Làng” là tác phẩm mà Kim Lân sáng tác trong giai đoạn ban đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Truyện được công bố lần đầu trên tạp chí Văn nghệ năm 1948.
Mytour sẽ giới thiệu về nhà văn Kim Lân và nội dung của truyện ngắn Làng. Hãy cùng khám phá chi tiết trong phần tiếp theo.
Làng của Kim Lân
- Truyện ngắn Làng
- I. Đôi nét về nhà văn Kim Lân
- II. Giới thiệu về truyện ngắn Làng
- III. Dàn ý phân tích Làng
Truyện ngắn Làng
Nghe truyện ngắn Làng:
Mỗi tối, cảnh ông Hai đốt đóm đèn trong chiếc nón rách và bà Hai lầm bầm tính toán tiền của nhà, khiến ông Hai buồn bực. Ông thích làm việc hơn là ngồi nghĩ ngợi, và thường ghé thăm bác Thứ để tránh sự ồn ào trong nhà. Mỗi lần đi qua cửa nhà bác Thứ, ông lão luôn hỏi: “Có chuyện gì mới không bác?”
- Đácgiăngliơ lại quay về Pháp rồi đấy. Hừ, chơi vậy à! Vẫn là đi đi lại lại!
Hoặc:
- Báo Cứu quốc hôm nay nghe thú vị quá. Cụ Hồ phản đối với các nhà báo nước ngoài rất mạnh mẽ. Mặc dù cứng rắn nhưng lại có phần nhân từ. Cụ nói rằng chúng ta chỉ muốn Độc lập và Thống nhất, nếu không, chúng ta sẽ chiến đấu đến cùng. Đúng vậy, nếu không có Độc lập thì sống làm gì khi danh dự bị tổn thương. Và liệu chúng ta có Thống nhất và Độc lập được không nhỉ bác? Sau đó ông nói về tình hình di cư, tình trạng khủng bố phương Tây, việc bị phản bội... những chuyện ông nghe được trong buổi trưa, ngoài đường. Cũng như về các vấn đề chính trị, quân sự. Ông sắp xếp chúng này như thế này, chúng kia. Ông thực sự rành mạch nhưng chẳng mấy giá trị. Ông vén một bên môi ra, suy tư:
- Thực ra cũng chỉ là việc học lén thôi bác ạ... Vì tôi cũng là một phần của cuộc cứu quốc mà... Cuối cùng, khi tin tức hàng ngày trở nên nhàm chán, ông chuyển sang nói về làng của mình. Ông phát biểu về làng một cách hào hứng và sôi nổi. Đôi mắt ông sáng lên, gương mặt biến đổi, sôi nổi. Ông tự hào về làng mình có một trạm phát sóng thông tin lớn nhất khu vực, cái tháp phát thanh cao bằng cây tre, loa vang khắp làng. Ông tự hào về làng mình với nhà cửa gạch men sát nhau, nhộn nhịp như một thị trấn.
Con đường trong làng được lát đá xanh, dù trời mưa gió cũng không bị lầy lội. Mỗi khi mùa gặt, gạo được phơi, thì chất lượng rất tốt, không bị đất dính vào hạt gạo nào. Ông Hai vẫn thường khoe về làng như thế từ xưa. Trước đây, khi còn thuộc đế quốc Pháp, mỗi khi đi xa, ông chỉ tự hào về việc phục vụ cho viên tổng đốc làng. Ông cảm thấy rất tự hào khi làng có được viên tổng đốc đó: “Chết thật! Chưa từng thấy một ngôi làng nào được như ngôi làng của cụ tổng đốc tôi. Có rất nhiều thứ. Vườn hoa, cây cảnh đẹp như mơ đấy. Nghe nói còn hơn cả lâu đài của ông tổng đốc Hà Đông nữa!” Mỗi khi có khách đến từ các tỉnh khác, ông lão cũng phải dẫn họ đi xem ngôi mộ của ông tổng đốc. Ông nhiệt tình giải thích cho họ: tượng đá này là ông Hoàng Thạch Công vô tình để rơi chiếc giày. Những tượng sứ kia là thần tiên chứ không phải quan trọng. Và cái cột sắt nhọn nhẹn cắm vào bầu rượu có đắp bốn con dơi trên ngọn đỉnh là máy thu sét. Đáng kinh ngạc! Sấm sét được thu vào đó tất cả.
- “Cụ tôi” kia, nếu bị sét đánh vào sau này, cũng không có gì đáng lo cả. Nhìn kia! Trí lực của họ có khiếp không?
Ông lão nói và nhìn về bộ mặt ngạc nhiên của người bà con như họ đã bật đèn sáng tỏ. Ông cảm thấy như cái ngôi mộ đó một phần là của mình. Tuy nhiên, kể từ khi cuộc khởi nghĩa bắt đầu, ông không còn quan tâm đến ngôi mộ đó nữa. Ông coi đó như kẻ thù của mình. Ngôi mộ đó làm tổn thương ông, làm tổn thương cả làng. Việc xây dựng ngôi mộ đó khiến cả làng phải làm việc nặng nhọc, mang gạch, đá, và phục vụ cho việc đó. Có người bị ốm, có người chết, có người làm mấy tháng mà không nhận được bất kỳ phần thưởng nào. Ngôi mộ đó gây ra vấn đề về sức khỏe của ông. Ông bị một cọc gạch đập vào hông làm tổn thương. Nhưng bây giờ, khi ông khoe về làng, ông khoe khác đi. Ông kể về những ngày khởi nghĩa gay go tại làng, khi ông tham gia vào phong trào từ những ngày tăm tối. Các buổi tập quân sự. Thậm chí cả phụ nữ già mạnh mẽ cũng tham gia. Mỗi lần hướng dẫn bài tập, huấn luyện viên phải gọi:
- Cậu vẫn đang nghe chứ? Thế là bác Thứ giật mình, trả lời nhanh chóng:
- Vâng! Vâng! Tôi đang nghe đây, ông tiếp tục kể đi... Ông lão tiếp tục kể. Nhưng cũng có những lúc khi đang nói chuyện mãi mà ông đột nhiên im lặng, mặt trở nên trầm ngâm, ông suy nghĩ một lúc rồi thì thầm:
- Có lẽ chuyến đi này sẽ là cuộc hành trình cuối cùng... Năm năm, ba năm, hoặc mười mấy năm, không biết liệu có còn quay lại làng nữa không. Ông lão trầm ngâm, thở dài:
- Đứa nhỏ kia mất đi một phần của nhà tôi, phải rời đi, nhưng tôi không thể rời xa như vậy, tôi phải ở lại làng với anh em. Quê hương của cha ông tôi, rời xa mà không đau lòng hả bạn?...
Thực sự, ông Hai không muốn rời làng lên đây tí nào. Trong làng vẫn còn một số anh em ở lại, họ quây quần với nhau xung quanh một số nhà giữa làng. Ngày qua ngày, cùng với anh em đi làm đường và xây dựng ụ, công việc bận rộn, ông không còn thời gian suy nghĩ về vợ con và nhà cửa nữa. Mỗi lần vợ nhắn gửi muốn ông lên ngay, ông chỉ nhăn mặt nói: “Công việc đang như lửa đốt thế này mà phải lên thế nào được”. Ngày bà vợ về đón, ông lại từ chối. Ông nghĩ: Tôi sống ở làng này từ khi còn bé đến giờ. Ông cha cụ của tôi cũng sống ở làng này từ bao đời nay rồi. Bây giờ, khi gặp phải khó khăn như vậy, tôi không thể bỏ đi. Công việc là công việc chung chứ không phải của riêng mình ai? Ông nói với vợ:
- Tôi thì không thể rời đi được. Bố con mày trên đấy còn phụ thuộc vào nhau mà kiếm sống. Ở nhà tôi cũng đang cố gắng làm ra rau, gửi lên cho họ, nếu rời đi thì cũng sẽ thiếu thốn một phần, không thể như trước được.
Nhưng bà vợ khóc lóc, năn nỉ ông phải đi, bà nói:
- Ông có định để mẹ con tôi chết đói à? Ông phải lên đó trông nom cho họ mà kiếm sống. Rồi bà nài nỉ với mọi người, nài nỉ với trưởng thôn, mọi người đồng ý để ông Hai đi, ông Hai đành phải nghe theo. Ông buồn lòng, nhưng cũng không biết phải làm gì. Tình cảnh của mẹ con họ thực sự là khó khăn. Ba đứa con dại khờ, không có nghề nghiệp, nếu không ôm con ở nhà thì làm sao mà sống? Nhà có người đàn ông giống như nhà có mái, ông phải lên làm việc thuê để giúp đỡ được một phần. “Nếu không thể ở lại làng với anh em, thì việc rời đi cũng giống như một cuộc kháng chiến”...
Trong những ngày đầu ở đây, không có công việc gì, ông lão luôn cảm thấy bực bội. Ông ít nói, ít cười, gương mặt lúc nào cũng uất ức. Xin được miếng đất sau nhà, ông lăn lộn cuốc xới suốt ngày, chỉ thu được mấy luống rau cải, bước chân đã bị đàn gà nhà chủ đuổi đánh tan tành. Ông lão cáu kỉnh. Nếu không thể cáu với ai, ông quay sang cáu với vợ con. Chỉ cần một chút là ngắt, một chút là mắng, đôi khi cãi nhau không lý do, ông cũng tỏ ra tức giận. “Chúng mày làm khổ ông! Chúng mày làm khổ ông chẳng chừa! Ông sẽ giết hết chúng mày!”. Mỗi khi bước chân ra khỏi căn phòng nhỏ đầy đủ những đồ đạc, bát, đĩa, nồi, chảo, và những chiếc quần áo ẩm ướt đó, gương mặt ông lão trở nên nhẹ nhàng hơn, tươi tắn hơn. Tại sao ông lại sợ cái căn phòng đó thế! Đặc biệt là vào những buổi trưa nóng bức, nếu nghe tiếng mụ chủ nhà nói nhỏ nhẹ ở bên ngoài, ông không thể chịu nổi. Ông phải đi cho thoải mái. Ông Hai chưa từng thấy người phụ nữ nào tham lam, xấu xa như mụ ta. Người thì gầy đến như que gỗ. Miệng thì nhỏ nhắn, nhưng nói chẳng dứt. Không vào nhà thì thôi, nhưng một khi đã vào nhà là nhòm nhòm.
Mụ nhòm này một tí, nhòm kia một tí, và rồi lục. Mụ giơ lọ tương lên, ngắm rồi đặt xuống, mở hộp gạo ra, rồi đậy lại, mụ kiểm tra từng chiếc áo cẩn thận, rồi ném trả. Trong tâm trí mụ, có lẽ mụ nghĩ: nếu chúng mày ở nhà tao, thì những thứ của chúng mày cũng là của tao. Thức ăn của mụ được giữ cẩn thận, không ai được chạm vào. Con dao, cái chậu, bó củi của người ta mụ sử dụng mà không cần phải suy nghĩ, nhưng nếu không tìm thấy thì mụ nói láo, nói dối như chính mụ bị người ta đe dọa. Ngay cả đồ ăn, đồ uống mụ cũng can thiệp vào. Nếu có một cái nồi nước mắm được mua để pha loãng một chút, mụ cũng lấy hết. Mụ biết rõ những gì có trong nhà. Không một ngày nào bà Hai đi làm mụ không sườn đến kiểm tra.
- Ái chà! Nhà này có cái bát cá ngon quá, chiều tớ phải xin một bát để thử. Vì thế, chiều hôm đó, mụ sai con bưng bát đến để xin. Mụ đẩy thằng bé đi:
- Con tự đi xin đi, không cần phải mụ đi. Nếu có đồ ăn thơm ngon, mụ cũng muốn thử. Mụ đứng ở giữa nhà, nhìn lên trời mùi:
- Mùi này thơm quá, giống như mùi bánh rán ấy các anh chị ạ. Chắc là mụ chủ nhà giấu đi đâu rồi. Thường xuyên, mụ lại mượn tiền. Khi mua thuốc lá, khi mua thuốc diệt cỏ, rau củ, cá… Nếu cần, mụ cũng sẽ không ngần ngại:
- Tớ trừ tiền thuê nhà nha. Mụ cười một cách phô trương:
- Đùa thôi mà, mai tớ đi cuốc sắn, kiếm tiền trả thôi. Và mụ nói tiếp:
- Nghe nói, cái nhà ông Hai ở này cùng bác Thứ bên kia, đâu có gì đặc biệt, ở xóm dưới, hàng xáo họ nuôi lợn lắm lắm cơ. Nói thật, tớ chẳng ưng cái gì cả, chỉ cần có một chút gì đó sạch sẽ là được.
Ngay từ lúc mới lên đây, ông Hai đã không thích mụ đó. Nghe đồn xóm giềng nói, ông biết mụ không phải là người lương thiện. Mụ đã lấy đến người chồng này là người thứ ba rồi; hai người trước đó, một bỏ mụ, một mụ bỏ. Ít ra, mụ đối xử không công bằng với chồng. Người chồng thì lại quá hiền lành, chỉ biết lao đầu vào công việc. Vợ tỏ ra tức giận, thậm chí chỉ làm rất ít. Ông Hai rất ghét mụ đó. Ông không muốn sống chung với những người như vậy. Nhiều lần ông bảo vợ rời khỏi nơi này. Nhưng bà Hai luôn lưỡng lự. Bà nói:
- Không biết nơi nào tốt hơn, hoặc có thể là còn tồi tệ hơn. Trong làng và cả thành phố, không phải nhà nào cũng tiện lợi như thế này. Có một chỗ để ở như thế này là đủ may rồi. Ông lão phải chịu đựng thôi.
Buổi trưa đó, ông Hai ở nhà một mình. Con lớn đang làm việc ở quán mẹ và chưa về. Hai đứa bé thì ông cho chúng ra vườn giữa trông mấy luống rau vừa mới cấy lại, nhưng chẳng gặp gà nào. Ông Hai bùa bảy gạt vạt đất, từ sáng đến giờ trưa, ông tính trồng thêm vài trăm gốc sắn để dành cho những tháng đói sang năm. Một mình làm, hai vai mỏi mệt. Ông nằm vạt lên giường, tay vắt trán suy tư. Ông nhớ lại những ngày làm việc với anh em ấy, thấy mình như trẻ lại. Cũng nhưng cười, những giọng hát, cảnh đào cuốc cả ngày. Trong lòng ông như hòa mình vào không khí của làng. Ông muốn trở về làng, muốn cùng anh em đào đường, xẻ hào, khuân đá… Không biết cái chòi gác ở đầu làng đã xây xong chưa? Những hầm bí mật chắc còn nhiều khó khăn. Chao ôi! Ông nhớ làng quá. Bên ngoài, ánh nắng chiếu sáng, tiếng gà rừng cất lên những tiếng vui vẻ. Nhà mình dần trở nên ảm đạm, hơi bụi đất phủ lên. Mụ sắp về từ ruộng. Ông sẽ phải nghe mụ quát con mắng cái, cũng như lúc trước. Mụ mở cửa, ánh sáng rọi vào. Ông Hai giật mình, nhìn ra. Con lớn gác thúng không dám bước vào. Ông hỏi:
- Mày bên ngoài lâu thế?
Ông lão không chờ đợi đứa con trả lời, nhấc nón:
- Trong nhà trông em nhé! Đừng đi đâu đấy. Ông chỉ lên nhà:
- Nó chẳng quan tâm, biết đâu! Ông bước ra ngoài. Trời xanh, mây trắng, đường vắng vẻ. Ông Hai bước đi, đầu hướng về phía trước. Hai tay vung vẩy, nhấp nhổm. Gặp ai quen, ông cười gọi:
- Ánh nắng này làm chúng ta mệt mỏi! Có người hỏi: “Chúng ta là ai?”. Ông lão bật cười, chỉ về hướng tiếng súng:
- Ở Tây bắc đấy, không có chỗ nào khác cả. Ông lão rời đi, giả vờ như đang bận rộn. Như mọi ngày, việc đầu tiên là vào phòng thông tin nghe đọc báo. Ông đứng đó vờ vờ xem tranh ảnh, chờ người khác đọc rồi nghe lén. Ông rất khó chịu với việc đọc báo. Ông đã học một khóa cơ bản ở làng, biết đọc, biết viết. Nhưng chữ in khó nhận biết, ông đọc nó cứ bập bõm, câu được câu không, và chả lẽ cứ nghếch cổ lên giữ chặt tờ báo không cho người khác xem? Ông ghét nhất là những người đọc báo mà không đọc thành tiếng cho người khác nghe. Hôm nay may mắn, ông gặp được anh dân quân đọc rất lớn tiếng, rõ ràng, từng tiếng một, có lẽ anh ta mới học, nhưng đọc được từng chữ anh ta đọc. Ông lão nghe không sót một từ nào. Bao tin hay!
- Một cô bé trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm, cắm quốc kỳ lên Tháp Rùa. “Đấy, kêu chúng ta trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng ta chưa?” Một anh trung đội trưởng sau khi giết được bảy tên giặc đã tự sát bằng một quả lựu đạn cuối cùng. Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ. “Kinh khủng thật, tài giỏi như họ”. Lại còn bao nhiêu tin đột kích nữa, chỗ này giết được năm Pháp với hai Việt gian; chỗ kia phá đổ được một xe tăng và một xe díp. “Cứ thế, chỗ này giết một ít, chỗ kia giết một ít, cả súng ống cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm”. Ruột gan ông lão như muốn nhảy ra ngoài, vui quá! Ông lão rời khỏi phòng thông tin, vào quán nói với vợ vài việc, sau đó đi ra ngoài. Ở đây, những nhóm người tản cư mới đang ngồi dưới bóng cây đa, tạo ra một không gian mát mẻ. Ông lão ngồi vào quán gần đấy, hút một điếu thuốc, uống một hụt chè nóng, ông nghĩ: bao nhiêu ý nghĩ vui vẻ chen chúc trong đầu óc. Tiếng quạt, tiếng thở, tiếng trẻ em khóc, cùng với tiếng cười nói từ những người đi phá đường về râm ran một góc đường. Dưới chân đồi, những ruộng lúa xanh mượt, uốn quanh co dưới ánh nắng, như một khúc sông. Một vài con cò trắng bay qua…
- Các bác các mợ ở đâu mình lên đấy ạ? Ông Hai đặt bát nước xuống và hỏi. Một bà trả lời nhanh chóng:
- Thưa ông, chúng tôi ở Gia Lâm lên đấy ạ. Đi bốn năm mới lên đây, thật là vất vả!
- Ở Gia Lâm à? Ruộng lúa dưới đó thế nào, liệu có đất cày không ông?
- Có đất cày chứ! Cày đất mà, ông ạ. Ruộng dưới đó tốt hơn nhiều so với đây này.
- Ồ, vườn! Ruộng lúa dưới đó là vườn tốt hơn nhiều.
Ông lão hít một hơi thuốc lào sâu vào ngực, gật đầu:
- Hừ, đánh nhau cứ đánh, cày cấy cứ cày, tản cư cứ tản cư… Có gì đâu.
- Bác có hay không, mấy hôm nay súng nó bắn ở đâu mà nghe rộn thế không?
Một bà mẹ đang cho con bú từ bên kia can ngăn vào:
- Nó chạy về từ Bắc Ninh, qua chợ Dầu rồi nó gây rối ông ạ.
Ông Hai quay đầu vội vã hỏi:
- Ồ… nó tới chợ Dầu à bà? Thế ta tiêu diệt được bao nhiêu tên? Người phụ nữ ôm bé nói môi nhăn nhó:
- Không hề tiêu diệt được ai cả. Cả làng chúng tôi, cả một lũ Việt gian đều ủng hộ phía Tây. Ông lão nghẹn ngào, khuôn mặt tái nhợt. Ông lặng im, như thể không thể thở. Lâu lắm sau đó, ông mới rặn ra một tiếng, như đang nuốt cái gì đó vướng họng, giọng nói run run ông hỏi:
- Có phải là sự thật không bác? Hay chỉ là...
- Chính chúng tôi từ dưới ấy lên đây mà đấy. Việt gian từ thằng chủ tịch trở đi, cả làng đi theo Tây. Khi Tây vào làng, chúng nó mang cờ thần ra hoan hô. Thằng chánh Bệu khuân cả tủ chè, đồ đồng, vải vóc lên xe bò, đưa vợ con ra vùng đất với giặc ở tỉnh lẻ. Có người hỏi:
- Sao lại nói là làng chợ Dầu tinh thần cao quý như thế?...
- Đúng là như vậy nhưng giờ đây đã trở nên hỗn loạn như vậy!
Ông Hai thanh toán tiền nước, đứng lên, nhếch mép mỉm một cái, vươn vai nói to:
- Hừ, nắng chói chang, về thôi...
Ông lão giả vờ nhích dịch ra phía khác, sau đó bước đi thẳng. Tiếng cười nói huyên náo của đám người mới tới đây vẫn theo dõi. Ông nghe thấy rõ giọng chát chúa của người phụ nữ đang cho con bú nói:
- Cha mẹ là những người tiên sư của chúng chúng nó! Đói khổ, ăn cắp, ăn trộm, bắt người ta còn thương. Còn những kẻ phản bội dân tộc thì mỗi đứa một nhát!
Ông Hai gằm mặt xuống và bước đi. Ông nghĩ vội vã đến bà chủ nhà. Đến nhà, ông Hai nằm xuống giường, nhìn thấy các con, những đứa trẻ, họ vui đùa bên nhau. Nhìn chúng, ông thấy thương xót, nước mắt ông rơi dài... Chúng cũng là những đứa trẻ của làng Việt gian đấy phải không? Chúng cũng phải chịu sự xúi giục, hãm hại của người khác phải không? Thật bi kịch, ở tuổi đầu đời... ông nắm chặt hai tay lại và rít lên:
- Cả đám chỉ biết ăn mồi mà lại làm cái giống Việt gian bán nước nhục nhã thế này! Ông lão bỗng ngừng lại, như thấy lời mình nói có vẻ không đúng lắm.
Chẳng lẽ đám này ở làng lại đưa đẩy tới mức đó. Ông kiểm điểm từng người trong tâm trí. Không, họ đều là những người quyết tâm và can đảm. Họ đã ở lại làng, quyết tâm sống và chết cùng với giặc, không ai lại can đảm làm điều nhục nhã như vậy!… Nhưng sao lại có tin như vậy xuất hiện? Thằng chánh Bệu thì chắc chắn không sai. Không có lửa thì sao có khói? Ai có lý do để bịa đặt những chuyện đó. Ôi chao! Thật là nhục nhã, cả làng Việt gian! Rồi thì, làm sao họ có thể làm ăn, kinh doanh được? Ai dám tiếp cận họ? Ai dám làm ăn với họ? Trên khắp đất nước này, mọi người đều ghê tởm, hận thù cái giống Việt gian bán nước… Và còn bao nhiêu người trong làng, chia rẽ và tan tác, không biết họ đã hiểu được vấn đề này chưa?… Chiều hôm đó, bà Hai về nhà cũng có vẻ khác. Bà bước đi như có gì đó áp lực, khuôn mặt buồn rầu. Bà bước vào nhà và lặng lẽ ngồi xuống suy nghĩ. Trẻ con không dám đến gần. Trong nhà, sự im lặng làm mọi người cảm thấy khó chịu, không ai dám nói, thậm chí cả nhìn nhau cũng không dám. Đến khuya, bà Hai mới ngồi dậy. Bà bước vào bếp và bắt đầu tính toán tiền. Vẫn là những số tiền như thường lệ, tiền cơm, tiền bún, tiền đỗ, tiền kẹo… Vẫn là giọng nói rì rầm, như mọi ngày.
- Thầy này ạ.
Ông Hai nằm trên giường không đáp lại.
- Thầy này đang ngủ à?
- Gì vậy? Ông lão nhẹ nhàng nhích một chút:
- Tôi nghe đồn…
Ông lão lên tiếng quát:
- Tôi biết rồi!
Bà Hai im lặng. Khung nhà yên bình, chỉ có ánh đèn dầu le lói nhẹ trên khuôn mặt lo âu của bà lão. Tiếng thở của ba đứa trẻ gần nhau, êm đềm lắng nghe, như âm thanh của ngôi nhà.
- Tuy vậy, đồn người trên đây không chứa những kẻ từ chợ Dầu nữa thầy ạ.
Nghe lén một chút, không thấy chồng trả lời, bà lão lại cúi đầu tính toán. Bà lão im lặng, chịu đựng và kiên nhẫn. Trong nhà bác Thứ đã ngủ từ lâu, mọi thứ xung quanh im lặng… Tiếng chó sủa rợn người vang từ xa, và tiếng trẻ con khóc reo vang lên trong tiếng gió. Ông Hai vẫn thức trắng đêm không ngủ được. Ông vùng vẫy từ bên này sang bên kia, thở dài. Bất ngờ, ông lão im lặng hẳn, cơ thể mềm nhũn, dường như không thể di chuyển… Tiếng nói lạ lẫm từ phòng trên cất lên. Tiếng của mụ chủ… Mụ nói điều gì vậy? Mụ nói điều gì mà xôn xao thế? Trái tim ông lão đập mạnh. Ông lão nhỏ dần tiếng thở, lắng nghe ra bên ngoài… Bà Hai bất ngờ lên tiếng:
- Thầy nó ngủ chưa ạ? Dậy tôi muốn hỏi cái này.
Ông Hai giật mình, nâng đầu lên, chỉ vào nhà trên, ông nhăn mày lại và nghiến răng:
- Im đi! Khổ lắm! Nó nếu nghe thấy giờ cũng không hiểu được gì. Ông lão lại nằm xuống, không một chút vùng vẫy.
Ba bốn ngày nay, ông Hai không dám bước chân ra ngoài, thậm chí đến nhà bác Thứ cũng không dám. Suốt cả ngày, ông chỉ lẩn trốn trong căn nhà chật hẹp đó để nghe thăm. Nghe thăm để biết tình hình bên ngoài ra sao? Mỗi khi nghe thấy tiếng đám đông, tiếng cười vang xa, ông cũng thấy lo lắng. Luôn luôn nghĩ rằng họ đang nói về “sự việc ấy”.
Mỗi khi nghe thấy tiếng Tây, tiếng Việt gian, hoặc tiếng cam nhông, ông lẻn ra một góc nhỏ trong nhà, im lặng. Nhưng có một điều làm ông sợ hơn, đó là tiếng của mụ chủ nhà. Từ khi sự việc ấy xảy ra, có vẻ như mụ ta thích làm khổ ông và vợ ông. Mỗi khi ông về từ cánh đồng, mụ lại lục lọi dưới đất với cái nạo cỏ, rồi bước ra nói những lời nặng nề như dao đâm vào lòng ông. Mỗi khi mụ nói, ông chỉ cười giả tạo như không nghe thấy. Ông muốn im lặng, nhưng mụ chủ nhà không để ông yên. Sáng nay, khi bà Hai chuẩn bị ra cửa hàng, mụ chủ nhà vừa về, mụ đứng trước sân nói như chọc vào:
- Bà lão chưa đi chợ à? Muộn mấy rồi?…
- Chưa bà ạ. Mời bà vào nhà chơi đi ạ!
- Vâng bà để em xem hàng… À, bà Hai ơi!… Mụ chạy tới gần cửa, thân mật:
- Trên này họ đồn rằng làng dưới chúng ta đã có người đi theo Tây, ông bà đã biết chưa? Nghe nói, bảo có lệnh đuổi hết những người làng chợ Dầu khỏi khu vực này.
Mụ chủ nói nhẹ nhàng, giọng ngọt ngào:
- Em cứ lo quá… ông bà cũng là người làm ăn tử tế. Nhưng có lệnh thì phải làm sao. Có lẽ ông bà nên tìm chỗ khác ở. Ở lại với nhau đã vui vẻ, ông bà đi rồi lại nhớ đâu đấy…
Bà Hai cúi xuống, nước mắt lăn dài trên má, bà nói:
- Vâng… thôi thì dân làng không cho ở nữa, chúng tôi phải tìm nơi khác. Nhưng mong ông bà suy nghĩ lại cho vợ chồng chúng tôi thêm vài ba ngày. Bây giờ bảo đi, chúng tôi cũng không biết đi đâu…
Mụ chủ ra đi, bà Hai và cô bé lớn tràn đầy nước mắt, nín lặng mang hàng ra quán. Vợ chồng im lặng, không dám trao đổi. Ông Hai ngồi im lặng ở một góc giường, đầu óc ông bao trùm bởi những suy tư u ám. Nơi mà họ có thể đi bây giờ? Liệu họ sẽ bị kẻ khác chấp nhận?... Đời sống thật là khó khăn! Đất nước này cũng thế. Từ Đài, Nhã Nam, Bố Hạ, Cao Thượng… ở mọi nơi, người chợ Dầu đều bị trục xuất. Ngay cả khi chính sách của Cụ Hồ không còn trục xuất họ, họ cũng không còn nơi nào để đi. “Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây…” câu nói của một phụ nữ tản cư ngày hôm trước vẫn ám ảnh trong tâm trí ông. Quay lại làng?… Ông lão ngay lập tức phản đối. Quay về là làm gì? Họ đã theo Tây rồi. Quay về làng cũng là từ bỏ cuộc chiến. Bỏ Cụ Hồ… Nước mắt ông trào ra, quay về làng cũng là chấp nhận trở lại làm nô lệ cho kẻ Tây. Ông lão nghĩ đến những kẻ kỳ lý, những người đến và rời đi trong cái đình ấy. Và cái đình đó dường như thuộc về họ, nơi chứa đựng sự bức bách, đè nén. Mỗi ngày, họ ra vào, thảo luận vấn đề của làng. Những người yếu đuối như ông nếu đi qua cũng chỉ dám liếc nhìn, rồi lén bước đi. Ai đó nếu có một chút lỗi lạc, họ sẽ tìm cách hại, tước đoạt ruộng đất, trục xuất, hay thậm chí đuổi ra khỏi làng…
Ông Hai rùng mình. Tất cả những suy tư tối tăm, những nỗi buồn trước đây lại hiện lên trong tâm trí ông. Ông không thể quay về làng nữa. Điều đó có nghĩa là họ sẽ chịu mất tất cả? Không thể chấp nhận được! Ông ôm con út lên, vỗ nhẹ lưng nó, nhẹ nhàng hỏi:
- Có nghe không! Thầy hỏi con, con là ai?
- Con là con của thầy ạ.
- Vậy nhà của con ở đâu?
- Nhà chúng ta nằm ở làng chợ Dầu.
- Con có muốn quay về làng chợ Dầu không? Thằng bé nhỏ khuỵu đầu vào ngực của bố và trả lời nhẹ nhàng:
- Có ạ. Ông lão ôm chặt thằng bé vào lòng, sau một lúc, ông lại hỏi:
- À, thầy muốn hỏi con đấy. Con ủng hộ ai? Thằng bé giơ cao tay lên, tự tin và quyết định:
- Con ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh mãi mãi! Nước mắt ông lão trào ra, lăn dài trên hai má. Ông nói nhỏ:
- Đúng vậy, chúng ta ủng hộ Cụ Hồ đấy con nhỉ. Những ngày gần đây, khi buồn khổ quá không biết tâm sự với ai, ông lão lại thầm thì với con như vậy. Ông nói như muốn làm sạch lòng mình, như muốn cho mình được minh oan hơn. Anh em đồng chí hiểu lòng của bố con ông. Cụ Hồ ở trên cao luôn xét đoán cho bố con ông. Trái tim của bố con ông luôn như thế, không bao giờ dám làm điều ác. Dù chết cũng không bao giờ dám làm điều ác. Mỗi khi nói ra được vài câu như thế, nỗi khổ trong lòng ông cũng nhẹ đi một phần.
Khoảng ba giờ chiều hôm ấy, có một người đàn ông đến thăm nhà ông Hai. Hắn cũng là người chợ Dầu. Hai người ngồi lặng thinh ở góc nhà một lúc, sau đó ông Hai đổi áo sạch và đi theo hắn. Ông vội vã quên cả việc nói cho trẻ nhỏ biết. Ông Hai đi mãi đến khi tối mới về. Gương mặt buồn tẻ mỗi ngày bỗng trở nên rạng rỡ, tươi vui. Hắn nhai trầu, đôi mắt đỏ hoe, hút thuốc... Ngay khi về đến ngõ, ông lão gọi lên:
- Các con ở đâu rồi? Ra đây để thầy chia quà. Trẻ con trong nhà nhanh chóng ra, ông lão nhanh chóng rút ra một gói bọc lá chuối khô cho cậu bé lớn:
- Đây là bánh rán đường, mỗi em một cái. Khi nói xong, ông lão lập tức đi thẳng sang nhà bác Thứ. Ngay khi đến cửa, ông lão lên tiếng:
- Bác Thứ ở đâu? Bác Thứ đang làm gì đấy! Nhà tôi bị Tây đốt cháy rồi bác ạ. Bị đốt sạch! Ông chủ tịch làng mới cải chính, ông ấy cho biết… Cải chính cái tin làng chợ Dầu của chúng tôi là Việt gian đấy. Nói dối! Toàn là những lời nói sai, mục đích không đúng.
Bác Thứ chưa nghe được hết câu chuyện, ông lão đã vội vã leo lên nhà trên.
- Nhà tôi bị Tây đốt cháy rồi ông chủ ạ. Đốt sạch. Ông chủ tịch làng mới cải chính… Cải chính cái tin làng chợ Dầu chúng tôi là Việt gian đấy. Lào! Lào hết, không có gì chính xác cả. Toàn là mục đích sai lầm!
Chỉ nói được vậy, ông lão lại vội vã rời đi nơi khác. Phải kể cho mọi người nghe mới được. Ông lão vẫy tay mà chia sẻ thông tin với mọi người. Mọi người đều mừng cho ông lão. Thậm chí mụ chủ nhà, người mà ông lão từng lo lắng, khi nghe tin này mặt mụ cũng không cảm thấy tức giận, ngược lại, mụ lại rất vui vẻ. Mụ mở to cả hai mắt và reo lên:
- A, vậy à! Tớ cứ nghĩ là dưới nhà có Việt gian thật, tớ ghét lắm… Nhưng thôi, giờ thì ông bà lại ở tự do, không ai cấm cản. Ăn nhiều chẳng kém gì ở lại. Mụ cười tươi:
- Rồi cũng phải nuôi lợn mà… mà ăn mừng thế! Ông Hai gật đầu:
- Được, được, lần này phải nuôi lợn…
Buổi tối đó, ông Hai lại ghé qua nhà bác Thứ, ngồi trên chiếc ghế tre và bắt đầu kể về cuộc sống ở làng của mình. Ông tái hiện lại ngày Tây đến tấn công, số lượng và hành động của chúng, cũng như cách mà dân quân, lực lượng tự vệ trong làng ông tổ chức phản kích; mọi chi tiết được ông kể như một nhà chiến lược quân sự vừa tham gia trận đánh vậy…
I. Giới thiệu về tác giả Kim Lân
- Kim Lân (1920 - 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài.
- Sinh ra và lớn lên tại huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Ông là một nhà văn tài ba, chuyên sáng tác truyện ngắn và đã có những tác phẩm xuất sắc trước cách mạng.
- Với tình yêu và gắn bó với cuộc sống nông thôn, ông tập trung viết về cuộc sống hàng ngày và hoàn cảnh của người dân làng quê.
- Ngoài việc viết sách, Kim Lân còn là một diễn viên nổi tiếng, từng tham gia vào nhiều vở kịch nổi tiếng như Làng Vũ Đại, Chị Dậu…
- Năm 2001, ông được vinh danh với Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
- Một số tác phẩm nổi bật của ông bao gồm: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962)...
II. Giới thiệu về tác phẩm ngắn Làng
1. Bối cảnh sáng tạo
- Tác phẩm 'Làng' được sáng tác vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
- Được xuất bản lần đầu trên tạp chí Văn nghệ vào năm 1948.
2. Kết cấu
Gồm ba phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “Ông lão đành phải dùi dắng chờ vậy”. Cuộc sống của ông Hai ở nơi tản cư.
- Phần 2: Tiếp theo đến “Mỗi lần nói ra được vài câu như vậy nỗi khổ trong lòng ông cũng vơi đi được vài phần”. Diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc.
- Phần 3. Còn lại. Niềm vui sướng của ông khi nghe tin cải chính.
3. Tóm tắt
Mẫu 1
Ông Hai là một người nông dân rất yêu và tự hào về làng chợ Dầu của mình. Do chiến tranh, gia đình ông phải di tản. Một ngày, ông nghe tin làng chợ Dầu theo Tây, tin đó khiến ông bàng hoàng và xót xa. Sau khi trò chuyện với con trai út, ông quyết định thù giặc. Khi nghe tin cải chính, ông rất sung sướng và khoe với mọi người.
Mẫu 2
Trong truyện, nhân vật chính là ông Hai, người luôn tự hào và yêu quý làng quê của mình. Gia đình ông phải di tản do chiến tranh, nhưng ông vẫn nhớ mãi về quê hương. Một ngày, ông nghe tin làng quê theo giặc, điều này khiến ông cảm thấy buồn bã và đau lòng. Khi về nhà, ông cảm thấy bế tắc và không biết phải làm sao. Ông thậm chí còn trò chuyện với con trai út. Cuối cùng, ông quyết định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Khi nghe tin làng không theo giặc, ông rất vui mừng và khoe với mọi người.
4. Ý nghĩa nhan đề
Mẫu 1
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Trong tác phẩm “Làng”, nhà văn muốn gửi gắm nhiều ý nghĩa sâu sắc. “Làng” không chỉ là một đơn vị hành chính nhỏ nhất, mà còn là biểu tượng cho tình yêu nước và đoàn kết dân tộc. Làng Chợ Dầu, nơi ông Hai sống, từng có tinh thần yêu nước, nhưng khi nghe tin làng theo giặc, ông cảm thấy đau lòng và quyết định thù giặc. Tác giả nhấn mạnh về tình yêu nước vượt trội hơn tình yêu cá nhân, đồng thời khẳng định sự đoàn kết của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến.
Mẫu 2
- “Làng” là một từ chỉ đơn vị hành chính nhỏ nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, Kim Lân không đặt tên cho tác phẩm của mình là “Làng Chợ Dầu” mà chỉ là “Làng”, giúp nhan đề trở nên tổng quát hơn.
- Nhà văn không chỉ nói về một làng cụ thể. “Làng” là biểu tượng cho sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu giành độc lập. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước của người nông dân Việt Nam thời kỳ đó.
=> Dù nhan đề ngắn gọn, nhưng vẫn phản ánh được tư tưởng sâu sắc của tác giả.
5. Tình huống truyện
Trong truyện ngắn Làng, tình huống mà nhân vật ông Hai đối mặt khi nghe tin làng chợ Dầu - nơi quê hương mà ông yêu mến và tự hào đã theo giặc, đã thể hiện sâu sắc tình yêu làng quê và lòng yêu nước.
6. Nội dung
Tình yêu đối với làng quê và lòng yêu nước, cùng với tinh thần kháng chiến của người nông dân khi phải rời làng đi tản cư, được miêu tả chân thực, sâu sắc và cảm động ở nhân vật ông Hai trong truyện Làng.
7. Nghệ thuật
Tác giả đã thành công trong việc xây dựng tình huống truyện, miêu tả tâm lí và ngôn ngữ của nhân vật.
8. Mở đầu và kết luận
a. Mở đầu
- Phần mở đầu phân tích: Tình yêu đối với quê hương, đất nước là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học. Trong số đó, truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân là một điển hình.
- Phần mở đầu cảm nhận: Kim Lân, một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, đã để lại ấn tượng sâu sắc về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm tiêu biểu của ông là Làng.
b. Kết luận
- Tổng kết phân tích: Tình yêu đối với làng quê và lòng yêu nước, cùng với tinh thần kháng chiến của người nông dân khi phải rời làng đi tản cư, đã được Kim Lân thể hiện một cách chân thực và sâu sắc trong truyện ngắn Làng.
- Tổng kết cảm nhận: Truyện ngắn Làng thể hiện rõ phong cách sáng tạo của Kim Lân. Tôi rất cảm phục và trân trọng tinh thần yêu làng, yêu nước cùng tinh thần kháng chiến của người nông dân khi họ phải rời xa làng quê để tìm nơi ẩn náu.
III. Bố cục phân tích Làng
(1) Mở bài
Giới thiệu về nhà văn Kim Lân và tác phẩm truyện ngắn Làng.
(2) Phần chính
a. Cuộc sống của ông Hai khi tản cư
- Ông Hai luôn khao khát quê hương, nhớ về những ngày tháng lao động bên cạnh bà con.
- Tự hào về làng quê: giàu có và xinh đẹp, với những con đường lát đá xanh, những ngôi nhà ngói san sát nhau như tỉnh, và không khí cách mạng sôi động, với chòi phát thanh cao vút lên từ những cây tre.
- Thăm phòng tin tức: đọc báo, lắng nghe những tin tức về cuộc kháng chiến.
- Khi nghe tin về chiến thắng của dân ta, “trái tim ông Hai như đang nhảy múa sung sướng” .
=> Tình yêu sâu đậm của ông Hai dành cho quê hương, đất nước và đặc biệt là làng của mình.
b. Biến động tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng bị đưa vào phe giặc
* Nghe tin làng chợ Dầu theo phe giặc lúc đầu:
- Ông trở nên bàng hoàng, xấu hổ và tức giận: “trái tim ông như bị nghẹn lại, khuôn mặt ông tái nhợt. Ông lặng lẽ rời khỏi, hơi thở trở nên gấp gáp như không thể hít thở”.
- Nghe tin làng chợ Dầu bị đưa vào phe giặc như một cú sốc tinh thần đối với ông, nhưng sau khi bình tĩnh lại, ông tỏ ra nghi ngờ, không tin: “Sau một thời gian dài, ông mới lắc đầu, nuốt nước bọt, và cất tiếng hỏi, giọng run run: Liệu có thể không bác?...”
- Các người tản cư đã kể rất tự tin, khẳng định rằng họ “thấy mọi thứ ở dưới đó” khiến ông không thể không tin.
- Từ đó, ông chỉ suy nghĩ về tin tức đen tối đó. Nghe tiếng chỉ trích bọn Việt gian, ông “nhẹ nhàng quay lưng đi”.
* Khi trở về nhà
- Ông Hai nằm gục trên giường, nhìn đám con mắt đầy xót xa, nước mắt tràn ra. Tất cả những niềm tự hào về làng đều tan vỡ.
- Ông tự hỏi và đau lòng cho số phận của con cái mình: “Chúng nó cũng là trẻ con của làng, có phải không? Chúng nó cũng bị người ta coi thường, khinh bỉ sao?”
- Ông bóp chặt tay, rên lên: “Chúng bay đi… mà đau lòng thế này?”.
=> Ông Hai cảm thấy như chính bản thân mình đang chịu đựng nỗi nhục của kẻ phản quốc, và rằng, các con ông cũng sẽ phải chịu nỗi nhục ấy.
* Trong những ngày tiếp theo:
- Suốt vài ngày liền, ông không dám rời khỏi nhà.
- Ông chỉ ở nhà, nghe tin tức bên ngoài: “Một đám đông tụ lại, ông cũng chú ý, tiếng cười rộn rã, ông cảm thấy lạ lùng. Luôn nghĩ người ta đang bàn về 'cái việc ấy'.”
- Nghe tiếng “Tây, Việt gian, cam - nhông…”, ông lén lút lui vào nhà, im lặng. “Lại là chuyện ấy rồi!”
- Khi nghĩ về tương lai, ông hoang mang, không biết đi đâu: Về làng thì không thể, vì làng lúc này liên quan đến việc theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại cũng không được, vì chủ nhà đã đe dọa đuổi. Còn rời đi thì không biết nơi nào, vì chưa ai chấp nhận dân làng Chợ Dầu đã phản bội.
=> Ông phải đối mặt với sự lựa chọn giữa tình yêu làng và tình yêu nước.
- Ông hai đã trò chuyện với con trai út, và quyết định: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”.
=> Tình yêu nước sâu đậm của người Việt, họ sẵn lòng bỏ qua tình cảm cá nhân để hướng đến tình yêu chung của cộng đồng.
c. Niềm hạnh phúc của ông khi nghe tin cải chính
Thái độ thay đổi hoàn toàn:
- “Gương mặt u ám hàng ngày bỗng rạng rỡ, tươi vui hơn bao giờ hết”
- “Nhai trầu với vẻ mặt phấn khích, đôi mắt sáng ngời, rực rỡ”…
- Sau khi về nhà, ông chia quà cho các con rồi tới nhà bác Thứ để làm sáng tỏ lại thông tin về làng chợ Dầu theo giặc.
- “bô bô” khoe với mọi người về thông tin đã được sửa đổi, nhà ông không bị “đốt nhẵn” nữa
=> Sự hân hoan của ông Hai khi nghe tin cải chính về làng chợ Dầu đã vượt qua sự mất mát về tài sản khi làng bị giặc hủy hoại. Từ đó, nhà văn Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tình yêu quê hương, đất nước của người nông dân.
(3) Kết bài
Xác nhận giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Làng.