1. Truyền máu tươi là gì?
Truyền máu tươi là quá trình nhận máu và các sản phẩm máu từ nguồn máu phù hợp với tình trạng bệnh nhân và mức độ mất máu, như hồng cầu lắng, huyết tương, tiểu cầu,... Được gọi là truyền máu tươi vì các sản phẩm máu được bảo quản đông trong túi nhựa và được truyền vào tĩnh mạch cánh tay của người nhận bằng dây truyền và kim tiêm.
Quá trình truyền máu đông thường được thực hiện khi bệnh nhân gặp phải tình trạng mất máu.
Bệnh nhân nhận được truyền máu đông thường không cảm thấy đau, với tốc độ truyền chậm khoảng 1 đơn vị máu truyền trong 2 - 4 giờ. Quá trình này có nhiều loại, việc lựa chọn máu phù hợp với bệnh nhân, loại bệnh và tình trạng của bệnh là rất quan trọng.
2. Những trường hợp cần thiết phải truyền máu đông
Quá trình truyền máu đông giúp bệnh nhân nhận được nhiều thành phần cần thiết trong máu như hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu cùng các yếu tố đông máu và protein máu. Quá trình này giúp cung cấp lượng máu cần thiết kịp thời cho bệnh nhân, giúp họ thoát khỏi tình trạng nguy hiểm và nhanh chóng hồi phục sức khỏe.
Một số trường hợp sau đây, các bác sĩ thường chỉ định cần truyền máu đông:
-
Bệnh nhân bị thiếu máu, chảy máu hoặc có rối loạn đông máu.
-
Người bệnh mất máu nghiêm trọng do tai nạn, phẫu thuật hoặc chấn thương.
-
Hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân mắc bệnh lý rối loạn máu.
Truyền máu đông là phương pháp điều trị cho bệnh nhân mắc bệnh lý rối loạn máu
Cụ thể các chỉ định truyền máu như sau:
2.1. Chỉ định truyền máu toàn phần
Máu toàn phần được chỉ định truyền cho các bệnh nhân mất nhiều máu từ 1/3 tổng lượng máu cơ thể trở lên. Trường hợp này cần truyền máu khẩn cấp để cứu sống bệnh nhân khỏi cơn nguy kịch, không phù hợp với các bệnh nhân bị suy tim, suy thận hoặc thiếu máu đơn thuần.
2.2. Chỉ định truyền hồng cầu khối
Hồng cầu khối là máu toàn phần được ly tâm để loại bỏ thành phần huyết tương, chỉ còn các tế bào máu bổ sung cho bệnh nhân do mất máu hoặc bệnh về máu mà thiếu hụt. Có nhiều loại hồng cầu khối với hàm lượng các thành phần máu khác nhau được sản xuất theo các phương pháp khác nhau gồm:
-
Hồng cầu khối đậm đặc: truyền trong các trường hợp thiếu máu thông thường.
-
Hồng cầu khối nghèo bạch cầu: bệnh nhân thiếu máu đơn thuần.
-
Hồng cầu khối có dung dịch bảo quản: truyền cho các bệnh nhân thiếu máu nhưng mắc bệnh lý khác nghiêm trọng như suy thận, suy tim,… không thể truyền hồng cầu khối thông thường.
-
Hồng cầu khối rửa: Truyền cho các bệnh nhân thiếu máu tan máu tự miễn.
-
Hồng cầu khối đã được lọc bạch cầu và hồng cầu khối chiếu xạ: bác sĩ sẽ chỉ định cho các bệnh nhân thiếu máu đã ghép tạng, chuẩn bị ghép tạng hoặc bị suy giảm miễn dịch nặng.
Hồng cầu khối là máu toàn phần đã ly tâm loại bỏ huyết tương
2.3. Chỉ định truyền tiểu cầu khối
Có hai loại tiểu cầu khối được chỉ định truyền cho các trường hợp mắc bệnh và thiếu máu khác nhau:
-
Tiểu cầu khối tách ra từ máu toàn phần: phù hợp với các bệnh nhân bị giảm tiểu cầu, thường gặp sau khi điều trị các bệnh lý ác tính.
-
Tiểu cầu khối tách chiết: phù hợp với các bệnh nhân giảm tiểu cầu nặng sau điều trị hóa trị bệnh ác tính, bệnh suy tủy, bị rối loạn sinh tủy hoặc sốt xuất huyết giảm tiểu cầu nặng.
2.4. Chỉ định truyền huyết tương đông lạnh
Huyết tương đông lạnh được sản xuất bằng cách tách từ máu toàn phần trong thời gian 6 giờ kể từ khi lấy máu và được bảo quản lạnh. Các trường hợp được chỉ định truyền huyết tương đông lạnh bao gồm: rối loạn đông máu, phải thay thế huyết tương, ngộ độc quá liều Vitamin K, bệnh Hemophilia A và B,… Ngoài ra, những bệnh nhân mất nhiều máu do phẫu thuật, chấn thương, bỏng nặng dẫn đến sốc cũng được truyền huyết tương đông lạnh để bù.
2.5. Chỉ định truyền tủa
Tủa là chế phẩm huyết tương tươi đông lạnh ở nhiệt độ 4 độ C đã được rã đông tan ra và ly tâm thu nhận, phù hợp với những bệnh nhân bị thiếu máu do rối loạn đông máu hoặc do Hemophilia A.
2.6. Chỉ định truyền huyết tương tươi đã tách tủa
Sau khi lấy tủa của huyết tương tươi đông lạnh, phần còn lại được chỉ định truyền cho các trường hợp mất huyết tương, tai biến do quá liều Vitamin K hoặc bị hemophilia B.
Huyết tương tươi cũng là chế phẩm máu truyền cho các bệnh nhân mất huyết tương
Ngoài các chế phẩm truyền tủa đông phổ biến trên, còn một số dạng khác như khối bạch cầu hạt, chế phẩm huyết tương bất hoạt virus,… Tùy từng tình trạng mất máu của bệnh nhân cũng như bệnh lý nền kèm theo mà bác sĩ sẽ chỉ định truyền máu với lượng thích hợp.
3. Truyền tủa đông có ảnh hưởng gì không?
Không thể phủ nhận vai trò quan trọng của phương pháp truyền tủa đông trong việc cấp cứu cứu sống bệnh nhân bị mất máu do các nguyên nhân khác nhau song vẫn được khuyến cáo chỉ thực hiện trong trường hợp thực sự cần thiết. Vậy truyền tủa đông có phải là phương pháp an toàn?
Chuyên gia cho biết, quá trình truyền máu đông làm tăng độ an toàn, từ khi thu thập máu đến khi người bệnh nhận máu, quy trình là hoàn chỉnh. Người cho máu được kiểm tra sức khỏe để đảm bảo không mắc các bệnh truyền nhiễm, bệnh máu nghiêm trọng, sau đó được xử lý thích hợp, lưu trữ và phân phối cho người nhận.
Có một số rủi ro có thể xảy ra khi truyền máu đông bao gồm: lây nhiễm qua máu, nhiễm khuẩn máu, bất đồng miễn dịch, quá tải hoặc sự hình thành chất trung gian trong quá trình lưu trữ. Một vấn đề quan trọng cần lưu ý khi truyền máu đông là tình trạng thiếu sắt có thể gây phản ứng miễn dịch tiềm ẩn.
Truyền máu đều đặn có thể dẫn đến thiếu sắt và nhiều tác động khác (nguồn: ảnh internet)
Với nhiều lợi ích, hiện nay truyền máu đông được thực hiện tại nhiều bệnh viện và cơ sở y tế trên toàn quốc để điều trị nhiều trường hợp mất máu khác nhau. Hy vọng qua bài viết này, Mytour đã giúp bạn đọc hiểu thêm về truyền máu đông là gì và các lợi, hại của phương pháp này trong y học.