
Anh trai của Walt, Roy nói: “Chúng tôi có một bà mẹ tuyệt vời. Bà giúp ông ta vui vẻ lại khi ông ta buồn chán.” Khi không thể làm gì, bà cố gắng hết mình để quan tâm đến các con trai, đôi khi bằng cách lén đưa cho chúng những lát bánh mì được phết bơ ở dưới đáy, để cha chúng không cho rằng bà đang quá chiều chuộng các con. Elias đã sớm đưa cả gia đình từ thành phố Chicago đến Marceline.
Nông trại của họ, như mọi trang trại khác, đòi hỏi việc làm vất vả, nhưng trong trường hợp này thì quá đáng: Theo Elias Disney, việc sử dụng phân bón cho cây trồng cũng giống như đưa rượu cho kẻ nghiện rượu. Ông từ chối làm việc đó, và kết quả không khác gì những gì dự đoán.
' Tuổi thơ của Walt Disney: Một cậu bé sợ sệt đi phát tờ báo '
Trong khi mọi người đều phải làm việc đến khuya, Walt lại còn nhỏ nên được tự do chơi đùa. Cậu bé Disney lúc ấy rất thích điều đó. Ông có rất nhiều bạn đồng hành, một chú heo để cưỡi, một chú chó Malta ông gọi là “bạn thân” suốt đời, và ông yêu cả con đường chính đáng yêu của Marceline. Thời kỳ hạnh phúc đó kết thúc đột ngột vào năm 1911, khi Walt được cha đưa đến Kansas City và những năm làm việc giao báo kinh khủng bắt đầu. Mảnh hồn quê yên bình tan biến như khói trước gió, nhưng bạn bè động vật sẽ sống mãi trong các bộ phim hoạt hình của ông và con đường mơ ước sẽ trở thành con đường chính đưa ông đến tương lai.
Tuy nhiên, Disney đã nhanh chóng có được một công việc mà ông thích hơn rất nhiều so với việc giao báo. Một thời gian sau, ông trở thành cậu bé bán báo trên tàu Missouri Pacific rời khỏi Kansas City, đi qua các toa tàu để bán báo, đồ ăn nhẹ, thuốc lá và một số món đồ nhỏ khác cho hành khách. “Tôi cảm thấy mình rất quan trọng khi được mặc bộ đồng phục màu xanh gọn gàng với các nút bằng đồng, đội mũ lưỡi trai và đeo huy hiệu sáng bóng trên ve áo.” Nhiều năm sau, ông nói đó là một công việc “ngắn ngủi, thú vị và chẳng kiếm được nhiều tiền”. Niềm vui đó đã bù đắp cho mức lương ít ỏi: “Khi tàu chạy từ ga này đến ga khác, tôi đứng bên cạnh người kiểm soát vé, thưởng thức ánh mắt ghen tị của những đứa trẻ đang đợi trên sân ga. Giống như nhiều cậu bé khác, Disney bị mê hoặc bởi tốc độ, sức mạnh của đường tàu và khả năng tạo ra cảnh quan tươi mới chỉ sau vài giây: “Đường tàu hiện ra trong không gian đông đúc, động cơ hơi nước lạ lẫm và thú vị vô cùng”, ông nhớ lại.
Có lẽ Disney không quan tâm đến việc lương thấp, nhưng cha ông thì rất quan tâm, và không lâu sau đó, Walt phải trở lại công việc giao báo. Kiệt sức vì phải thức dậy quá sớm, ông thường ngủ gục trong lớp và luôn nhận điểm kém. Nhưng khi trưởng thành, Disney quyết tâm tham gia các lớp học được tổ chức mỗi thứ Bảy tại Học viện Nghệ thuật thành phố Kansas. Có lẽ điều này cũng phản ánh niềm vui còn lưu lại trong ký ức của ông về thời gian sống ở Marceline: một cậu bé hạnh phúc khi nhận được 25 xu cho bức vẽ một chú ngựa kéo xe cho hàng xóm của mình, bác sĩ Sherwood.
' Thời trẻ trung trong quân ngũ '
Năm 1917, Elias quyết định thay đổi công việc và trở lại Chicago để tham gia điều hành công ty sản xuất thạch rau câu O-Zell. Trong thời gian ở trung học, Walt đã vẽ nhân vật hoạt hình Kaiser vui vẻ cho tờ báo trường và tham gia các khóa học tại Học viện Mỹ thuật Chicago.
Với một người dành phần lớn tuổi thơ làm việc giúp gia đình, ông rất muốn thoát khỏi hoàn cảnh đó. Bị quân đội từ chối vì chưa đủ tuổi, Disney đã giả mạo ngày sinh sớm hơn trong giấy khai sinh. Vào tháng 9 năm 1918, khi mới 16 tuổi, ông gia nhập Hội Chữ thập đỏ với vị trí lái xe cứu thương. Ông đến Pháp ngay sau Hiệp định Đình chiến ngày 11 tháng 11. Chiến tranh kết thúc nhưng còn rất nhiều công việc phải làm và ông đã có một năm rất bận rộn ở đó, dành thời gian trang trí xe cứu thương và áo khoác cho đồng đội với giá 10 franc. Khi Disney trở về Mỹ vào mùa thu năm 1919, các anh em của ông cảm thấy suy sụp và mệt mỏi với sự hà khắc của cha. Chẳng mấy chốc, ông cũng cảm thấy như vậy.
' Làm quen với ngành sản xuất phim và những khó khăn ban đầu '
Không muốn làm cho công ty thạch O-Zell, cũng không tìm được việc ở một tờ báo của thành phố Kansas, ông đã thuyết phục Xưởng nghệ thuật thương mại Pesmen-Rubin nhận mình vào làm. Trong vài tuần, ông đã có một thời gian tốt đẹp với công việc thiết kế quảng cáo, viết quảng cáo và thiết kế áp phích chương trình cho các rạp phim địa phương. Sau đó, Giáng sinh đến rồi đi, mang theo lượng lớn công việc ở Pesmen-Rubin và đến tháng 1, Disney cùng Ubbe Iwerks, một nhân viên thời vụ có tên khác thường đã phải nghỉ việc.
Disney quý mến Iwerks và đề xuất ý tưởng lạc quan rằng họ nên hợp tác với nhau. Họ đã làm thế. Ban đầu, Disney-Iwerks, sau đó đổi thành Iwerks-Disney (không phải do Disney khiêm nhường, mà bởi ông thấy cái tên cũ nghe giống một công ty sản xuất mắt kính).
Công việc kinh doanh mới mở ra được vài tuần, Disney đã chuyển sang một công việc khác tại Công ty Quảng cáo Phim thành phố Kansas và sớm đưa Iwerks vào làm cùng. Lúc này Iwerks đã có một cái tên mới, ngắn gọn hơn nhưng không kém phần độc đáo, Ub. Công ty mới của họ chuyên sản xuất phim quảng cáo dài khoảng 1 phút cho các doanh nghiệp địa phương, phát trong các rạp chiếu phim của thành phố. Ngay cả trong giai đoạn đầu, phim hoạt hình vẫn rất đơn giản: nhân vật có đường viền màu đen, có bản lề ở tay và chân trông giống như những con rối bóng, đột ngột xuất hiện trong một vài khung hình trên nền trắng, sau đó di chuyển cứng nhắc.
Disney ngay lập tức tìm kiếm công nghệ tiên tiến hơn, như ông sẽ làm trong phần còn lại của sự nghiệp. Ông tìm thấy cuốn sách về hoạt hình, mượn máy ảnh, bắt đầu thử nghiệm và sớm phát hiện ra nhựa celluloid là phương tiện tốt nhất để làm phim hoạt hình. Một loạt hình vẽ trên tấm nhựa trong suốt, thể hiện con gà đang gáy hoặc con mèo đang chạy, sẽ được đặt trên phông nền tĩnh – một trang trại hay một góc phố – rồi được chụp theo thứ tự.
Không mất nhiều thời gian, Disney đã sản xuất các đoạn quảng cáo phim hoạt hình ngắn mà ông gọi là “Laugh-O-Grams”, tiếp đến là các bộ phim hoạt hình dài hơn dựa trên các câu chuyện cổ tích.
Ông phá sản vào năm 1923 sau khi hoàn thành dự án đầy tham vọng mang tên Alice’s Wonderland (Xứ sở thần tiên của Alice). Bộ phim kết hợp những cảnh hành động trực tiếp giữa nhân vật chính là một cô gái trẻ và các nhân vật hoạt hình.
New York là trung tâm của ngành công nghiệp phim hoạt hình non trẻ, nhưng Disney đã chuyển đến Los Angeles để làm việc cùng anh trai Roy, khi một bản mẫu của bộ phim Alice mà ông gửi về phía Đông thu hút sự chú ý của nhà phân phối phim Margaret Winkler, người sắp mất quyền phát hành bộ phim hoạt hình nổi tiếng Felix the Cat (Chú mèo Felix). Cô đã thỏa thuận một hợp đồng về sáu tập phim
Alice không còn được ưa chuộng vào năm 1927. Margaret Winkler sau đó chuyển giao công việc kinh doanh phân phối cho chồng mình, Charles Mintz, người đã thúc giục Disney đề xuất ý tưởng mới mẻ để ông có thể tiếp thị thông qua Universal Pictures. Disney đã đáp lại bằng nhân vật chú thỏ may mắn Oswald. Và nó thành công đến mức tới đầu năm 1928, Disney tự tin cùng Lillian đến phía Đông để gặp Mintz, yêu cầu thêm tiền đầu tư. Mintz đề xuất một mức thấp hơn. Disney phẫn nộ từ chối và phát hiện ra Universal không chỉ sở hữu bản quyền nhân vật Oswald mà Mintz còn thuê lại toàn bộ nhân viên của Disney, ngoại trừ Iwerks. Nhà phân phối cứng rắn nói với ông: “Hoặc anh chấp nhận mức giá của tôi, hoặc tôi sẽ lấy đi công ty của anh. Tôi đã tuyển dụng tất cả những nhân viên chủ chốt của anh rồi.”
' Sinh ra của Mickey Mouse và ý tưởng mới về nhân vật '
Disney không bao giờ do dự, nhưng ông và Lillian đã có một chuyến trở về đầy tuyệt vọng. Ai biết chuyện gì đã xảy ra trên chuyến tàu đầy ưu tư đó? Ý tưởng về nhân vật tiếp theo của Disney bị che mờ trong những câu chuyện mâu thuẫn. Nhưng Lillian nói rằng trong khi bà ngồi suy tư, “ngắm nhìn màu xanh của miền Trung Tây chuyển dần sang sa mạc khô cằn”, Walt đã nguệch ngoạc viết kịch bản về một chú chuột hài hước tên là Mortimer. Ông đọc kịch bản cho bà nghe và tất cả những lo lắng của Lillian về tương lai bất định bỗng chốc tụ hội quanh cái tên đó; bà thấy nó thật nặng nề, kiểu cách và khoe khoang. Không mặn mà với công việc kinh doanh của chồng, nhưng có lẽ Lillian Disney đã có một đóng góp quan trọng nhất cho nó: “Mortimer là cái tên quá kinh khủng cho một chú chuột!”
Disney thích cái tên “Chuột Mortimer”, nhưng sau khi suy nghĩ một lúc, ông đã nghĩ ra một cái tên thân thiện hơn.
Quay trở lại Los Angeles, ông và Iwerks bắt đầu phát triển nhân vật chuột Mickey: đầu tròn, tai tròn, quần ngắn hai nút (chưa có găng tay), trông khá ổn.
Chuột Mickey được giới thiệu với tư cách là một phi công trong bộ phim Plane Crazy (Máy bay điên rồ), với hy vọng khiến mọi người liên tưởng đến chuyến bay xuyên Đại Tây Dương của Charles Lindbergh. Sau đó là tập phim lấy ý tưởng từ những cuộc xô xát ở vùng Tây Nam mang tên The Gallopin’ Gaucho. Cả hai bộ phim hoạt hình ban đầu được quay không có âm thanh, và Disney không cảm thấy hài lòng. Năm 1927, có một thành tựu vĩ đại không kém chiến thắng của phi công Charles Lindbergh, đó là bộ phim The Jazz Singer (Ca sĩ nhạc Jazz) của diễn viên hài Al Jolson, tuy chỉ có một đoạn hội thoại ngắn giữa phim, nhưng vẫn là luồng gió mới lạ đủ làm thay đổi cả một nền công nghiệp. Đối với tập phim Mickey thứ ba, Disney đã thuê một dàn nhạc và người hòa âm để sản xuất Steamboat Willie (Tàu bởi nước Willie), phim hoạt hình đầu tiên có âm thanh.
Đó là một cú đảo chiều lớn. Khi Oswald rời bỏ vàng danh của mình, Mickey và Disney đã đạt được đỉnh cao mới, chỉ vài năm sau khi Mickey ra đời, nhà báo chuyên viết về giới nghệ sĩ Louella Parsons đã viết: “Chuột Mickey có số lượng fan đông đảo hơn hầu hết các ngôi sao ở Hollywood.”
Mickey từng là một tên tồi tệ: uống rượu như uống nước, nhảy múa với chuột Minnie, hút thuốc, tổng cộng là một tên xấu tính. Tuy nhiên, khi nổi tiếng lên, tính cách và bản sắc của Mickey dần trở nên dịu dàng hơn, cho đến khi không chỉ là một nhân vật, mà là biểu tượng của Tập đoàn Disney lớn mạnh.
Trong khi đó, các bộ phim hoạt hình của Disney trở nên tinh tế và mượt mà hơn. Ông thêm màu sắc và bắt đầu nhận được nhiều Giải thưởng Hàn lâm. Năm 1933, Disney phát hành bộ phim mà một nhà sử học truyền thông gọi là “bộ phim hoạt hình ngắn thành công nhất mọi thời đại”, Little Pigs (Ba chú heo con), với bài hát nhạc phim “Who’s Afraid of the Big, Bad Wolf” trở thành bài hát đáng ghi nhớ nhất trong những năm Đại suy thoái. Về thành công này, Disney nói: “Quan trọng nhất là sự công nhận từ ngành điện ảnh và công chúng rằng những bộ phim này chứa đựng nhiều hơn một chú chuột chỉ chạy nhảy loanh quanh. Bị thúc giục phải làm tiếp, Disney từ chối với lý do rõ ràng: “Không thể tiến triển nếu lúc nào cũng bám sát những hình ảnh mấy chú heo.”
Điều đó chỉ ra rằng ông cảm thấy chán chường với các bộ phim ngắn, dù chúng đã rất thành công. Năm 1934, Disney bắt đầu thực hiện bộ phim hoạt hình dài đầu tiên. Ông dự kiến chi phí nửa triệu đô-la cho Snow White and the Seven Dwarf (Bạch Tuyết và bảy chú lùn); nhưng cuối cùng, nó tốn hết 1,5 triệu đô-la và bốn năm. Khi ra mắt năm 1937, ở Hollywood, bộ phim được gọi là “sự ngớ ngẩn của Disney”.
Bạch Tuyết đã thành công ngoạn mục. Nó trở thành tác phẩm hàng đầu năm 1938 và là bộ phim lời thoại có doanh thu cao nhất từng được sản xuất. Bạch Tuyết mang về 6,5 triệu đô-la, thúc đẩy Disney tạo ra Pinocchio và Fantasia, hai bộ phim phức tạp hơn. Vài năm sau đó là thời kỳ mà Disney cảm thấy hài lòng nhất, cho đến khi ông bắt đầu nghĩ ra ý tưởng về một công viên giải trí.
' Thời kỳ khó khăn '
Tình hình trở nên tồi tệ nhanh chóng. Hai bộ phim tiếp theo của Disney không được khán giả chào đón một cách nồng nhiệt. Một phần là do chiến tranh bùng nổ khi Hitler xâm chiếm Ba Lan, làm giảm thị trường ở châu Âu. Doanh thu giảm sút, ông phải cổ phần hóa công ty, và việc cắt giảm mạnh tiền lương đã gây ra một cuộc đình công kinh khủng ở xưởng phim. Mặc dù chỉ kéo dài năm tuần, cuộc đình công đã khiến Disney bị chỉ trích suốt đời. Ông trở nên cứng nhắc hơn (một số nhân viên nghĩ rằng ông là một người rất nghiêm khắc), cô lập và cố chấp. Disney tin rằng cuộc đình công chủ yếu là do những người chống đối kích động.
Những cảm xúc tiêu cực phát triển khi mọi người xung đột với Disney đã tạo ra cái nhìn tiêu cực hơn về ông, thậm chí còn độc đoán hơn và không có nhiều bằng chứng để chứng minh điều đó. Ông sa thải hai luật sư của mình: nhiều người ngày nay tin rằng Disney là người Do Thái. Thực sự không có nhiều bằng chứng để chứng minh điều đó. Ông sa thải luật sư khi biết họ chê bai những nhạc sĩ Do Thái của ông; Disney cũng vui khi con gái ông hẹn hò với các chàng trai Do Thái. Năm 1955, ông được Tổ chức B’nai Brith ở Beverly Hills bầu chọn là “Nhân vật của năm”. Khi những lời đồn này đến tai Kay Kamen, người đứng đầu bộ phận thu mua của công ty Disney, cũng là một người Do Thái, ông phủ nhận chúng bằng việc nói rằng tổ chức của Disney có “nhiều người Do Thái hơn cả trong Sách Lê-vi”. Khi hợp tác với công ty đồng hồ Ingersoll, Kay Kamen đã tặng ông chủ của mình và cả thế giới chiếc đồng hồ Mickey Mouse rất thành công.
Khi chiến tranh nổ ra ở Mỹ, Disney trải qua những năm khó khăn. Phòng vé Phim tài liệu Walt Disney chỉ sản xuất ra những bộ phim ngắn như Four Methods of Flush Riveting (Bốn phương pháp sử dụng đinh tán đầu chìm). Đến năm 1945, Disney kiệt sức và lâm vào nợ nần. Tinh thần của ông cũng không được cải thiện dù loạt phim ngắn sau chiến tranh, The ABC of Hand Tools (Các loại công cụ cầm tay), mang lại lợi nhuận không nhỏ. Nhưng ông cũng bỏ bộ phim này vào năm 1946, chỉ sau 12 tập phát sóng.
Giống như hàng chục nghìn người khác, trong những năm hậu chiến, ông nói: “Dường như không còn hy vọng để khởi đầu lại. Diane, con gái của ông, viết: “Tôi nghĩ cha đã mất hết lòng nhiệt huyết ngay cả sau khi chiến tranh kết thúc. Tôi cảm nhận được điều đó. Tôi biết ông không hài lòng với bất kỳ điều gì ông đang làm”.
Tuy nhiên, có một doanh nghiệp nhỏ đã khiến ông cảm thấy hài lòng, một phần là do nó liên quan đến môn nghệ thuật mà ông đã nỗ lực phát minh ra và cũng là một bậc thầy không thể phủ nhận.
Vào Giáng sinh năm 1947, ông mua cho mình một món quà, “thứ mà cả đời tôi mong muốn”: một bộ mô hình tàu lửa Lionel. Ông đặt nó gần văn phòng để có thể chơi trong thời gian rảnh rỗi. Sau đó, ông nghĩ rằng sẽ tốt hơn nếu thêm một chút này, một chút kia, rồi một chút cảnh quan ở đây, ở đó, và cứ thế. Bất kỳ ai có cùng sở thích đều nhận ra mô hình của ông đã được mở rộng đáng kinh ngạc.
Vào đầu những năm 1950, khi nhà phê bình phim Bosley Crowther của tờ New York Times thăm Disney, anh ta thất vọng khi thấy “thần tượng” của mình “không còn chú ý đến phim ảnh mà chỉ tập trung vào việc xây dựng mô hình tàu lửa thu nhỏ cùng những toa tàu... Tất cả niềm đam mê sáng tạo của ông, những tưởng tượng đầy sáng tạo, dường như đã dành hết cho thứ đồ chơi này. Tôi buồn rời đi”.
- Trích dẫn từ cuốn sách 'Disney's Land: Hành trình đưa ý tưởng điên rồ thành cỗ máy kinh doanh siêu lợi nhuận'. Tên các mục trong bài viết do người trích dẫn tự đặt với mục đích giúp bạn đọc dễ theo dõi -