Trùm Phủ (có khi ghi là Trùm Giầy, Trùm Giày) là một khu kiến trúc tín ngưỡng truyền thống của người Việt trải rộng trên địa bàn xã Kim Thái huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, gần quốc lộ 10, quốc lộ 37B và quốc lộ 38B từ thành phố Nam Định đi thành phố Ninh Bình.
Lịch sử
Phủ Dầy mang ý nghĩa là 'đền lớn ở làng Kẻ Dầy'.
Năm 1557, triều vua Lê Anh Tông, làng Kẻ Dầy được biết đến dưới tên gọi xã An Thái, được chia thành bốn thôn: Vân Cát, Vân Đình, Vân Cầu và Nham Miếu. Tranh chấp giữa hai quan tiến sĩ Trần Ngọc Kỳ và Trần Bích Hoành về chức Tiên chỉ đã khiến cho dân cư tại đây phải xin chia xã thành hai nơi: một là Tiên Hương và một là Vân Cát, cách nhau 2 km. Mỗi địa phương có một phủ thờ Liễu Hạnh riêng biệt.
Năm 1861 (Tự Đức thứ 12), xã An Thái đã chính thức đổi tên thành Tiên Hương.
Phủ Chính tại nơi thánh Mẫu Liễu Hạnh được xây dựng tại thôn Tiên Hương từ thời kỳ Lê – Cảnh Trị (1662 – 1671)
Thôn Tiên Hương bao gồm 4 giáp, tương ứng với các xóm hiện nay là Xóm 1, Xóm 2, Xóm 3 và Xóm 4, thuộc xã Kim Thái.
Không gian của đền phủ
Đền thờ của Đức Thánh Mẫu được gọi là 'Phủ', bởi vì Đức Thánh Mẫu được phong là 'Liễu Hạnh Công Chúa'. Từ 'Phủ' là một danh từ chỉ nơi cư trú của các vương công, và theo lý thuyết đó, nơi thờ cúng công chúa cũng là nơi công chúa cư ngụ, vì vậy đền thờ Liễu Hạnh cũng dùng từ 'Phủ'.
Quần thể Phủ Dầy bao gồm hơn 20 di tích liên quan đến cuộc đời của Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ hai. Đó là Phủ Chính Phủ Dầy, Phủ Vân Cát, Phủ Bóng (Nguyệt Du Cung), Phủ Giáp Ba, Phủ Dinh, Phủ Đá, Phủ Nội, Phủ Tổ (Khải Thánh), đền Trình, đền Công Đồng, đền Chầu Bà Đệ Tứ Khâm Sai, đền Mẫu Thượng, đền Mẫu Thoải, đền Mẫu Đông Cuông, đền Đức Vua, đền Quan Lớn, đền thờ Lý Nam Đế, đền Đức Thánh Trần, chùa Tiên Hương, chùa Linh Sơn, chùa Dần, chùa Gôi, chùa Vân Cát...
Lịch sử hình thành
Phủ Dầy ban đầu chỉ là một quán cỏ đơn giản được thờ phụng vào thời Lê Thế Tông (1578 - 1599), sau đó, vào niên hiệu Phúc Thái thời vua Lê Chân Tông (1643 - 1649), nó đã được xây dựng lại, như đã ghi trong bài Bái An Thái Tiên nữ từ của Tiến sỹ Phạm Đình Kính (người từ xã Cổ Sư, huyện Thiên Bản, ngày nay là xã Vĩnh Hào, huyện Vụ Bản), được khắc trên bức Bảo Hành:
Thờ phụng vị Tiên nữ An Thái
- Vân hương tái thế nhất truyền kỳ
- Lê thị đầu sinh Đinh Tỵ niên
- Giá tại Trần môn năng khắc hậu
- Từ ư An ấp khả quang tiền
- Thế Tông thủy tạo mao từ quán
- Phúc Thái trùng khai ngoã thạch hiên
- Hoằng Định dĩ mông ban bảo chiếu
- Linh danh ảnh hưởng khởi u huyền!
Dịch nghĩa:
Thờ phụng vị Tiên nữ An Thái
- Lại xuống làng Vân năm Đinh Tỵ
- Họ Lê sự lạ hãy còn truyền
- Chồng con lúc sống trong Trần tộc
- Thờ phụng khi về ở Thái thôn
- Quán cỏ Thế Tông đời ấy dựng
- Nhà xây Phúc Thái bấy giờ tôn
- Thời vua Hoằng Định ban ơn sắc
- Chớ nói mơ hồ chuyện kính tin !
Các giai đoạn khởi tạo, trùng tu: Quán cỏ bắt đầu xây dựng vào thời Lê Thế Tông (1578 - 1599). Đến niên hiệu Phúc Thái (1643 - 1649), đền thờ mới được hoàn thành. Niên hiệu Hoằng Định (1609 - 1619) là lúc đền thờ được sắc phong.Phủ Vân Cát được xây dựng trên một khu đất rộng hơn 1 ha, mặt quay về hướng tây bắc. Phủ Vân Cát hiện nay có 7 toà với 30 gian lớn nhỏ. Phía trước có hệ thống cửa ngọ môn với 5 gác lầu; bên ngoài cửa ngọ môn có hồ bán nguyệt, giữa hồ là nhà thủy lâu, 3 gian, mái cong. Phủ Vân Cát cũng có 4 cung như ở phủ Tiên Hương. Trung tâm là nơi thờ chúa Liễu, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là đền thờ Lý Nam Đế.
Phủ Chính Phủ Dầy (còn được gọi là Phủ Chính, hoặc Phủ Chính Tiên Hương hoặc Phủ Tiên Hương) là một công trình đẹp được xây dựng trong niên hiệu Cảnh Trị (1663 – 1671) thời Lê Huyền Tông và đã qua nhiều lần trùng tu. Phủ có 19 toà với 81 gian lớn nhỏ, mặt phủ quay về phía tây nam nhìn về dãy núi Tiên Hương. Trước phủ có hồ và một sân rộng, có 3 toà nhà dàn hàng ngang hai tầng, tách mái đó là phượng du nơi đón khách tới hành hương. Một hồ bán nguyệt có lan can thấp bao quanh, có bình phong và hai cầu vượt đều bằng đá chạm khắc hình con rồng với móng vuốt sinh động tinh xảo. Phủ có 4 lớp thờ (4 cung): đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ. Các cung đều được tập trung các nghệ thuật chạm khắc tinh vi, thể hiện đủ các mảng đề tài: rồng, phượng, hổ… Chính cung (cung đệ nhất) có một khám thờ khảm trai, bề thế và tinh xảo. Đây chính là nơi đặt 5 pho tượng có giá trị mỹ thuật cao của thế kỷ 19.
Lăng Thánh Mẫu Liễu Hạnh được xây dựng vào năm 1938. Lăng được xây dựng bằng đá xanh, chạm trổ đẹp, với diện tích 625 m2, gồm có cửa vào lăng theo hướng đông tây, nam bắc. Các cửa đều có trụ cổng trên đắp hình bông sen. Giữa lăng là ngôi mộ khối bát giác, mỗi cạnh chừng 1m. Toàn lăng có 60 búp sen hồng trông xa như một hồ sen cạn.
Di tích Phủ Dầy có giá trị rất cao về trình độ kiến trúc nghệ thuật cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Đến với Phủ Dầy, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó mà còn hy vọng vào sự ban cho điều lành và may mắn từ Mẫu.
Sinh hoạt tín ngưỡng
Hội Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Lễ hội nhằm tổ chức nghi lễ, thắp hương biết ơn Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Cùng thời điểm này, bà Chúa Liễu Hạnh cũng được thờ tại nhiều lễ hội khác trên Việt Nam, nhưng hội Phủ Dầy thuộc vào loại trọng đại nhất, với sự tham gia của đông đảo dân chúng.
Có 3 nghi lễ quan trọng trong Lễ hội Phủ Dầy bao gồm:
- Lễ Rước Mẫu Thỉnh Kinh,
- Lễ Rước Đuốc tại Phủ Chính,
- Lễ kéo chữ Hoa Trượng Hội.
Ngoài ra trong lễ hội còn có các trò chơi truyền thống như: Thi hát văn, hát chèo, múa rối nước, đấu vật, đấu cờ người, thổi cơm thi... Nghi lễ Hầu Đồng diễn ra trong suốt thời gian lễ hội.
Thành ngữ dân gian ở miền Bắc có câu:
- Tháng Tám ngày kính cha, tháng Ba ngày kính mẹ
Cha là Đức Thánh Trần Hưng Đạo, còn Mẹ là Thánh Mẫu Liễu Hạnh.