Năm 1840, Edgar Allan Poe mô tả ‘năng lượng điên' của một người đàn ông già đi lang thang khắp phố London từ sáng đến tối. Nỗi đau cùng cực của ông chỉ được giảm bớt phần nào nếu ông thả mình vào đám đông náo nhiệt của thành phố. “Ông ấy từ chối sống một mình,” Poe viết. Ông “là biểu tượng và nguồn cảm hứng cho tội ác … Ông ta là người thuộc về đám đông.”
Năm 1961, tạp chí The New Yorker thuê Arendt viết về vụ xử Adolf Eichmann, một sĩ quan SS (lực lượng vũ trang Nazi) đã tham gia chỉ huy thảm sát Holocaust. Bà muốn tìm hiểu làm sao một con người có thể gây ra một tội ác khủng khiếp như vậy? Chắc chắn chỉ có những tên tâm thần đầy dã tâm mới có thể thực hiện điều đó. Nhưng Arendt rất ngạc nhiên trước trí tưởng tượng nghèo nàn và sự rập khuôn quá mức của Eichmann.
Bà lập luận rằng mặc dù hành động của Eichmann rất tàn ác, con người Eichmann “khá bình thường, phổ biến, và không hề quỷ quyệt hay thú tính. Không có dấu hiệu về một lý tưởng nào đã thâm nhập vào đầu óc của ông ta.” Bà cho rằng sự tàn bạo của ông ta - khả năng và sự thích thú bị phạm tội - bắt nguồn từ “sự thiếu chín chắn.” Chính việc không thể dừng lại và suy nghĩ đã thúc đẩy Eichmann tham gia vào thảm sát quy mô lớn.
“Chịu đựng lỗi lầm tốt hơn là làm sai,” Arendt viết, “bởi vì bạn vẫn có thể làm bạn với người chịu khổ, nhưng ai muốn làm bạn và sống cùng một kẻ giết người? Kể cả một kẻ sát nhân khác cũng không muốn.” Eichmann đã cho Arendt thấy rằng xã hội chỉ khi nó được hình thành bởi những cá nhân suy nghĩ chủ động - một hành động đòi hỏi sự cô đơn. Arendt tin rằng “sống chung với người khác bắt đầu bằng việc sống chung với chính mình.”
Nhưng nếu ta tự hỏi, liệu ta có trở nên cô đơn khi một mình không? Không phải sẽ có nguy cơ rằng ta sẽ trở thành những cá nhân cô đơn, không bạn bè ư? Lâu nay, các triết gia đã phân biệt rõ ràng và cẩn thận sự khác biệt giữa sự cô đơn và nỗi cô đơn. Trong Cộng hoà, Plato kể lại một câu chuyện mà trong đó Socrates ca ngợi một triết gia cô đơn. Bằng biểu tượng của hang động, triết gia đó trốn thoát khỏi bóng tối của hang dưới lòng đất và sự đồng hành của những người khác để tìm thấy ánh sáng của suy ngẫm. Một mình nhưng không cô đơn, triết gia đó đã hiểu sâu về tâm hồn và cuộc sống của mình. Trong sự cô đơn, cuộc trò chuyện yên lặng mà “tâm hồn nói chuyện với chính nó' cuối cùng cũng có tiếng nói.
Lặp lại như Plato, Arendt quan sát: “Suy nghĩ, được khẳng định bằng lời nói, là một công việc cô độc nhưng không cô đơn; cô đơn là một trạng thái con người mà tôi đồng hành cùng chính mình. Niềm cô đơn đến khi tôi không có sự đồng hành' nhưng mong mỏi và không tìm được. Trong trạng thái cô đơn, Arendt không bao giờ khao khát sự đồng hành bởi vì bà không thực sự cô đơn. Nội tâm chính là người bạn mà bà có thể trò chuyện cùng, là một giọng nói câm với câu hỏi quan trọng của Socrate: “Bạn có ý gì khi nói…?” Arendt tuyên bố rằng bản thân “là người duy nhất mà bạn không thể loại bỏ trừ khi bạn dừng suy nghĩ.”
Nhưng Arendt nhắc nhở chúng ta rằng nếu mất khả năng sống một mình, ta sẽ mất khả năng suy nghĩ. Ta có nguy cơ bị cuốn vào đám đông. Ta có nguy cơ bị choáng ngợp bởi việc mọi người làm và tin vào, tức là không còn khả năng phân biệt phải trái, đúng sai trong sự đồng thuận mù quáng. Sự cô đơn không chỉ là một trạng thái tinh thần quan trọng với sự phát triển trí tuệ và lương tâm của cá nhân, mà còn là một thói quen để chuẩn bị cho việc tham gia vào đời sống chính trị xã hội. Trước khi có thể đồng hành cùng người khác, hãy đồng hành với chính mình.
Du lịch của tôi
Theo Aeon