lăng Bác, Quảng trường Ba Đình và các công trình về Bác sau này (Bảo tàng Hồ Chí Minh...)
Các yêu cầu bao gồm:
- “Đảm bảo bảo quản thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh vững vàng, lâu dài, chống lại những biến động không lợi từ khí hậu, thời tiết, có kế hoạch bảo vệ an toàn trước chiến tranh, kẻ thù phá hoại.
- Hiện thực hóa tính hiện đại nhưng vẫn giữ được bản sắc dân tộc, trang nghiêm mà không kém phần giản dị.
- Đảm bảo sự thuận tiện cho nhân dân, cán bộ và khách nước ngoài viếng thăm liên tục; đồng thời đảm bảo tính kiên cố, bền vững của công trình;
- Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được đặt tại khu Ba Đình lịch sử và hoàn thành xây dựng sớm để người dân có thể viếng thăm Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1971…”
Tuy nhiên, do cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng ở nhiều phía, hơn nữa trong năm 1972, đế quốc Mỹ đã tái mở cuộc chiến tranh tàn phá bằng cách sử dụng máy bay B52 tấn công vào Hà Nội, Hải Phòng một cách dã man, do đó Bộ Chính trị đã đồng ý tạm dừng xây dựng Lăng.
Sau khi Bác Hồ ra đi, Ban Trung ương Đảng và Chính phủ nước ta đã đề xuất với Ban Trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô nhờ hỗ trợ bảo quản lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh và cung cấp vật liệu, thiết bị, gửi chuyên gia đến xây dựng Lăng. Vào ngày 22/7/1970, đồng chí L.Bơ-rê-giơ-nép, Tổng Bí thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đã viết thư cho đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, xác nhận sự hỗ trợ của Liên Xô đối với Việt Nam trong việc xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Vào ngày 19/1/1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Hội đồng Bộ trưởng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phê duyệt nhiệm vụ thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký (tại Quyết định số 16/CP ngày 19/1/1970).
Vào tháng 1/1970, Đoàn đại biểu của Ủy ban Liên lạc kinh tế với nước ngoài thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã đến nước ta chuẩn bị Hiệp định giữa hai chính phủ và nhận nhiệm vụ thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lăng Bác mang ý nghĩa rất quan trọng về mặt chính trị, khoa học kỹ thuật và nghệ thuật kiến trúc. Thiết kế phải phản ánh đúng 4 nguyên tắc mà Bộ Chính trị đã xác định: hiện đại, dân tộc, trang trọng, giản dị.
Bộ Kiến trúc (nay là Bộ Xây dựng) cùng với Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam đã tổ chức nhóm thiết kế Lăng Bác dựa trên nhiệm vụ thiết kế đã được phê duyệt. Trong thời gian ngắn, đã có 77 ý tưởng từ các cá nhân và tập thể. Trong số đó, chọn lọc 5 ý tưởng để trình Bộ Chính trị, sau đó chọn ra 1 ý tưởng để tiến hành.
Vào tháng 3 năm 1970, Việt Nam đã gửi các kiến trúc sư đến Moscow để cùng tham gia thiết kế. Trong thời gian ở Liên Xô, các kiến trúc sư từ cả hai quốc gia đã thống nhất 4 phương án để mang về và trình duyệt.
Vào tháng 5 năm 1970, đã hoàn thành thiết kế sơ bộ và gửi về Hà Nội để xem xét. Tuy nhiên, thiết kế này vẫn còn nhiều điểm chưa đạt yêu cầu. Do đó, Bộ Chính trị đã giao cho Bộ Kiến trúc, Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật và các đơn vị liên quan tổ chức cuộc thi thiết kế Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm kêu gọi sự đóng góp của đa dạng nguồn lực và trí tuệ từ các kiến trúc sư, kỹ sư, nghệ sĩ, cũng như các nhân vật lịch sử và cộng đồng dân cư cả trong và ngoài nước.
Trong thời gian ngắn, đã có hơn 200 phương án được nộp, trong đó có cả ý kiến từ Việt kiều ở Pháp. Tổ chức đã lựa chọn 24 phương án tốt nhất để trưng bày và thu hút ý kiến của cộng đồng. Triển lãm diễn ra từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1970 tại 5 địa điểm: Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Thái Nguyên, Sơn La. Với hơn 745.487 lượt khách tham quan và hơn 34.000 ý kiến đóng góp, triển lãm đã thu hút được sự quan tâm và đóng góp của cộng đồng cả trong và ngoài nước.
Sau triển lãm, Việt Nam đã lựa chọn và hoàn thiện một phương án để tiếp tục làm việc. Qua đàm phán, đã đạt được sự thống nhất về thiết kế sơ bộ để báo cáo lên hai Chính phủ.
Vào ngày 9 tháng 2 năm 1971, Hiệp định giữa hai Chính phủ về việc Liên Xô hỗ trợ Việt Nam trong việc thiết kế và xây dựng Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức được ký kết.
Vào cuối tháng 2 năm 1971, đã gửi thiết kế sơ bộ về Việt Nam. Lần này, sau khi được bổ sung và hoàn thiện theo ý kiến của Việt Nam, phương án đã được Bộ Chính trị và Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 44 - CP ngày 4 tháng 3 năm 1971.
Từ ngày 3 đến ngày 31 tháng 12 năm 1971, tại Hà Nội, Việt Nam và Liên Xô đã trao đổi về bản thiết kế kỹ thuật của Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hai bên nhận thấy rằng thiết kế kỹ thuật đã phù hợp với thiết kế sơ bộ nhưng cần phải được bổ sung và chỉnh sửa một số điểm cụ thể. Sau sự đồng ý của Bộ Chính trị, ngày 31 tháng 12 năm 1971, Chính phủ đã ra Quyết định số 241 - CP để phê duyệt thiết kế kỹ thuật.
Vì vậy, thiết kế sơ bộ dự kiến 6 tháng đã kéo dài hơn 1 năm, còn thiết kế kỹ thuật kéo dài 9 tháng.
Vào ngày 13/9/1971, Việt Nam và Liên Xô đã chính thức ký kết hợp đồng và chấp thuận số 84/75808 cho việc xây dựng Lăng. Từ đó, công trường xây dựng Lăng Bác được gọi là Công trường 75808.
Sau khi thiết kế kỹ thuật được phê duyệt, đã bắt đầu thiết kế thi công. Để phù hợp hơn với điều kiện ở Việt Nam, đã cử 7 kiến trúc sư, kỹ sư từ các ngành xây dựng, điện, nước, thông hơi tham gia thiết kế cùng bạn. Đồng thời, đã đề xuất Đoàn Việt Nam đảm nhận các công việc thiết kế kết cấu và trang trí ở những điểm quan trọng như sảnh chính, phòng thi hài, cửa gỗ và các cấu kiện bằng đồng.
Công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh do Viện nghiên cứu thiết kế Cục Tổ chức xây dựng Mátxcơva chủ trì cùng với các viện và các viện thiết kế chuyên ngành khác. Garon Ixacovich, một kiến trúc sư đã được trao giải thưởng Lênin cho thiết kế các công trình kỷ niệm tại quê hương của Lê nin, là người chủ trì thiết kế. Các chuyên gia khác bao gồm Đê bốp - Viện sỹ, Giám đốc Viện Khoa học giữ gìn thi hài Lê nin, người đã có nhiều đóng góp lớn trong việc giữ gìn thi hài Bác và Tổng Công trình sư Metvedep, Tổng Công trình sư xây dựng Lăng Bác. Sau khi hoàn thành, Công trình Lăng đã nhận được sự tuyên dương của Nhà nước với danh hiệu Anh hùng lao động.
Kiến trúc sư Garon cũng chịu trách nhiệm thiết kế Bảo tàng Hồ Chí Minh, Cung Văn hóa lao động hữu nghị Việt Xô và tượng đài Lê nin tại Hà Nội.
Theo dự kiến giữa chúng tôi, giai đoạn lập bản vẽ thi công và tổ chức thi công dự kiến kéo dài 12 tháng, với dự định khởi công xây dựng Lăng vào mùa khô của năm 1972÷1973. Tuy nhiên, vào tháng 4 năm 1972, do cuộc tấn công bằng bom của Mỹ vào miền Bắc, Chính phủ đã phải hoãn việc xây dựng Lăng.
Đầu năm 1973, sau khi Hiệp định Pari được ký kết, miền Bắc đã bắt đầu giai đoạn phục hồi và phát triển kinh tế. Chính phủ đã quyết định ưu tiên chuẩn bị mọi điều kiện để khởi công xây dựng Lăng trong mùa khô của năm 1973-1974. Kể từ tháng 4 năm 1972, bạn đã tạm ngưng việc thiết kế Lăng Bác để thực hiện các kế hoạch khác. Do đó, vào tháng 6 năm 1973, hai Chính phủ đã ký một Nghị định thư về việc Liên Xô tiếp tục thiết kế và hỗ trợ xây dựng Lăng. Chúng tôi mong bạn sẽ cố gắng hỗ trợ để Công trình Lăng được hoàn thành và đưa vào sử dụng nhân kỷ niệm 30 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945÷1975).
Mặc dù thiết kế đã được tiến hành một cách khẩn trương, nhưng vẫn không đủ kịp tiến độ thi công. Cho đến tháng 8 năm 1974, sau một năm kể từ khi khởi công, chúng tôi mới nhận được bản vẽ thi công cuối cùng.
Đánh giá chung, dự án thiết kế đã hoàn thành đúng nhiệm vụ, có chất lượng cao. Tất cả các kiến trúc sư chủ đạo đều là những chuyên gia xuất sắc, có nhiều kinh nghiệm. Với tinh thần quốc tế và lòng kính trọng vô hạn dành cho Bác Hồ, cả các cơ quan thiết kế và các tác giả đã nỗ lực hết mình để Lăng Bác thực sự trở thành một kiệt tác kiến trúc, với độ bền cao, trang trí hài hòa và các hệ thống thiết bị hiện đại, có cơ sở dự phòng đáng kể.
Tuy nhiên, do bạn đến từ một vùng có khí hậu lạnh, chưa thực sự hiểu rõ về khí hậu nhiệt đới ẩm của chúng tôi, nên một số phương pháp kỹ thuật chưa phản ánh đúng. Bạn cũng chưa hiểu sâu về phong tục và tập quán của dân ta, và các chuyên gia từ Việt Nam cũng mới bắt đầu tham gia vào thiết kế công trình đặc biệt này, do đó thiếu kinh nghiệm. Do đó, cần phải bổ sung và hoàn thiện một số giải pháp kỹ thuật trong quá trình sử dụng.
QUY MÔ HÌNH THÁI CÔNG TRÌNH
Quảng trường Ba Đình là nơi lịch sử quan trọng. Đây là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập vào ngày 2 tháng 9 năm 1945, đánh dấu sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Quảng trường là trung tâm của Thủ đô, nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước.
Sau khi Bác Hồ qua đời, Bộ Chính trị và Chính phủ đã quyết định xây dựng Lăng Bác tại Quảng trường Ba Đình. Quyết định này mang ý nghĩa rất sâu sắc, đúng như lời của đồng chí Lê Duẩn: “Dân tộc ta, non sông đất nước ta đã sinh ra HỒ CHỦ TỊCH, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và Người đã làm sáng tỏ dân tộc ta, non sông đất nước ta...”.
Chức năng chính của Lăng
Lăng Bác nằm trên một quảng trường rộng lớn, được bao quanh bởi những công trình mang đậm giá trị lịch sử và kiến trúc. Theo phong tục của dân tộc, Phòng Bác được xây cao hơn so với các lễ đài của các quan khách vào những dịp lễ lớn. Ngoài ra, khi Lăng được xây dựng, chúng ta chưa có các công trình thủy điện trên Sông Đà, nên trong mùa mưa lũ, nước sông Hồng có thể dâng cao, gây nguy cơ vỡ đê và ngập úng Hà Nội. Vì những lý do đó, Lăng phải được xây cao để đối phó với những tình huống này.
Phía sau Lăng có hai bức tường cao được xây bằng đá đỏ, chạy song song với hai Lễ đài ở hai bên trái và phải. Phía trước bức tường là một sân rộng với nhiều ô trồng hoa hồng. Bức tường này hoàn thành chức năng phân chia không gian phía sau của hai Lễ đài.
Kiến trúc của Công trình Lăng
Lăng Bác bao gồm một công trình trung tâm và hai lễ đài phụ ở hai bên.
Hình dáng của Lăng cần phải đơn giản và rõ ràng. Lăng được cấu thành từ một bệ và ba tầng nhỏ dần theo chiều cao; tạo ra một diện mạo vững chãi, trang trọng, phản ánh đặc trưng của kiến trúc dân tộc Việt Nam. Mái Lăng cũng được thiết kế theo ba tầng một cách nhẹ nhàng, thanh thoát; không có đường cong, nhưng kết hợp khéo léo giữa tam cấp và những đường vát chéo, tạo nên mái Lăng vừa mang nét đơn giản, hiện đại của kiến trúc, vừa lưu giữ được vẻ mềm mại, uyển chuyển của kiến trúc truyền thống dân tộc. Thân Lăng là một phòng vuông, bốn mặt được bao bọc bởi hàng cột đỡ mái, tạo nên hình ảnh của một ngôi nhà với năm gian. Bốn cột ở bốn góc có kích thước là 1,2x1,2 m, còn lại có kích thước 1,2x0,9 m.
Ở tầng trên cùng của Lăng có Lễ đài chính (Lễ đài Chính phủ), chỗ có thể chứa từ 70 đến 100 người tham dự các sự kiện quan trọng.
Bên trong Lăng và hai Lễ đài là nơi đặt thi hài, các phòng phục vụ, phòng y tế, phòng kỹ thuật, hai phòng tiếp khách và các hệ thống thiết bị kỹ thuật như: Điện, nước, hệ thống thông hơi, điều hòa không khí, thông tin, cơ khí và các bậc thang, lối ra vào...
Vật liệu trang trí bên ngoài Lăng cần phải thể hiện sự tư tưởng giáo dục, có tính thẩm mỹ và kỹ thuật cao, đồng thời đảm bảo tính vĩnh cửu. Do đó, tường bên ngoài Lăng được ốp bằng đá hoa cương có độ dày từ 4 đến 6 cm. Khối chính của Lăng được ốp bằng đá hoa cương với các gam màu ghi sáng và tối, tạo ra không gian ánh sáng và bóng tối, xa gần. Phần trung tâm được ốp bằng đá hoa cương màu đỏ, đó chính là phòng bất diệt của Bác Hồ. Các loại đá này được nhập khẩu từ Liên Xô.
Bố cục bên trong Lăng
Đường từ cửa chính Lăng đến phòng Bác được thiết kế cẩn thận, đảm bảo cho người đến viếng Bác quen thuộc với độ sáng, độ ẩm và độ mát cần thiết. Khi bước vào Lăng, trên bức tường đá hoa cương màu đỏ sẫm, dòng chữ mạ vàng “Không có gì quý hơn độc lập tự do” cùng chữ ký của Bác, đã làm xúc động người viếng. Hai bên của sảnh chính là hai cầu thang uốn cong. Trần của các cầu thang làm cho ánh sáng dần mờ đi để khi vào phòng Bác, người viếng có thể nhìn thấy Bác rõ ràng hơn, với những đặc trưng của người lúc còn sống. Hai bên của các cầu thang là hai sảnh rộng với hàng cột được ốp bằng đá cẩm thạch màu đen từ núi Nhồi Thanh Hóa. Tường của các sảnh được ốp bằng đá cẩm thạch màu trắng hồng để tạo ra không gian rộng lớn, trang nghiêm và cảm động.
Phòng Bác nằm trong một khối lập phương kích thước 10x10x10m được ốp bằng đá cẩm thạch màu trắng tinh khiết với dải đá đen làm cột giả. Phần tường gần trần được ghép từ đá màu đen, tạo hình những đóa sen đặc biệt. Ở phần tường đầu phòng Bác, hai lá cờ của Đảng và của Tổ quốc được ốp bằng 4000 mẩu đá nhỏ màu đỏ tươi từ vùng Bá Thước, Thanh Hóa. Diện tích của hai lá cờ là 32m2. Đá vàng được sử dụng để ghép hình ngôi sao và búa liềm, cũng được khai thác từ Thanh Hóa. Ngôi sao trên cờ Tổ quốc có chiều rộng 0,7 m. Phần đầu của cán búa trên cờ Đảng và chính giữa của ngôi sao trên cờ Tổ quốc được làm từ đá mã não màu vàng quý hiếm của người dân miền Nam.
Hai lá cờ lộng lẫy được làm từ đá quý của hai vùng đất khác nhau trong nước, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật độc đáo và sáng tạo. Kỹ thuật ghép đá tinh xảo giúp hai lá cờ trở nên mềm mại như đang bay trên mái tóc bạc của Bác. Ở đây, ta thấy sự hòa quyện giữa Bác, Đảng và Tổ quốc.
Tường lan can bao quanh phòng Bác được ốp bằng đá Cẩm Vân Thanh Hóa. Bề mặt đá mịn màng hòa hợp với màu nâu đỏ, tạo nên một vẻ đẹp giản dị và cao quý.
Bác nằm trong quan tài pha lê trong suốt đặt trên bệ đá hoa cương màu đen với những hạt sáng lấp lánh. Bác yên nghỉ trong một không gian ánh sáng mờ, êm dịu, yên bình và trang nghiêm, gây nên cảm xúc và sự thương tiếc cho người viếng thăm.
Bên dưới bệ kính có hoa văn được chạm nổi, họa tiết là những bông sen được điêu khắc tỉ mỉ bằng đồng, mang đậm nét dân tộc, được thực hiện bởi các kiến trúc sư, họa sĩ, và điêu khắc gia của Việt Nam.
Mặt bên của bệ kính được nghiêng 24 độ để Bác được nhìn thấy rõ ràng, không bị biến dạng hay biến sắc.
Để các em thiếu nhi khi đến viếng Bác có thể nhìn thấy Bác rõ hơn, vào năm 1978, Bộ Tư lệnh Lăng đã thêm bàn nhỏ, tách biệt với lối đi của người lớn. Giải pháp sáng tạo này, mặc dù nhỏ bé, nhưng mang trong đó nhiều ý nghĩa sâu xa, được các nhà thiết kế của Lăng Bác và nhân dân đi viếng đánh giá cao.
Ở hai bên của sảnh chính là hai phòng khách sang trọng, dành cho các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đại biểu khác nghỉ ngơi trước khi tham dự lễ đài. Tường của hai phòng khách được lát bằng đá cẩm thạch màu trắng, có các vân mây bay tự nhiên. Loại đá này được khai thác tại Hòa Pháp, Hà Tây (trước đây).
Việc trang trí nội và ngoại thất của Lăng
Trong Lăng có hơn 200 bộ cánh cửa được làm từ gỗ quý, được các thợ mộc tay nghề cao của Việt Nam gia công từ những nguyên liệu được đồng bào và chiến sĩ miền Nam gửi ra.
Toàn bộ bề mặt ngoài của Lăng được ốp bằng đá hoa cương với diện tích hơn 6000 m2, còn bên trong được trải từ đá hoa cương và đá cẩm thạch với diện tích hơn 4600 m2.
Nhận xét về nghệ thuật kiến trúc của Công trình Lăng
Mặt bằng được bố trí gọn gàng, chặt chẽ, đơn giản và có tính khoa học. Đường đi từ sảnh đến phòng viếng không có nhiều khúc khuỷu, rất thuận tiện cho người đi viếng.
Nhìn tổng thể Công trình Lăng, các khối kiến trúc chính và phụ, cũng như các mảng không gian trống và đặc tả, đều được phân bố một cách rõ ràng và liên kết với nhau thành một khối kiến trúc cân đối, gọn gàng, vững chãi và trang nghiêm. Những đường nét ngang và dọc vuông vức, đơn giản và trong sáng tạo ra hình dáng hiện đại và gọn gàng cho Lăng, tạo nên vẻ trang nghiêm.
Khối chính được bao quanh bởi các cột đỡ mái, tỷ lệ hài hòa, hình dạng mạnh mẽ, màu sắc đa dạng, tạo ra ấn tượng về sự cao lớn và mạnh mẽ của Công trình.
Tính hiện đại còn được thể hiện qua cách thiết kế cấu trúc và sử dụng các giải pháp tiên tiến nhằm đối phó với biến đổi của thiên nhiên, chống lại động đất và nguy cơ từ bom đạn.
Tính hiện đại cũng thể hiện qua việc sử dụng các hệ thống thiết bị hiện đại nhằm bảo quản lâu dài thi hài và tạo điều kiện thuận lợi cho việc viếng thăm.
Tính dân tộc được thể hiện qua việc Lăng Bác được xây dựng theo phong cách truyền thống của dân tộc, với sự đối xứng và cân đối trong bố trí kiến trúc, tạo nên sự trang nghiêm và cân đối cho công trình.
Tính dân tộc còn được thể hiện qua việc thi hài Bác được đặt ở vị trí cao hơn so với tầm nhìn của người đứng trên Lễ đài Chính phủ, vẫn tạo ra sự gần gũi giữa Bác và nhân dân cũng như các nhà lãnh đạo kế thừa sự nghiệp của Người. Các chi tiết như hàng chữ “CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH” và lời dẫn giản dị nhưng chân lý trên tường đá hoa cương màu đỏ cũng thể hiện sự trang nghiêm và giản dị.
Tổ chức không gian trong phòng thi hài được thiết kế sao cho các mảng tường, chi tiết kiến trúc, và trang trí nghệ thuật được tỷ lệ tương xứng, tạo ra sự cân đối, hài hòa, trang nghiêm và giản dị. Bên ngoài phòng thi hài, hành lang bố trí như những ngôi nhà truyền thống Việt Nam, và hàng cột đỡ mái chia thành 5 khoảng, tạo nên hình dáng quen thuộc của ngôi nhà truyền thống.
Bốn cột góc của Lăng, có hình dáng vuông (1,2x1,2 m), tạo nên một thế cân bằng, vững chắc và ổn định cho công trình. Mái Lăng hơi vát và có độ nghiêng phù hợp, gợi nhớ đến hình ảnh của mái đao trong kiến trúc cổ. Tỷ lệ cân xứng của mái tạo cho Lăng một vẻ nhẹ nhàng và trang nhã.
Tổng quan về Công trình Lăng cho thấy nó được thiết kế với một hệ thống 3 cấp giảm dần theo chiều cao, một cấu trúc thường thấy trong các công trình văn hóa, nghệ thuật và lăng tẩm, tạo ra một vẻ bề thế cho công trình.
Kiến trúc của Lăng không sao chép từ các công trình đền, chùa hoặc lăng mộ, cũng không chịu ảnh hưởng của màu sắc kiến trúc tôn giáo. Thay vào đó, nó dựa trên truyền thống và đặc điểm của dân tộc, mang tính cách điệu và hiện đại hóa, phản ánh thời đại với sự thay đổi về vật chất và tinh thần, ý thức văn hóa.
Lăng được xây dựng với việc sử dụng đá và có kiến trúc đơn giản, không có sự trang trí phức tạp, nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu về tỷ lệ và bố cục.
QUẢNG TRƯỜNG BA ĐÌNH VÀ SÂN VƯỜN
Mang sứ mệnh xây dựng Lăng Bác và cải tạo Quảng trường Ba Đình, chúng tôi đã đặt ra mục tiêu là tạo ra một không gian trang trọng, hiện đại hơn, phản ánh đúng ý nghĩa lịch sử to lớn. Đây không chỉ là nơi biểu dương lòng dũng cảm của dân tộc, mà còn là điểm hội tụ của thế hệ hiện tại và tương lai, nơi mà mọi người đến tham quan, tưởng nhớ Bác và khám phá những dấu tích của thời đại Hồ Chí Minh. Vì lý do đó, Bộ Chính trị đã quyết định Quảng trường Ba Đình và vườn hoa phải hoàn thành đồng bộ với Lăng Bác để kỷ niệm Quốc khánh.
Nhiệm vụ thiết kế đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào ngày 06/9/1973. Ban phụ trách xây dựng Lăng Bác đã tổ chức cuộc thi quy hoạch Quảng trường. Có tổng cộng 20 phương án và mô hình được gửi đến. Ban đã tổng hợp ý kiến và trình Bộ Chính trị trước khi gửi sang Liên Xô.
Vào tháng 4 năm 1974, chúng tôi đã trình phương án thiết kế cải tạo Quảng trường và vườn hoa cho Việt Nam xem xét. Với thời gian gấp, chúng tôi đã hạn chế quy hoạch trong phạm vi 14,5 ha để kịp thi công. Ban phụ trách đã tổ chức các cuộc họp và đề xuất sửa đổi phương án để phù hợp với tình hình. Những điều chỉnh đã được báo cáo và chúng tôi tiếp tục nghiên cứu và thi công. Vào ngày 7 tháng 5 năm 1974, biên bản làm việc với Liên Xô đã được ký kết và thiết kế được phê duyệt.
Theo thiết kế, Quảng trường Ba Đình và Lăng Bác tạo thành một quần thể kiến trúc thống nhất. Diện tích cải tạo và xây dựng là 14ha.
Phần trước Lăng Bác có diện tích là 2,8 ha, có thể chứa khoảng 10 đến 20 vạn người dự mít tinh. Quảng trường được chia thành 168 ô vuông với kích thước mỗi ô là 10x10m để trồng cỏ. Giữa các ô cỏ là lối đi lát bằng gạch sỏi nổi rộng 1,4m. Ở phía bắc Quảng trường có vườn hoa dự định sẽ xây dựng Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, nhưng sau đó quyết định xây dựng tại địa điểm khác đối diện với Lăng Bác.
Con đường Hùng Vương trải dài qua trước Lăng, được làm bằng bê tông cốt thép, có chiều dài 1060m và chiều rộng 40m, riêng đoạn trước Lăng có chiều rộng 60m. Đường Bắc Sơn có chiều dài 280m và chiều rộng 60m, được chia làm 2 làn đường, ở giữa là khu vườn hoa rộng 12m. Sau này, tại cuối đường Bắc Sơn, đã xây dựng Đài tưởng Niệm các Anh hùng liệt sỹ, và vào năm 1998 đã đưa vào sử dụng.
Ở trước Lăng Bác, có một cột cờ cao 25m, với lá cờ của Tổ quốc tung bay trước gió. Ngày 06 tháng 12 năm 2014, cột cờ trước Lăng đã được thay mới, có chiều cao 27m, được chế tạo tại CHLB Đức, kèm theo hệ thống tủ điều khiển tự động. Lăng và Quảng trường được chiếu sáng bằng hệ thống đèn cao áp thủy ngân, có 4 cột đèn ở 4 góc Quảng trường, cao 32m. Vào năm 1995, đã thay thế hệ thống chiếu sáng của Liên Xô bằng hệ thống chiếu sáng của Pháp và Phần Lan, đảm bảo về kỹ thuật, mỹ thuật và tiết kiệm năng lượng.
Ở trước Lăng Bác, có một cột cờ cao 25m, với lá cờ của Tổ quốc tung bay trước gió. Ngày 06 tháng 12 năm 2014, cột cờ trước Lăng đã được thay mới, có chiều cao 27m, được chế tạo tại CHLB Đức, kèm theo hệ thống tủ điều khiển tự động. Lăng và Quảng trường được chiếu sáng bằng hệ thống đèn cao áp thủy ngân, có 4 cột đèn ở 4 góc Quảng trường, cao 32m. Vào năm 1995, đã thay thế hệ thống chiếu sáng của Liên Xô bằng hệ thống chiếu sáng của Pháp và Phần Lan, đảm bảo về kỹ thuật, mỹ thuật và tiết kiệm năng lượng.
Trên Quảng trường còn được trang bị các hệ thống truyền thanh truyền hình để phục vụ các ngày lễ lớn và hàng ngày. Vào năm 2000, để trồng lại thảm cỏ của Quảng trường và xây dựng hệ thống phun tưới tương đối hiện đại cho Quảng trường, với vườn hoa xung quanh Lăng. Vào tháng 5 năm 2015, hệ thống tưới phun sân cỏ của Quảng trường đã được đưa vào vận hành.
Công việc thiết kế và trồng cây xanh tại Lăng và Quảng trường
Việc trồng cây xanh, cỏ xung quanh Lăng và Quảng trường Ba Đình cần tuân thủ các điều kiện sau:
Cây cỏ được chọn lọc và sắp xếp hài hòa với kiến trúc của Lăng và các công trình lân cận.
Cây hoa và cây cỏ trồng tại đây cần phản ánh đặc trưng dân tộc, phong phú và đẹp mắt, phù hợp với khí hậu nhiệt đới, với sắc xanh tươi quanh năm.
Chiều cao, màu sắc, hình dáng và tính chất sinh học của cây phải phù hợp với Lăng.
Phối hợp với loại cây trong khu vực để tạo hiệu ứng hài hòa tự nhiên.
Ban quản lý việc xây dựng Lăng đã thu hút sự tham gia của các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu từ Bộ Xây dựng, Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước, Tổng cục Lâm nghiệp, Công ty Công viên Hà Nội... Sau 3 tháng nghiên cứu, bản thiết kế về cây xanh ở Lăng Bác và Quảng trường Ba Đình đã được hoàn thiện vào tháng 5/1974.
Bản thiết kế đã tôn vinh nét đẹp truyền thống và đáp ứng các yếu tố của kiến trúc hiện đại.
Các vườn hoa được thiết kế theo kiểu hình học đối xứng, với các lối đi thẳng và gọn gàng, phối hợp hài hòa với kiến trúc. Cây trồng ở đây thường xanh, có tán rộng và hệ rễ nhỏ.
Trước hai bia mộ, hàng vạn cây tuế được sắp xếp đều, có thân thẳng, lá xanh um, tạo nên hình ảnh uy nghiêm như hai hàng lính đang gác đài, cao khoảng 1 - 1,5 mét không làm che khuất tầm nhìn của khách tham dự lễ.
Ở hai bên cửa chính, được trồng hai cây đại, thấp nhưng to, mang dáng vẻ cổ kính, hoa trắng làm tăng thêm sự trang nghiêm của Lăng.
Cây này thường sống lâu, thường được trồng tại các đền thờ và di tích lịch sử, là biểu tượng của sự kiên cường và bền vững.
Trước Lăng, các ô vuông được trồng hoa thơm như mộc, nhài, dạ hương, và tường vi - đều là những loại mà Bác yêu thích khi còn sống.
Ở vườn hoa sau Lăng, bạn sẽ thấy nhiều loại cây hoa và cây trái, mỗi loại đều đại diện cho một vùng miền khác nhau.
Hàng ngọc lan bên tường lưu niệm có lá xanh sáng và hoa thơm dịu, tượng trưng cho tính nhẹ nhàng và tốt bụng, còn hàng dâm bụt biểu hiện cho sự kín đáo và tĩnh lặng ở phía sau Lăng.
Thứ hai, luồng Thanh Hóa được trồng thành các khóm ở hai bên lễ đài, đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện kiến trúc của công trình.
Trên con đường Hùng Vương ở Phú Thọ, cây trò nâu được trồng, phản ánh sự phát triển kiến trúc mang tính chính trị và lịch sử, đặc biệt phù hợp với vùng đất của vị vua Hùng.
Trên con đường Bắc Sơn, không chỉ trồng cây dầu nước phổ biến ở miền Nam mà còn có cây hoa Ban từ núi rừng Tây Bắc, thể hiện lòng trung thành của dân tộc Tây Bắc đối với Bác.
Ở vườn sau Lăng, ngoài cây đa Tân Trào và cây đào Tô Hiệu, còn có những loài cây gắn bó với các sự kiện lịch sử của dân tộc.
Việc lựa chọn các loại cây với ý nghĩa tượng trưng, kết hợp với thảm cỏ xanh trên Quảng trường, tạo ra vẻ đẹp đa dạng văn hóa dân tộc cho Lăng. Cây cỏ ở đây đại diện cho các miền đất, dân tộc, và những nơi có ý nghĩa lịch sử, trong đó cây Bác luôn là biểu tượng được mọi người yêu quý.