Trong Truyện Ngắn Chữ người tử tù, Nhà Văn Đã Thành Công Trong Việc Mô Tả Hình Tượng Của Huấn Cao - Một Con Người Tài Năng, Mang Trong Mình Tâm Hồn Trong Sáng Và Tinh Thần Kiêu Hãnh, Kiên Định. Qua Đó, Nhà Văn Thể Hiện Quan Niệm Về Vẻ Đẹp, Khẳng Định Sức Mạnh Vĩnh Hằng Của Vẻ Đẹp Và Tiết Lộ Bí Mật Của Tấm Lòng Yêu Nước.

Dưới Đây Là Tài Liệu Giới Thiệu Về Nhà Văn Nguyễn Tuân Và Nội Dung Của Tác Phẩm Truyện Ngắn Chữ người tử tù. Mời Bạn Đọc Tham Khảo Để Tìm Hiểu Thêm Kiến Thức Bổ Ích.
Tác Phẩm Chữ người tử tù
Nghe Truyện Chữ người tử tù Tại:
Sau Khi Nhận Được Phiến Trát Của Sơn Hưng Tuyên Đốc Bộ Đường, Viên Quan Trong Vai Trò Ngục Quan Quay Lại Hỏi Thầy Thơ Để Làm Việc Trong Đề Lao:
– Thưa Thầy, Theo Công Văn Này, Chúng Ta Sẽ Sớm Nhận Được Sáu Tên Tù Án Chém. Trong Số Đó, Tôi Nhận Thấy Tên Đứng Đầu Của Bọn Phản Nghịch Là Huấn Cao. Tôi Cảm Thấy Ngờ Ngợ. Huấn Cao? Hay Là Người Mà Vùng Tỉnh Sơn Ta Luôn Khen Ngợi Về Tài Năng Viết Chữ Rất Nhanh Và Rất Đẹp?
Thầy Thơ Xin Phép Đọc Công Văn.
– Dạ, chính là ý đó. Dạ có chuyện gì ạ?
– Không, tôi nghe cái tên quen quen và thấy nhiều người nhắc đến cái danh đó liên tục, nên tôi chỉ hỏi thế thôi. Thôi, cho thầy rút lui. À, nhưng mà thong thả. Thầy nói ngục cần được quét dọn lại phòng giam ấy. Có việc dùng đến. Thầy nghĩ cái phòng giam đó có thể chứa được một tên tù nguy hiểm như Huấn Cao không? Thầy có nghe đồn về Huấn Cao, không chỉ là tài viết chữ giỏi, mà còn có khả năng bẻ khoá và vượt ngục nữa không?
– Dạ, vậy là đúng. Hóa ra anh ta cả trong võ văn đều xuất sắc. Thật là ấn tượng!
– Ừ, gần như vậy. Sao thầy lại im lặng?
– Tôi thấy những người có tài năng như vậy lại phải đi làm giặc thì thực sự là đáng tiếc. Dạ, giả sử tôi là một quan chức, phải xử lý những người như vậy, tôi nghĩ là cảm thấy rất đau lòng.
– Chuyện trong triều quốc gia, chúng ta biết rồi, không cần phải bàn tán thêm. Nhỡ ra lại phát ngôn nhầm thì phiền. Thôi, thầy rút lui về và trông nom việc dưới trại giam. Mai, chúng ta phải dậy sớm để có mặt ở cổng trại trước khi lính canh trại giao tù cho chúng ta lĩnh nhận. Đêm nay, thầy sẽ tăng thêm lính canh. Mỗi chòi canh đều được bố trí hai lính. Nếu có lính canh bỏ mất canh, nếu mỗi tiếng canh không đánh mõ, không kiêng kiệt, thầy nhớ ghi chép rõ ràng, đúng đắn để mai tôi có thể trừng phạt nặng nề. Đừng để những thằng lính canh thỏa thuận chơi bài!
Thầy thơ nhẹ nhàng xách chiếc roi, rút lưng gươm, bước xuống phía trại giam trong bóng tối. Góc án thư cũ đã nhạt màu vàng, một cây đèn đứng rọi vào một khuôn mặt suy tư. Ngục quan ngồi băn khoăn, nhìn vào bức thư đã nhạt màu. Tiếng trống từ thành phố gần đây bắt đầu lặng yên. Trên bốn chòi canh, các lính canh cũng bắt đầu làm nhiệm vụ trong bóng tối, tiếng canh và tiếng mõ vang lên đều đều. Bốn góc trại càng lúc càng trở nên cô đơn trong bóng đêm, những tiếng chó sủa từ xa càng làm cho không khí trở nên u ám. Trong bóng tối, có nhiều ngôi sao nhấp nhô trên bầu trời, một ngôi sao tỏa sáng như muốn rơi xuống. Tiếng chó sủa, tiếng trống và tiếng canh mõ từ trại giam càng ngày càng trở nên ồn ào. Tất cả những âm thanh này như tạo nên một bức tranh sống động trong bóng tối, làm nổi bật một ngôi sao muốn nói lời tạm biệt với vũ trụ.
Góc án thư đã nhạt màu, đèn nến trên đèn dầu đã cạn, hai bông bấc nổ tung, rơi tàn xuống tờ giấy bản đóng dấu niết bàn. Người đang ngồi đó, đầu đã bạc, râu đã xám. Những nét mặt của một người tư lự, giờ đã không còn. Ở đó, chỉ là một bức tranh yên bình, tĩnh lặng và êm đềm.
Trong hoàn cảnh khó khăn, con người sống bằng sự tàn nhẫn và lừa dối, nhưng tinh thần hiền lành và lòng biết ơn, biết trân trọng, của viên quan coi ngục này là một giọng nói trong lành giữa những âm nhạc hỗn loạn của cuộc sống.
Trong tình huống hiểm nghèo, con người sống bằng sự tàn nhẫn và lừa lọc, nhưng tính cách hiền lành và lòng biết ơn, biết trân trọng của viên quan coi ngục này như là một giọng nói trong sạch giữa những bản nhạc rối ren của cuộc sống.
Ông trời đôi khi thật tàn nhẫn, đưa những tấm lòng trong sáng vào giữa một xã hội đầy rẫy cặn bã. Và những người có tâm hồn thuần khiết và chân thành lại phải chịu đựng cuộc sống với những kẻ ác ôn.
Ngục quan suy tư về lời nói chiều của thầy thơ: “Có lẽ ông bát này cũng là một người tốt. Có lẽ ông ta cũng giống như tôi, đã lựa chọn sai nghề. Một người biết kính trọng khí phách, biết thương tiếc và tôn trọng những người tài giỏi chắc chắn không phải là kẻ xấu xa hay vô tâm. Tôi muốn đối đãi tốt với ông Huấn Cao, muốn giúp ông ấy giảm bớt đau đớn trong những ngày cuối cùng, nhưng tôi lo rằng kẻ bát nhã này có thể báo cáo với cấp trên, khiến mọi việc trở nên phức tạp hơn. Để mai tôi sẽ nắm bắt tâm tư của ông ta một lần nữa xem sao.
Sáng sớm hôm sau, lính tỉnh dẫn dắt sáu tên phạm nhân đến cửa ngục. Công văn từ chiều hôm trước đã thông báo cho ngục quan biết rõ về danh tính, nguyên quán và tội danh của sáu người. Sáu phạm nhân mang một chiếc còng dài tám thước. Chiếc còng đặt ngang trên vai của sáu người. Chiếc còng bằng gỗ lim nặng, được đóng khung bằng sáu mảnh gỗ, có thể nặng đến bảy, tám tạ nếu đặt lên cân. Đó thực sự là một cái còng xứng đáng với tội ác của sáu người tử tù. Phần gỗ của còng đã cũ và được làm ướt bằng mồ hôi, dầu vàng. Phần bóng của còng lấp lánh như có người chà lá chuối khô. Còn phần không bóng lại đầy những vết bẩn đen. Trong lúc chờ đợi cửa ngục mở ra, Huấn Cao, đứng đầu dàn còng, quay ra nói với bạn bè của mình:
– Rệp đã cắn tôi, đỏ cả cổ rồi. Phải dỗ còng đi.
Sáu người đều quỳ xuống đất, hai tay ôm chặt còng và cúi đầu về phía trước. Một tên lính bên cạnh trêu đùa:
– Không cần phải tập nữa đâu. Ngày mai sẽ có người dẫn các bạn ra làm trò ở trường pháp. Lúc đó các bạn có thể tập thoải mái. Đứng dậy đi, không thì tôi sẽ phạt các bạn ngay lập tức.
Huấn Cao, với bản lĩnh không kém, đẩy mạnh đầu gông nặng xuống đất, làm gông giật mạnh, đập vào cổ của năm người phía sau, làm họ nhăn mặt. Một trận mưa rệp làm cho bề mặt đất nhỏ nhắn trở nên lấm tấm với những vệt nâu đen.
Cánh cửa đề lao mở rộng ra.
Sáu người tiến vào như những người thợ nề, cẩn thận khiêng cái thang gỗ đặt ngang trên vai.
Trái ngược với thói quen nhận tù hàng ngày, hôm nay viên quan coi ngục nhìn sáu tên tù mới với ánh mắt hiền lành. Dù cố gắng giữ kín đáo, nhưng lòng tôn trọng vẫn đã rõ ràng. Khi kiểm tra phạm nhân, ngục quan còn dành sự chú ý đặc biệt cho Huấn Cao. Những tên lính ngạc nhiên, nhắc lại:
– Thưa thầy, hắn chính là tên thủ lĩnh. Mong thầy chú ý. Hắn là kẻ ngạo mạn và nguy hiểm nhất trong số họ.
Khi lính nói về việc 'chú ý', họ ám chỉ rằng viên quan coi ngục cần thể hiện sự dằn vặt như thường lệ.
Ngục quan phản ứng bằng sự bình tĩnh:
– Ta đã hiểu, công việc của chúng ta đã được quyết định. Các người không cần phải nói nhiều.
Những lính dần dần ra phía sau, bối rối nhìn nhau. Sáu tù nhân bất ngờ trước thái độ lạnh lùng của quản ngục.
Trong suốt nửa tháng, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ nhỏ gầy gò đến mang rượu đến trước bữa ăn tối của ông trong căn phòng tối tăm. Mỗi khi đem rượu và đồ ăn, người thơ lễ phép nói:
– Thưa ông, chúng tôi chỉ có ít đồ nhỏ này để biếu ông giữ ấm bụng. Trong căn phòng này, lạnh lắm.
Ông Huấn Cao tiếp tục nhận rượu và thức ăn một cách bình thường, coi đó như một thói quen vẫn còn lại từ thời trước khi bị giam giữ. Rồi một ngày nọ, quản ngục mở cửa buồng đậu và cẩn thận hỏi ông Huấn:
– Đối với người như ông, quy định khắt khe lắm. Nhưng tôi biết ông là một người có lòng nhân từ, tôi muốn nhường một ít. Miễn là ông giữ bí mật. Nếu lính tráng họ biết, tôi sẽ phải gánh nhiều rắc rối. Vậy ông còn cần gì nữa không? Tôi sẽ cố gắng đáp ứng.
Ông đã trả lời quản ngục:
– Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng bước vào đây nữa.
Khi ông Huấn nói câu ám chỉ về sự khinh bạc, ông đợi sẽ nhận một trận đòn trả thù và sự tàn bạo từ quan ngục. Thậm chí, ngay cả khi đối diện với nguy cơ mất mạng, ông cũng không sợ những trò ác ý của chúng. Ngục quan làm ông Huấn càng phát tức hơn, nhưng sau khi nghe câu trả lời, y chỉ lịch thiệp rút lui với lời: “Xin lãnh ý”. Và từ đó, thức ăn và rượu được đưa đến đều đặn hơn và có phần sang trọng hơn trước; nhưng ông vẫn không cho phép bước chân vào buồng giam của mình. Ông càng ngạc nhiên hơn khi nhận ra rằng năm đồng đội của mình cũng được đối xử như vậy.
Trong những đêm dài, bên cạnh việc suy ngẫm về số phận lớn lao mà không thể tránh khỏi, ông Huấn Cao cũng phải lo lắng về ý đồ của quản ngục. “Có lẽ hắn muốn khám phá những bí mật của tôi?”. “Không, không phải vậy, vì tôi đã thú tội mọi điều quan trọng trước ti Niết rồi. Tôi đã nhận hết. Tôi đã ký lời khai rồi. Còn gì nữa mà hắn muốn tìm kiếm?”.
Trong đêm đề lao, khi ngày cuối cùng của đời sống tử tù đang đến gần, ông Huấn vẫn giữ vững bản tính của mình, như một điều không thể thay đổi trong nghìn năm qua. Viên quản ngục không hận ông Huấn với sự khinh bỉ của mình. Anh ta cũng không trách ông Huấn như những kẻ gieo rắc rối, khiến mọi việc rối tung, ngay cả khi ông Huấn đang chịu sự giam cầm.
Quản ngục hy vọng rằng một ngày ông Huấn sẽ thay đổi, để anh ta có thể nhờ ông viết, viết lên những chữ trên tờ lụa mà anh ta đã chuẩn bị sẵn và dành riêng cho ông. Và nguyện vọng đó đã thành hiện thực.
Biết đọc vỡ nghĩa sách thánh hiền, từ những ngày nào, điều ước của viên quan coi ngục này là một ngày có thể treo một đôi câu đối do ông Huấn Cao viết ở nhà riêng. Chữ của ông Huấn Cao đẹp và vuông vắn. Ông ít khi viết chữ, trừ khi ông tri kỉ. Có được một tác phẩm chữ viết của ông Huấn Cao là có một kho báu trên đời. Viên quản ngục khổ sở nhất là có một ông Huấn Cao dưới tay mình, nhưng không biết làm thế nào để xin được những dòng chữ. Không dám đối mặt trực tiếp với ông, y chỉ lo rằng nếu ông Huấn bị hành hình mà không kịp nhận được những dòng chữ, thì sẽ hối tiếc suốt đời.
Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục cảm thấy run rẩy khi đọc công văn Quan Hình bộ Thượng thư trong kinh yêu cầu giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí ra khỏi giam. Pháp trường đã được lập ở nơi khác. Ngày mai, một nhóm người sẽ đến để giải tử tù.
Viên quản ngục đã tin vào thầy thơ, nên gọi tới và chia sẻ tâm tư của mình. Thầy thơ cảm động khi nghe, và nói: “Đừng lo, tôi sẽ chạy xuống trại giam và kể với ông Huấn về nỗi lòng của bạn, cũng như thông báo về quyết định giải tử tù vì án tử hình.
Ông Huấn Cao suy ngẫm một lúc trước khi mỉm cười: “Hãy bảo chủ của ngươi, khi lính canh về nghỉ tối nay, hãy mang xuống đây lụa, mực, bút và một bó đuốc cho ta. Chữ thực sự quý giá. Ta không bao giờ ép bản thân viết câu đối vì vàng bạc hay quyền lực. Trong cuộc đời, ta chỉ viết hai bộ tứ bình và một bức tranh cho ba người bạn thân của ta. Ta rất trân trọng sự tôn trọng của các ngươi. Không mấy chút, ta đã mất một tấm lòng trong thế giới này”.
Trong đêm đó, khi trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vắng lặng với tiếng mõ trên vọng canh, một tình cảnh chưa từng xuất hiện đã diễn ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, với tường tràn ngập mạng nhện và đất phủ đầy phân chuột và gián.
Trong không khí đám cháy, ánh sáng đỏ của đuốc tẩm dầu chiếu lên ba đầu người đang cùng nhau viết trên một tấm lụa trắng. Khói mọc đầy, làm cho họ phải cố gắng nhắm mắt lại.
Một người tù, cổ đeo gông, chân xiềng, đang viết chữ trên tấm lụa trắng trên một mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại lặn lội cất giấu những đồng xu kẽm đánh dấu vị trí của các chữ trên tấm lụa. Thầy thơ gầy gò lại cầm chậu mực run run. Thay bút, với tâm trạng trống rỗng, ông Huấn Cao thở dài và nói:
– Nơi này không phù hợp. Tôi khuyên thầy Quản nên tìm nơi khác. Đây không phải là nơi để treo một bức tranh lụa trắng với những nét chữ tươi tắn kể về những hoài bão của một đời. Thầy nên thay đổi, trở về quê hương và từ bỏ nghề này trước khi mải mê với việc chơi chữ. Ở đây, không dễ dàng duy trì tính thanh lương và rồi cuối cùng cũng sẽ mất đi sự ngay thẳng trong đời.
Lửa cháy rừng bốc lên, rơi xuống sàn nhà ẩm, và dần dần tắt.
Ba người nhìn vào ngọn lửa, sau đó lại nhìn nhau.
Ngục quan xúc động, gập người tù một cái, kính bạt nói một lời khiến dòng nước mắt trườn vào kẽ miệng làm cho lòng nghẹn ngào: “Kẻ này xin tôn lãnh”.
I. Một chút về tác giả Nguyễn Tuân
- Nguyễn Tuân (1910 - 1987), ra đời trong một gia đình theo triết lý Nho khi nghiên cứu Hán văn đã suy tàn.
- Quê quán tại làng Mọc, hiện nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
- Lúc còn nhỏ, Nguyễn Tuân đã theo gia đình sống ở nhiều tỉnh miền Trung.
- Ông học tới cuối bậc Thành chung (tương đương với cấp THCS hiện nay) ở Nam Định. Sau khi học xong, ông trở về Hà Nội để viết văn và làm báo.
- Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân tham gia vào cách mạng và tự nguyện sử dụng bút để phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc.
- Từ 1948 đến 1958, ông làm Tổng thư ký Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
- Ông là một nhà văn vĩ đại, một nghệ sĩ suốt đời theo đuổi cái đẹp.
- Nguyễn Tuân đã có những đóng góp quan trọng cho văn học Việt Nam hiện đại bằng cách thúc đẩy sự phát triển của thể loại tùy bút, bút ký đạt tới trình độ nghệ thuật cao, từ đó làm phong phú cho ngôn ngữ văn học của dân tộc.
- Nguyễn Tuân được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 1996.
- Một số tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm: Một chuyến đi (1938), Vang bóng một thời (1940), Thiếu quê hương (1940), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972)...
II. Giới thiệu về truyện ngắn Chữ người tử tù
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Truyện ngắn “Chữ người tử tù” ban đầu được đặt tên là “Dòng chữ cuối cùng” và được xuất bản năm 1939 trên tạp chí Tao đàn.
- Tiếp sau đó, truyện được thuận theo trong bộ tập “Vang bóng một thời” (1940) và đã được đổi tên thành “Chữ người tử tù”.
- Bộ sưu tập “Vang bóng một thời” chứa đựng 11 truyện ngắn, tất cả do Nguyễn Tuân sáng tác trước khi Cách mạng diễn ra. Các nhân vật trong tập truyện thường là những Nho sĩ dưới triều đại cuối cùng - những con người tài năng nhưng không may mắn.
2. Cấu trúc
Bao gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “Để mai ta dò ý tứ hắn lần nữa xem sao rồi sẽ liệu”. Cuộc đối thoại giữa quản ngục và thầy thơ lại trước ngày nhận tử tù.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Thiếu chút nữa, ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Quá trình nhận tù, cách xử lý đối với Huấn Cao và thái độ coi thường của người tù.
- Phần 3. Cảnh tượng cho chữ - một bức tranh “chưa từng có” từ trước đến nay.
3. Tóm tắt
Truyện 'Chữ người tử tù' kể về Huấn Cao, người lãnh đạo của một cuộc khởi nghĩa thất bại, sau đó bị bắt và kết án tử hình. Trước khi bị dẫn đến kinh thành để chịu hình phạt, ông được gửi đến một trại giam ở tỉnh Sơn. Người quản giáo của trại giam này biết đến danh tiếng của Huấn Cao như một người có tài viết chữ đẹp, và ông đã mơ ước được gặp ông từ lâu. Khi Huấn Cao đến trại, người quản giáo đã đối xử với ông rất tôn trọng, nhưng chỉ nhận được sự coi thường từ Huấn Cao. Nhưng sau này, khi ông nhận ra lòng tốt của người quản giáo, Huấn Cao đã quyết định viết chữ cho ông. Mặc dù việc viết chữ diễn ra trong bóng tối của phòng giam nhỏ, nhưng những nét chữ mà ông viết thực sự thể hiện sự cao cả và kiêu hùng của một con người. Sau khi viết chữ, Huấn Cao khuyên người quản giáo rời khỏi trại giam và quay về quê nhà để tìm kiếm sự thanh bình và công bằng. Người quản giáo đã rất bị ấn tượng và cảm kích với lời khuyên của Huấn Cao, ông gật đầu và nói: 'Tôi sẽ làm theo ý của kẻ hiếu kỳ này'.
4. Nội dung
Trong truyện ngắn 'Chữ người tử tù', tác giả đã thành công trong việc mô tả hình ảnh của Huấn Cao - một người có tài, với tấm lòng trong sáng và tính cách mạnh mẽ, kiên định. Qua đó, tác giả muốn thể hiện quan điểm về cái đẹp, khẳng định sự bất diệt của cái đẹp và tiết lộ tinh thần yêu nước sâu sắc mà ông kín đáo giữ trong lòng.
5. Nghệ thuật
Tình huống trong truyện độc đáo, nghệ thuật xây dựng cảnh, khắc họa tính cách nhân vật và sử dụng các thủ thuật tương phản, ngôn ngữ giàu hình ảnh…
III. Phân tích chi tiết Chữ người tử tù
(I) Bắt đầu
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân và truyện ngắn 'Chữ người tử tù'.
(II) Nội dung chính
1. Nhân vật Huấn Cao
a. Vẻ đẹp của tài năng và sức mạnh
- Tài năng vượt trội:
- Không chỉ là một nhà văn giỏi, Huấn Cao còn có khả năng 'bẻ khóa vượt ngục' - một tài năng kỳ diệu về cả văn võ.
- Người nghệ sĩ sáng tạo ra vẻ đẹp: cảnh viết chữ - một diễn biến truyền thống độc đáo.
- Sức mạnh kiêu hãnh:
- Tự do trong suy nghĩ và hành động: 'Thả gông nặng tám tạ rơi xuống đất, đánh tan mọi áp bức', và 'bình thản' trước sự đe dọa của bọn lính.
- Thái độ coi thường quyền lực: Dưới góc nhìn của Huấn Cao, những người lính trong ngục chỉ là những kẻ nhỏ nhen coi trọng quyền lực, vì vậy anh ta không để ý tới họ. Anh ta đối mặt với viên quản ngục một cách dứt khoát và tự tin, nói rằng: 'Ngươi hỏi ta cần gì? Ta chỉ muốn một điều. Đừng bao giờ chạm vào lãnh địa của ta nữa', và sẵn lòng chấp nhận mọi hậu quả của hành động đó.
b. Tinh thần trong sáng và đạo đức
- Tự do từ vật chất của Huấn Cao: 'Ta không bao giờ bị bó buộc bởi vàng bạc hay quyền lực khiến mình phải viết chữ'
- Tôn trọng đạo đức của người khác: 'Ta không biết rằng người như thầy Quản lại có ước mơ cao đẹp như vậy. Gần như ta đã làm tổn thương một trái tim trong xã hội'.
- Lòng nhân từ: 'Dưới bất kỳ hoàn cảnh nào, ta cũng khuyên thầy Quản nên tìm kiếm một nơi mới để bắt đầu lại...'.
=> Huấn Cao - một người tài năng, mang trong mình tấm lòng trong sáng và tinh thần kiêu hãnh không khuất phục.
2. Quản ngục của nhà tù
a. Giới thiệu về viên quản ngục:
- Về ngoại hình: 'Người đang ngồi đó, đầu đã bạc phơ, râu đã chuyển màu. Những nếp nhăn trên khuôn mặt của một người già, giờ đây đã tan biến hết. Anh ta hiện thân như mặt nước của ao xuân - yên bình, im lặng và êm đềm...'
- Về tính cách: 'Anh ta có tinh thần dịu dàng và biết trân trọng mọi người, và giọng nói của anh ta giống như một giai điệu trong trẻo vang lên giữa âm nhạc hỗn loạn của một bản nhạc...'
b. Tính cách của quản ngục
- Quản ngục hiểu biết và tôn trọng tài năng: Coi trọng tài năng và luôn đối xử công bằng với Huấn Cao.
- Ông ta là một người có trái tim của một nghệ sĩ và biết đánh giá cái đẹp: Say mê việc sáng tạo từ chữ viết; Ao ước sở hữu nét viết của Huấn Cao để treo trang trí trong nhà.
- Một con người mang trong mình tinh thần trong sáng: Bị cảm động trước lời khuyên của Huấn Cao…
(III) Kết bài
Xác nhận một lần nữa giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm 'Chữ người tử tù'.