Thạch Lam là một nhà văn tài hoa với văn phong đơn giản, sáng tạo và sâu sắc. Trong tác phẩm 'Hai Đứa Trẻ', ông thể hiện sự lãng mạn đặc biệt. Tác phẩm này sẽ được trình bày trong chương trình Ngữ Văn lớp 11.
Hôm nay, Mytour xin giới thiệu tài liệu về nhà văn Thạch Lam và tác phẩm 'Hai Đứa Trẻ'. Mời các bạn tham khảo.
Tóm tắt truyện ngắn Hai Đứa Trẻ
- Hai Đứa Trẻ
- I. Giới thiệu về tác giả Thạch Lam
- II. Giới thiệu về truyện ngắn Hai Đứa Trẻ
- III. Dàn ý phân tích truyện ngắn Hai Đứa Trẻ
Hai Đứa Trẻ
Nghe đọc tóm tắt truyện Hai Đứa Trẻ:
Tiếng trống thu vang xa trên chợ nhỏ của huyện, gọi mời buổi chiều. Phía tây rực đỏ như lửa cháy, những đám mây hồng như mảnh than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt vẫn đen thui và tạo nên hình ảnh rõ ràng trên nền trời.
Buổi chiều êm ả như dịu dàng ru mát, với tiếng ếch nhái văng vẳng ngoài đồng cùng tiếng gió nhẹ. Trên đồng ruộng, muỗi đã bắt đầu vo ve trong cửa hàng hơi tối. Liên ngồi yên lặng gần mấy cây thuốc sơn đen, đôi mắt chị lấp lánh trong bóng tối và nỗi buồn của buổi chiều quê đã thấm vào tâm hồn ngây thơ của cô: Liên không hiểu tại sao, nhưng trong lòng cô tràn ngập nỗi buồn trước khi hoàng hôn buông xuống.
- Em thắp đèn lên cho chị Liên nhé?
Nghe thấy tiếng An nói, Liên đứng dậy trả lời:
- Hãy chờ thêm một chút nữa đi. Em ngồi bên đây với chị để không bị muỗi cắn.
An đặt bao diêm xuống bàn và cùng chị ra ngoài ngồi trên chiếc chõng; chiếc chõng lụn xuống và kêu lách cách.
- Cái chiếc chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?
- Ừ, khi nào chị bảo mẹ mua chiếc khác thay thế đi.
Hai chị em ngồi yên nhìn ra phố. Các nhà đèn đã bật sáng, đèn treo trong quán phở Mỹ, đèn Hoa Kỳ leo lét trong tiệm ông Cửu, và đèn dây sáng xanh trong cửa hàng...
Ánh sáng từ các nguồn đèn chiếu ra phố làm cho cát lấp lánh từng điểm và đường mấp mô vì những viên đá nhỏ nhặt sáng tối xen kẽ.
Chợ trên phố đã vắng lâu rồi. Mọi người đã rời khỏi và tiếng ồn ào cũng dần lắng xuống. Trên mặt đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ trứng, lá nhãn và bã mía. Một mùi ẩm ướt bay lên, hơi nóng của ngày dài cùng với mùi cát bụi quen thuộc, khiến hai chị em Liên nghĩ rằng đây là mùi của đất, của quê hương. Một vài người bán hàng về muộn đang sắp xếp hàng hóa, chuẩn bị gánh lên vai, và họ còn đứng tâm sự với nhau vài câu cuối ngày.
Những đứa trẻ con nhà nghèo ở gần chợ, cúi lom khom trên đất đi tìm những thứ có thể tái chế, như thanh nứa, thanh tre, hoặc bất cứ đồ gì mà người bán để lại. Liên thấy thương nhưng chính cô cũng không có tiền để giúp đỡ chúng.
Trời đã chuyển tối, bây giờ hai chị em Liên mới thấy thằng bé xách đèn điện và hai cái ghế trên lưng, đi qua ngõ ra ngoài; chị Tí, mẹ của nó, theo sau, đeo chiếc chõng lên đầu và tay nắm không biết bao nhiêu đồ đạc: tất cả là của hàng của cô.
- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế?
Chị Tí để chõng xuống đất, bày biện các bát uống nước trước khi trả lời Liên:
- Ồi chào, sớm hay muộn cũng vậy thôi, có gì đâu mà phải lo lắng.
Ban ngày, chị đi mò cua và bắt tép; đến tối chị mới sắp xếp hàng nước dưới gốc cây bàng, gần cái mốc gạch. Nhưng bán cho ai? Thường là những người đi làm ruộng hoặc xe ôm, đôi khi có những người lính trẻ trong huyện hoặc những người có người thân là giáo sư còn ăn tôm. Họ ghé qua quán chị uống nước chè tươi và hút thuốc lào. Chị Tí không kiếm được nhiều, nhưng mỗi chiều chị đều dọn hàng, từ chiều tối đến đêm muộn.
Sau khi sắp xếp xong chõng ghế, chị lại di chuyển ngọn đèn Hoa Kỳ để ngồi trên ghế trầu, còn thằng em thì loay hoay chuẩn bị lửa để nấu nước chè. Lúc đó chị mới ngẩng đầu nói chuyện với Liên:
- Cô chưa dọn hàng à?
Liên giật mình và lẩm bẩm: “Chết chưa!”, sau đó đứng dậy giục em:
- Vào đóng cửa hàng nào, không thì mẹ mắng chết.
An trả lời:
- Hôm nay chưa chắc mẹ sẽ ra được đâu, chị ạ. Mẹ còn bận làm gạo đấy.
Mỗi ngày khi chập tối, mẹ của Liên lại ra thăm quán một lần, và bảo rằng nếu trống thu không thì phải đóng cửa. Nhưng Liên đã ngồi nhìn ra phố quá lâu và quên mất điều đó! Bây giờ Liên vội vàng đi vào thắp đèn, sắp xếp lại những gói thuốc lào và bánh xà phòng, trong khi An đi tìm then để cài chặt cửa. Cửa hàng của hai chị em - một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, được mẹ Liên dọn từ khi cả nhà chuyển từ Hà Nội về quê. Đây là một gian hàng thuê lại từ bà lão móm ngăn bằng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình. Mẹ giao cho Liên trông coi cửa hàng này trong khi bận làm hàng xáo, và buổi tối thì hai chị em ngủ ở đây để trông hàng.
Liên đếm lại các gói thuốc lào, xếp vào hòm cùng những bánh xà phòng còn lại, vừa lẩm bẩm tính tiền hàng. Hôm nay bán cũng không được nhiều.
- Em có bán cho bà Lực hai bánh xà phòng vào buổi trưa không?
An suy nghĩ một lát rồi trả lời:
- Vâng, bà ấy mua hai bánh và cụ Chi cũng lấy nửa bánh nữa.
Liên ngồi lại để tính số tiền. Nhưng với cái nóng và muỗi ồn ào, chị ngần ngại và quyết định xếp hết tiền vào trong tráp, không tính nữa:
- Thôi, để mai tính lại.
An nhìn chị, chỉ đợi đến lúc đó. Hai chị em vội vã đóng cửa hàng lại và ra ngoài, ngồi trên chõng ngắm cảnh ngoài phố. Liên khóa kỹ tráp tiền bằng chiếc chìa khóa chị đeo vào dây xà của mình, chiếc xà tích và chiếc khóa mà chị vô cùng quý mến và hãnh diện, bởi nó thể hiện chị là người con gái lớn và trưởng thành.
- A, bé làm gì thế?
Nghe tiếng cười vang lên, chị em Liên không cần quay đầu cũng biết là ai đã đến. Đó là cụ Thi, một bà già hơi điên, vẫn thường mua rượu ở hàng của Liên. Liên hiểu tính cách của bà, nên chị rót một cốc rượu đầy đủ cho cụ; chị không dám nhìn thẳng vào mặt cụ, và trong lòng hơi run sợ, chị mong cụ sớm ra đi. Cụ nắm cốc rượu, nhìn lên và cười tươi nói:
- A, em Liên thảo nhỉ. Hôm nay lại rót đầy cho chị đây.
Cụ nâng cốc lên, uống hết một hơi, rồi vừa lấy miệng vừa rút tiền từ túi quần - cụ đưa ba đồng xu vào tay Liên, xoa đầu chị một cái rồi lảo đảo bước ra ngoài. Hai chị em Liên nhìn cụ đi vào bóng tối, tiếng cười khanh khách dần xa phía làng.
*
**
Đêm đã buông xuống, là một đêm mùa hạ êm ái như nhung và được làm dịu bởi cơn gió mát. Đường phố và những con ngõ dần dần chìm trong bóng tối. Hầu hết các nhà cửa đã im lặng, chỉ còn vài cửa hàng vẫn sáng để mở, nhưng chỉ để lóe sáng một chút. Trẻ em tụ tập lại với nhau ở vỉa hè, tiếng cười vang vọng tạo nên sự vui tươi, khiến An thèm muốn gia nhập để nô đùa cùng họ, nhưng sợ bị mẹ quát, vì vậy hai chị em ngồi yên trên chiếc ghế dài, theo dõi những bóng người về muộn từ từ đi trong đêm.
Vòm trời trải dài với hàng ngàn vì sao lấp lánh, xen lẫn với ánh sáng của những con đom đóm bay trên mặt đất hay leo lên cành cây. An và Liên ngước mắt lên để ngắm nhìn những vì sao, hy vọng tìm thấy sông Ngân Hà và con Vịt Theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ vô tận làm cho tâm hồn hai đứa trẻ cảm thấy bí ẩn và xa lạ, khiến cho họ mỏi mệt. Một lát sau, hai chị em lại nhìn xuống đất, về phía ánh sáng ấm áp xung quanh chiếc đèn treo trên chõng hàng của chị Tí. Ở phía xa, một chấm lửa vàng nhỏ lơ lửng đi trong đêm tối, tắt đi, rồi lại xuất hiện... An chạm tay vào chị Liên, chỉ về phía đó:
- Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến rồi kìa.
Tiếng đòn gánh kĩu kịt rõ ràng, khói theo gió bay vào chỗ hai chị em đang ngồi: bác Siêu đã tới gần, đặt gánh phở xuống đường. Bác cúi xuống, nhóm lại lửa, thổi vào nồi nước. Bóng dáng bác mênh mang ngả xuống đất, kéo dài ra tận hàng rào hai bên đường. An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm ngon, nhưng ở vùng quê nhỏ này, món quà bác Siêu bán là một món quà xa xỉ, quá đắt đỏ, hai chị em không thể mua được. Liên nhớ lại những ngày ở Hà Nội chỉ được thưởng thức những món quà ngon lành - lúc đó mẹ Liên có nhiều tiền - được đi chơi bên hồ và uống những ly nước lạnh xanh đỏ. Ngoài ra, những kỷ niệm về đó không rõ ràng lắm, chỉ là một khu vực sáng rực và lấp lánh. Hà Nội có quá nhiều đèn! Kể từ khi gia đình Liên chuyển đến đây, từ khi có cửa hàng này, mỗi đêm Liên và em cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng, trong bóng tối của phố xung quanh.
Liên đã quen với bóng tối, không còn sợ nó nữa. Đêm tối, những con đường dẫn ra sông, qua chợ về nhà, và các ngõ vào làng trở nên u ám hơn. Chỉ còn ánh sáng từ ngọn đèn nhỏ của chị Tí và ngọn lửa từ bếp của bác Siêu soi sáng một góc đất cát; trong cửa hàng, ngọn đèn của Liên, nhỏ bé và thưa thớt, từng hạt sáng lóe loẹt qua tấm phên nứa. Toàn bộ phố xá trong huyện giờ đây như thu lại thành nơi bán nước của chị Tí. Còn có một gia đình bác xẩm ngồi trên chiếc chiếu, trước mặt là cái thau sắt trắng, nhưng bác vẫn chưa hát vì chưa có khách nghe.
Chị Tí vỗ về cành chuối khô để đuổi ruồi bay trên các hàng, chậm rãi nói:
- Giờ muộn như vậy mà họ vẫn chưa đến sao?
Chị đang nói về mấy chú lính trong huyện, mấy người nhà của cụ thừa, là những khách hàng quen thuộc của chị. Bác Siêu đáp lời lạnh lùng:
- Hôm nay có tổ tôm trong ngôi trường của ông giáo. Có lẽ họ không cần gọi.
Vợ chồng bác xẩm góp tiếng đàn bầu rộn ràng giữa không gian yên lặng. Thằng con bò ra ngoài manh chiếu, nghịch ngợm nhặt nhạnh những rác bẩn chôn sâu trong cát bên đường. Trên những con đường tối tăm ấy, người ta hy vọng tìm thấy một chút ánh sáng để chiếu rọi cuộc sống nghèo khổ của họ hằng ngày.
*
**
An và Liên đã buồn ngủ rồi. Tuy vậy, hai chị em vẫn cố gắng giữ mình tỉnh táo thêm chút nữa trước khi đóng cửa hàng để đi ngủ. Mẹ luôn nhắc nhở phải thức đến khi tàu đi ngang qua - con đường sắt chạy ngay trước mặt phố - để bán hàng, có thể sẽ có vài người mua. Tuy nhiên, giống như mọi đêm khác, Liên không hy vọng sẽ còn khách đến mua. Và vào những đêm như thế này, họ chỉ bán được vài gói diêm và thuốc lá. Liên và em vẫn cố gắng giữ mình tỉnh để được nhìn chuyến tàu đi qua. Chín giờ là giờ tàu cuối cùng ở Hà Nội đi qua huyện.
An đã nằm xuống gối đầu lên đùi chị, đôi mí mắt sắp rơi vào giấc ngủ, nhưng vẫn cố giữ miệng dặn dò:
- Khi tàu đến, chị sẽ đánh thức em dậy nhé.
- Dạ, em cứ ngủ đi.
Liên nhẹ nhàng quạt cho An, vuốt lại mái tóc mềm. Đầu bé nặng trên vai Liên; chị ngồi yên lặng không hề vội vàng. Qua khe lá của cây bàng, hàng ngàn ngôi sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm dưới gốc cây, vùng sáng xanh nhỏ nhắp nhấp rồi bay lên vai Liên một cách nhẹ nhàng, thỉnh thoảng từng đóa hoa bàng rụng xuống khe như những hạt mưa. Tâm hồn Liên lặng lẽ, có những cảm xúc mơ hồ không rõ ràng.
Trống cầm canh ở huyện vang lên một tiếng đập ngắn, khô khan, không vang xa, rồi tan vào bóng tối. Người ta vắng tanh, chỉ có vài người ngồi uống nước và hút thuốc lào trên hàng ghế của chị Tí. Nhưng chốc lát sau từ phố huyện đi ra, một vài người cầm đèn lồng lung lay những bóng dài: đó là những người làm công ở hiệu khách đón bà chủ từ tỉnh về. Bác Siêu quay đầu nhìn về phía ga, nói:
- Đèn tàu đã sáng kia rồi đấy.
Liên nhìn thấy ngọn lửa xanh biếc sát mặt đất, như một hình ảnh ma quái trôi nổi. Rồi tiếng còi xe lửa vọng lại từ xa, vang lên giữa đêm khuya xa xăm. Liên đánh thức em An:
- Dậy đi, An. Tàu đã đến rồi đấy.
An nhún vai dậy, dùng tay xoa mắt để tỉnh táo hơn. Hai chị em nghe tiếng rầm rì của xe, tiếng lốp xe sắc sảo trên đường. Mấy năm qua doanh thu buôn bán giảm sút nên số hành khách lên xuống cũng ít, có khi hai chị em chờ đợi mà không thấy ai. Trước đây, ở ga, có nhiều quán cơm mở cửa đón tiếp khách, đến nửa đêm còn sáng đèn. Nhưng bây giờ mọi thứ đều đóng cửa sớm, im lặng như đêm ngoài phố.
Hai chị em không phải chờ lâu. Tiếng còi đã vang lên, và tàu lao nhanh tới. Liên dẫn em An đứng lên để nhìn đoàn tàu đi qua, những toa xe sáng rực chiếu sáng xuống đường. Liên chỉ thấy qua loa những toa hạng sang của người giàu, đồng hành và đèn lấp lánh, và các cửa kính sáng. Rồi chiếc tàu vụt qua trong bóng đêm, chỉ còn lại những đốm lửa đỏ bập bùng trên đường sắt. Hai chị em nhìn theo những chấm sáng cuối cùng của đèn xanh trên toa cuối cùng, xa xa mờ dần sau những hàng tre.
- Hôm nay tàu không đông như bình thường nhỉ, chị.
Liên nắm tay em nhưng không nhận được phản hồi. Chuyến tàu đêm nay trống trơn hơn bình thường, ít người và ánh đèn thưa thớt hơn. Nhưng họ từ Hà Nội về đấy! Liên ngồi lặng lẽ và suy tưởng. Hà Nội xa xăm, sôi động và rực rỡ. Con tàu như đưa một mảnh thế giới khác đi qua. Một thế giới hoàn toàn mới với Liên, khác hoàn toàn với ánh sáng từ ngọn đèn của chị Tí và lửa của bác Siêu. Đêm vẫn bao phủ xung quanh, đêm của quê hương, nơi đồng ruộng bao la và yên tĩnh.
- Thôi đi ngủ đi em ơi.
Liên vỗ vai em, nhấc em ngồi xuống chỗ êm. An cũng ngồi xuống và dựa đầu vào vai Liên. Tiếng ồn của xe lửa dần lắng xuống và biến mất trong đêm tối, tai chị không nghe nữa. Những ngôi sao trên trời vẫn lung linh. Phố huyện bây giờ yên tĩnh hơn, chỉ còn tiếng trống và tiếng chó sủa. Từ ga, bóng người lặng lẽ trở về; chị Tí sắp xếp hàng hoá và bác Siêu kéo gánh vào làng, còn vợ chồng bác xẩm ngủ gục trên chiếu từ lâu.
Liên quay lại nhìn thấy An đã ngủ say, tay nắm chặt tà áo chị và đầu vẫn dựa vào vai. Liên nhìn quanh, gió đã lạnh và đom đóm đã tắt. Chị đưa em vào trong hàng, nhắm mắt lại. Chị gài cửa cẩn thận và vặn nhỏ đèn trên cái quả thuốc sơn đen. Rồi Liên nằm xuống cạnh em. Chị gối đầu lên tay và nhắm mắt lại. Những cảm xúc ban ngày dần lắng xuống trong tâm hồn Liên và hình ảnh thế giới xung quanh mờ đi. Liên cảm thấy mình sống trong bao xa xôi, không khác gì ánh sáng từ ngọn đèn con của chị Tí chiếu sáng một góc nhỏ đất. Nhưng chẳng còn nghĩ được lâu; đôi mắt nặng nề và sau đó Liên chìm vào giấc ngủ yên ả, cũng yên ả như đêm ở phố, yên lặng và u tối.
I. Giới thiệu về tác giả Thạch Lam
- Thạch Lam (1910 - 1942) sinh tên Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành Nguyễn Tường Lân) tại Hà Nội, trong một gia đình quan lại.
- Ông là anh ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo, cả ba đều là thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn.
- Lúc nhỏ, Thạch Lam sống ở quê là phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Sau đó ông theo cha chuyển đến tỉnh Thái Bình.
- Ông học ở Hà Nội, sau khi đỗ tú tài phần thứ nhất thì ra làm báo viết văn.
- Thạch Lam thường viết về “những truyện không có chuyện”, chủ yếu là khám phá thế giới tâm lý của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ trong cuộc sống hàng ngày.
- Văn của ông tinh tế, đơn giản nhưng sâu lắng.
- Các tác phẩm của ông gồm:
- Truyện ngắn: Gió lạnh đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942)
- Tiểu thuyết: Ngày mới (1939)
- Tùy bút: Hà Nội băm sáu phố phường (1943)...
II. Giới thiệu về truyện ngắn Hai đứa trẻ
1. Bối cảnh sáng tác
Truyện được đăng trong tập “Nắng trong vườn” (1938) là một trong những truyện ngắn đặc biệt của Thạch Lam.
2. Tóm tắt
Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” xoay quanh số phận của những người dân nghèo trong phố huyện thông qua câu chuyện của nhân vật Liên. Liên và An sống tại một phố huyện nghèo, được mẹ giao nhiệm vụ trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ. Trước đây gia đình Liên sống ở Hà Nội, nhưng bố mất việc nên phải chuyển về quê sống. Mẹ con chị Tí bán hàng nước, gánh phở của Bác Siêu, và sự biểu diễn của bác Xẩm... tất cả là những đời người bần cùng, nghèo khổ trong phố huyện nghèo. Giống như bao người dân khác sống ở đây, Liên luôn mong ngóng mỗi ngày để được ngắm chuyến tàu chạy qua phố huyện. Hình ảnh chuyến tàu ấy mang đến âm thanh và ánh sáng gợi lại trong nhân vật Liên những kỷ niệm về Hà Nội và những ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
3. Bố cục
Bao gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “ tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng ”. Bối cảnh phố huyện khi chiều xuống.
- Phần 2. Tiếp theo đến “ Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Bối cảnh phố huyện khi về đêm.
- Phần 3. Còn lại. Bối cảnh chờ đợi tàu của những người dân phố huyện.
4. Thể loại
- Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam thuộc thể loại: truyện ngắn.
- Truyện ngắn là tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ, ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp; cốt truyện thường không chia thành nhiều tuyến; chi tiết cô đúc; lời văn mang nhiều ẩn ý…
5. Nội dung
Truyện ngắn Hai đứa trẻ đã thể hiện sự thương cảm đối với cuộc sống cơ cực, đầy khó khăn của những người dân phố huyện nghèo trước Cách mạng. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra sự trân trọng trước ước mơ thay đổi cuộc sống tuy vẫn mơ hồ của họ.
6. Nghệ thuật
Cốt truyện đơn giản, hình ảnh giàu tính biểu tượng, phong cách văn học nhẹ nhàng…
III. Dàn ý phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ
(1) Mở đầu
Dẫn giới thiệu về tác phẩm truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.
(2) Nội dung chính
a. Cảnh phố huyện khi hoàng hôn buông xuống
* Mô tả thiên nhiên tại phố huyện:
- Góc nhìn: Liên cảm nhận toàn cảnh vùng đất xung quanh.
- Âm thanh: Tiếng trống canh chừng chiều tà về, tiếng ếch rú ga ga ngoài ruộng, tiếng muỗi vo ve.
- Hình ảnh, sắc màu: “Phía tây rực sáng như lửa cháy”, “Những đám mây nhuốm màu hồng như tàn phù sa”.
- Cảnh vật: Dãy tre làng nổi bật trên bầu trời.
=> Khung cảnh tự nhiên với màu sắc buồn, thể hiện cảm nhận tinh tế của nhân vật
* Cảnh chợ tàn và cuộc sống của những người dân tại phố huyện
- Cảnh chợ tàn:
- Chợ đã dần vắng bớt, người dân rời đi và tiếng ồn ào tan biến.
- Chỉ còn lại các rác thải, vỏ bưởi, vỏ sầu riêng, lá nhãn và lá mía.
- Cuộc sống của nhân dân:
- Những đứa trẻ nghèo khổ tìm kiếm, nhặt nhạnh những thứ cuối cùng còn sót lại tại chợ.
- Mẹ con chị Tí: bày bán hàng nước đơn giản, ít khách mua.
- Bà cụ Thi: về đêm mua rượu rồi tiếp tục đi vào bóng tối.
- Bác Siêu bán hàng phở - một món đồ xa xỉ.
- Gia đình bác xẩm mù sống từ lời ca và tiếng đàn, nhờ lòng hảo tâm của những người qua đường.
=> Sự nghèo khó bao trùm lấy khu phố huyện nghèo.
* Tâm trạng của Liên
- Ngồi im lặng bên những cây thuốc sơn đen, đôi mắt ngập đầy bóng tối, tâm hồn ngây thơ bị thấm đẫm bởi nỗi buồn của quê hương chiều tàn.
- Trái tim xót xa trước những giờ phút cuối cùng của ngày dần khuất.
- Thương cảm với những đứa trẻ nghèo khổ nhưng không thể giúp đỡ bằng cách nào.
- Thương mẹ con chị Tí: ban ngày cất công đi bắt cua, tối về lại lo dọn dẹp cửa hàng nước chè, mà lợi nhuận thì ít ỏi. Đồng thời cảm thấy xót xa với bà cụ Thi điên.
=> Một tâm hồn giàu lòng trắc ẩn, yêu thương con người.
b. Cảnh phố huyện khi về đêm
* Sự tương phản giữa 'bóng tối' và 'ánh sáng'
- Phố huyện chìm trong bóng tối:
- 'Các con đường và hẻm nhỏ dần chìm trong bóng tối'.
- 'Bóng tối lan tỏa khắp con đường dẫn ra sông, từ chợ về nhà, các lối vào làng càng trở nên tối tăm hơn'.
=> Bóng tối lan rộng, ảnh hưởng đến mọi hoạt động của người dân trong phố huyện.
- Ánh sáng chỉ còn lóe lên ở một vài điểm: Đèn treo trong nhà bác Siêu bán phở, lồng đèn hoa kì lồng lộng trong nhà ông Cửu, dây đèn sáng xanh trong hiệu khách, ngọn đèn sáng trong cửa hàng của Liên…
Ánh sáng giờ chỉ là những vệt sáng, những vòng sáng, những tia lửa nhỏ, những hạt sáng…
Biểu tượng cho cuộc đời của những con người bé nhỏ sống lặn lội, tàn phá trong bóng tối rộng lớn của xã hội cũ.
Cuộc sống của những con người nghèo khổ
Những công việc hàng ngày vẫn diễn ra lặp đi lặp lại:
- Chị Tí làm công việc vận chuyển nước.
Những suy nghĩ vẫn quay cuồng, lặp đi lặp lại hàng ngày: Chị Tí mong rằng những người giàu có, xe đạp, cảnh sát sẽ ghé vào quán để uống chè và hút thuốc lào. Mong ước rằng những ai đang sống trong bóng tối sẽ tìm được một chút ánh sáng cho cuộc sống nghèo khổ của họ.
Dù cuộc sống có bế tắc nhưng con người vẫn không ngừng mơ ước về một tương lai khác biệt.
Cảnh đợi chuyến tàu của những người dân ở khu phố ngoại ô.
Lí do Liên và An đợi tàu là:
- Để bán hàng theo lời mẹ dặn và để chiêm ngưỡng chuyến tàu đêm cuối cùng đi qua hoạt động.
Hình ảnh của đoàn tàu bắt đầu xuất hiện:
- Liên nhìn thấy “ngọn lửa xanh biếc”... Hai chị em nghe tiếng động và tiếng xe cộ lao vào ghi.
Khi đoàn tàu đến gần:
- Các toa đèn sáng rực, chiếu ánh xuống đường. Những toa hạng trên sang trọng nhấp nháy đèn, và các cửa kính lấp lánh sáng.
Khi đoàn tàu khởi hành đi:
- Rồi những đốm than đỏ bay lượn trên đường sắt. Chiếc đèn xanh treo phía xa, xa xa, rồi khuất sau rặng tre.
Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với âm thanh sôi động và ánh sáng rực rỡ, thể hiện ước mơ thoát khỏi cuộc sống hiện tại của Thạch Lam và khao khát hướng tới một cuộc sống ý nghĩa hơn cho những người dân nghèo.