“Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Tô Hoài, được nghiên cứu trong chương trình học Ngữ văn.
Mytour cung cấp thông tin hữu ích về nhà văn Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Học sinh có thể tham khảo nội dung chi tiết dưới đây.
Cặp đôi A Phủ
Nghe đọc câu chuyện A Phủ và vợ chồng:
Ai đến từ xa, khi vào nhà thống lí Pá Tra thường nhìn thấy một cô gái ngồi quay sợi gai trước cửa, bên cạnh xe ngựa. Dù làm gì, quay sợi, làm cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, hay mang nước từ khe suối lên, cô ấy đều nhìn xuống đất, mặt buồn rười rượi. Mọi người thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, hàng đồng làng bán cho đồn Tây, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Vậy mà cô gái vẫn phải chịu khổ và buồn. Nhưng chỉ khi hỏi thì mới biết cô không phải con gái nhà Pá Tra mà là vợ của A Sử, con trai thống lí Pá Tra.
Cô Mị đến làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Cô không nhớ từ khi nào, cũng không ai nhớ. Những người nghèo ở Hồng Ngài vẫn còn kể câu chuyện Mị làm dâu nhà quan thống lí. Lúc xưa, bố Mị lấy mẹ Mị không đủ tiền cưới, phải vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra hiện tại. Mỗi năm phải trả lãi cho chủ nợ một nương ngô. Đến khi hai vợ chồng già rồi mà vẫn chưa trả hết nợ. Người vợ qua đời nhưng nợ vẫn chưa trả hết.
Khi Mị lớn lên, cô là con gái đầu lòng. Thống lí Pá Tra đến nói với bố Mị:
- Nếu đồng ý cho con gái này làm dâu, tôi sẽ thanh toán nợ cho bạn.
Ông lão suy nghĩ rằng mỗi năm phải trả một nương ngô là một gánh nặng, nhưng ông cũng yêu thương con quá. Ông chưa kịp nói gì thì Mị nói với ông:
- Con biết cách làm nương ngô, con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu.
Vào dịp Tết, mọi người vui chơi, trẻ em đánh pao, đánh quay và cả đêm đi chơi. Những gia đình có con gái thì cha mẹ không ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, trai trẻ đến nhà người yêu, đứng ngoài thổi sáo bên tường. Một đêm, Mị nghe thấy tiếng gõ bên tường, tiếng hẹn hò của người yêu. Mị cảm thấy hồi hộp và nhấc tay lên thì chạm vào hai ngón tay lách vào khe gỗ, một ngón có đeo nhẫn. Người yêu Mị thường đeo nhẫn ấy. Mị mở cửa và bước ra. Đột nhiên có mấy người lao đến, bịt miệng Mị và cõng Mị đi.
Sáng hôm sau, Mị nhận ra mình đang ở trong nhà thống lí Pá Tra. Họ đưa Mị vào buồng và ngoài cửa, tiếng nhạc cúng ma đương rập rờn.
Trong khi đó, A Sử đến thăm nhà bố Mị và nói:
- Tôi đã lấy được con gái của bố làm vợ, đã đưa về cúng trình tổ tiên tôi rồi, giờ tôi đến để báo tin cho bố. Tiền cưới bố đã nhận hết từ tôi rồi.
Sau đó, A Sử rời đi. Ông lão nhớ ngay lời hứa của thống lí Pá Tra trước đây: nếu đưa con gái về nhà thống lí Pá Tra thì được miễn nợ. Thật khó khăn! Cha mẹ đã trao đi bạc của nhà giàu từ trước, giờ lại phải bán con để trả nợ. Không còn cách nào khác!
Sau vài tháng, Mị luôn khóc mỗi đêm. Một ngày, Mị quyết định trốn về nhà, đôi mắt vẫn đỏ như lửa. Khi thấy bố, Mị quỳ gối, úp mặt xuống đất, nức nở. Bố Mị cũng khóc, hiểu được tâm trạng của con gái:
- Con quay về để chào tạm biệt tao à? Dù con chết, nợ tao vẫn còn, quan lại bắt tao trả nợ. Con chết thì không ai thay thế để giảm nợ, tao thì yếu đuối lắm rồi. Không được, con ạ!
Mị chỉ biết khóc mỗi đêm. Mị ném lá ngón xuống đất, đó là lá ngón Mị đã hái trong rừng và giấu trong áo. Mị không thể tự làm tử vong. Mị trở về nhà thống lí.
Một lần sau, mấy năm sau đó, bố Mị qua đời. Nhưng Mị không còn nghĩ đến việc tự tử nữa. Mị đã quen với khổ đau. Giờ đây, Mị chỉ như con trâu, con ngựa, phải đổi từ nhà này sang nhà khác làm việc. Mị chỉ biết làm việc, không nghĩ đến gì khác, chỉ nhớ lại những công việc hàng ngày, hàng tháng, hàng năm. Đó là cuộc sống của Mị, không thay đổi, như con ngựa, con trâu cứ làm công việc của mình. Mị không nghĩ nhiều, chỉ nhớ việc làm của mình, suốt đời.
Mỗi ngày, Mị im lặng như con rùa trong xó, nhà Mị như buồng kín mít, chỉ có một lỗ nhỏ như lòng bàn tay nhìn ra ngoài. Mị nghĩ rằng, chỉ cần nhìn ra lỗ nhỏ ấy, đến khi chết thì thôi.
Ở núi, lúa ngô, lúa gạo đã được gặt xong và xếp vào kho. Trẻ em chơi đùa, đã đốt những lều cỏ để sưởi lửa. Trong làng, người ta tổ chức Tết sau khi gặt xong, không cần quan tâm ngày tháng. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết trong lúc gió rét dữ dội.
Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa được phơi trên mỏm đá. Trẻ em chơi đùa, nghe tiếng sáo từ xa mời gọi. Mị nghe tiếng sáo và cảm thấy ngọt ngào. Mị ngồi nghe bài hát của người thổi sáo.
Mày đã có con trai hoặc con gái rồi
Mày làm công việc của người nương nơi nhà
Ta không có con trai hoặc con gái
Ta đang tìm kiếm tình yêu
Tiếng chó sủa vang xa. Những đêm mùa xuân đã đến.
Ở đầu mỗi làng có sân chơi chung ngày Tết. Trai gái, trẻ em tụ tập đến đó để chơi đùa, đánh pao, thổi sáo, và nhảy múa.
Cả gia đình thống lí Pá Tra vừa kết thúc bữa cơm Tết và lễ cúng ma. Các chiêng vang lên, người ốp đồng nhảy múa trong sự háo hức. Sau bữa ăn là bữa rượu ấm nồng ở bếp lửa.
Ngày Tết, Mị cũng thưởng thức rượu. Mị lấy lén hũ rượu, uống ầm ầm từng chén. Mị say mê, nhìn mọi người đồng múa, hát hò, nhưng lòng Mị vẫn hướng về quá khứ. Tai Mị nghe tiếng sáo từ xa gọi bạn. Một thời Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu và thổi sáo. Mị biến tấu chiếc lá như thổi sáo, thu hút nhiều người hâm mộ ngày đêm.
Rượu đã hết từ lâu. Mọi người về hết, chỉ còn mình Mị ngồi một mình giữa nhà. Sau đó, Mị đứng dậy và bước vào buồng một cách chậm rãi. Mị không bao giờ được đi chơi Tết cùng A Sử, nhưng Mị cũng không buồn. Mị nhìn ra cửa sổ, trăng sáng. Trong lòng Mị, vui sướng như những đêm Tết trước. Mặc dù đã có chồng, nhiều người vẫn đi chơi ngày Tết. Mị muốn đi, nhưng A Sử và Mị không hợp nhau mà vẫn phải sống chung. Nếu có nắm lá ngón bây giờ, Mị sẽ tự làm kết thúc, không còn phải nhớ đau nữa. Nhớ lại chỉ khiến nước mắt rơi. Tiếng sáo vẫn râm ran, nhưng không ai lắng nghe.
Anh ném pao, em không nắm
Em không yêu, quả pao rơi rồi...
Khi đó, A Sử vừa về nhà và sắm sửa chuẩn bị đi chơi. Nó mới đổi áo mới, đeo thêm hai vòng bạc vào cổ và đội một chiếc khăn trắng. Có lẽ nó đi mấy ngày. Nó vẫn muốn tìm kiếm người vợ mới. Mị không nói gì.
Bây giờ Mị đứng ở góc nhà, làm sáng đèn bằng ống mỡ. Trong đầu Mị vẫn vang lên tiếng sáo. Mị muốn đi chơi và sắp đi. Mị chuẩn bị, quấn tóc và lấy váy hoa từ trong vách. Lúc A Sử chuẩn bị ra ngoài, nó quay lại nhìn Mị. Nó hỏi:
- Mày muốn đi chơi à?
Mị không nói. A Sử cũng không nói thêm. Nó trói tay Mị, rồi đem Mị đứng vào cột nhà. Tóc Mị bị quấn lên cột, không thể cúi đầu. A Sử tắt đèn, khóa cửa buồng lại.
Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, nghe tiếng sáo rơi vào trạng thái mơ màng. Tay chân đau đớn, Mị không cảm nhận tiếng sáo nữa, chỉ còn nghe tiếng ngựa gãi chân. Mị cảm thấy không bằng con ngựa.
Chó sủa từ xa. Mị nín khóc, cảm thấy hoang mang.
Mị bị trói cả đêm. Cảm nhận đau đớn và nỗi nhớ nhung. Hơi rượu vẫn còn đọng. Mị tỉnh mê, đến khi bình minh.
Buổi sáng, Mị tỉnh giấc trong bóng tối. Mọi thứ im lặng. Mị không biết những người khác cũng bị trói như Mị hay không. Mị nhớ lại câu chuyện về việc trói vợ trong nhà mà khi trở về thì vợ đã chết. Mị sợ hãi và đau đớn.
Có sự ồn ào bên ngoài, rồi một đám người vào nhà. Thống lí Pá Tra xuống ngựa, dắt ngựa vào tàu. Nghe như có người mang theo con lợn hoặc một người bị trói. A Sử rơi vào buồng, mặc áo rách và cái khăn đầy máu. A Sử nằm trên giường. Thống lí Pá Tra và đám thống quán cùng đến. Mị bị trói đứng nhưng không ai để ý, họ tập trung quanh giường A Sử.
A Sử vào buồng, mặc áo rách và cái khăn đầy máu. A Sử nằm trên giường. Thống lí Pá Tra và đám thống quán cùng đến. Mị bị trói đứng nhưng không ai để ý, họ tập trung quanh giường A Sử.
Chị dâu đến cởi trói cho Mị và bảo Mị đi hái thuốc cho chồng.
Mị quên cả đau, đứng lên. Nhưng không nhích chân lên được, Mị phải ôm vai chị dâu. Trong khi đi tìm lá thuốc, Mị nghe chị dâu kể chuyện A Sử bị đánh vỡ đầu.
A Sử và đám bạn tìm đến đám chơi có tiếng sáo và tiếng khèn. Nhiều người đã tới, chơi suốt ngày, chập tối vẫn còn chưa tan về. Lúc đến nhà, bọn A Sử bị vướng không vào được và gây ồn ào. Thế là tan đám chơi.
Bọn A Sử không ngừng gây rối. Sáng sớm, họ kéo ra đầu ngõ, bè lũ bạn A Sử đã tới. A Sử nạm vòng bạc ở cổ, hùng hổ bước ra. Bọn kia xôn xao bàn luận:
- Đám phá đám của chúng ta đêm qua đây rồi.
- A Phủ ở đâu? Đánh chết hắn đi!
Một người to lớn ném con quay vào mặt A Sử. A Phủ đến, nắm vòng cổ, đánh tới tấp. Người làng hò hét. Bọn trai lạ tản lên rừng. A Phủ bị bắt, trói và đưa về ném giữa nhà thống lí.
Mị đi hái lá thuốc, thấy nhà đông hơn. Ngoài sân, buộc thêm mấy con ngựa lạ. Mị nhìn thấy một người to lớn quỳ trong góc nhà và đoán đấy là A Phủ.
Các chức việc từ vùng Hồng Ngài đổ về nhà thống lí Pá Tra dự đám xử kiện. Các quan lãnh đạo, thống quán, đeo mũ và khăn, cầm gậy cưỡi ngựa đến tham gia và ăn uống.
Trong nhà thống lí có năm cái bàn đèn. Khói thuốc phiện bốc lên từ cửa sổ như khói lò nấu. Cả bọn chức việc của làng A Phủ cũng tới, nhưng chỉ bọn trai làng bị gọi sang hầu kiện còn bọn quan thì nằm dài cạnh khay đèn. Suốt từ trưa tới hết đêm, mọi người hút thuốc. Thống lí Pá Tra hút năm điếu rồi đưa cho người khác, và tiếp tục như vậy cho tới khi bọn đi dự kiện đến. Đàn bà chỉ dòm ngó đám xử kiện và A Phủ quỳ chịu tội ở góc nhà không được tham gia buổi hút thuốc. Khi mọi người hút xong, Pá Tra đứng dậy gọi:
- A Phủ lên đây.
A Phủ đứng quỳ giữa nhà. Bọn trai làng xô đến, lạy thống lí Pá Tra rồi đánh A Phủ. A Phủ chịu đòn im như đá.
Mỗi lần mọi người hút thuốc xong, A Phủ lại ra quỳ giữa nhà và bị đánh. Mặt A Phủ sưng lên, máu chảy. Mọi người đánh, lạy, kể, chửi. Rồi lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt trong nhà. Pá Tra tiếp tục gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.
Trong buồng bên cạnh, Mị thức suốt đêm im lặng, ngồi xoa thuốc dấu cho chồng. Khi mệt mỏi, cô lại cựa mình, những nơi trói lại trong người đau ê ẩm. Mị gục đầu nằm khi mệt mỏi, lúc đó, A Sử đạp chân vào mặt Mị. Mị tỉnh giấc, lại xoa đều lá thuốc trên lưng chồng. Ngoài nhà, tiếng người rên lên từng cơn kéo thuốc phiện, như mọt gỗ nghiến kéo dài, giữa tiếng người khóc, tiếng người kể chuyện, và tiếng đấm đánh huỳnh huỵch.
Sáng hôm sau, đám kiện đã xong. Một số người đã ngủ ngon ngay bên khay đèn từ lúc nào không hay. Bọn quan đang nấu lạng thuốc để hút thêm ban ngày cho tỉnh táo, và bọn chúng tổ chức một bữa ăn cỗ nữa cho các quan làng.
Thống lí Pá Tra mở tráp, bày ra một trăm đồng bạc hoa xoè, sau đó nói:
- A Phủ đánh người làng, làng sẽ phải nộp vạ cho người bị đánh là hai mươi đồng, nộp cho thống quán năm đồng, mỗi quan làng hai đồng, và mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện phải nộp năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua tới nay. Ngoài ra, mày phải mất con lợn hai mươi cân, và chốc nữa mày phải mổ để các quan làng ăn vạ mày. A Phủ, mày đánh con quan làng, xứng đáng bị làng trừng trị tới chết, nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm đồng bạc. Nếu mày không có đủ, tao sẽ cho mày vay và mày ở nợ. Khi có tiền giả, tao sẽ trả mày về, chưa có tiền giả, mày sẽ phải làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Mày và đời con cháu mày đều phải như thế, đến khi nào hết nợ tao mới tha mày. A Phủ! Lên đây nhận tiền quan cho mày vay.
A Phủ lê hai đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương và khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ. Sau khi khấn xong, A Phủ nhặt đồng bạc, nhưng lại đặt chúng xuống mặt tráp. Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.
Con lợn mới mua cho A Sử để làng ăn vạ đang kêu nhưng bên ngoài sân. A Phủ cầm dao, đứng tập tễnh bước ra chế biến thịt lợn. Trong nhà, thuốc phiện vẫn được sử dụng nhiều.
Sau vụ việc đó, A Phủ phải đi làm để trả nợ cho thống lí Pá Tra. A Phủ làm rất nhiều công việc như đốt rừng, cày cấy, săn bắn, chăn nuôi quanh năm. Dù A Phủ đã trưởng thành và mạnh mẽ, nhưng không muốn quay lại làng nơi A Phủ đã từng sống.
A Phủ không phải là người của làng nơi sinh ra. A Phủ đến từ làng Háng-bla và lưu lạc đến Hồng Ngài. A Phủ có khả năng làm việc nông nghiệp và săn bắn rất giỏi. Tuy nhiên, A Phủ không có gia đình, ruộng đất hay tiền bạc nên không thể lấy vợ. Mặc dù có nhiều người khác nói về A Phủ nhưng A Phủ vẫn tiếp tục sống một cuộc đời đơn độc.
Do đó, đã xảy ra xô xát ở Hồng Ngài.
(Kéo dài một đoạn: A Phủ bị bắt trói vì để hổ bắt mất một con bò trong lúc trông coi bò ngựa. A Phủ bị trói và đứng chờ bắn hổ nhưng vẫn không được. )
Các đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có lửa sưởi kia, Mị cũng đã chết héo. Mỗi đêm, Mị phải thức dậy thổi lửa nhiều lần để giữ ấm.
Mỗi sáng, khi gà gáy, Mị dậy và thổi lửa cho gia đình. Ngọn lửa sáng lên, A Phủ cũng mở mắt và nhìn sang. Mặc cho những lời đánh A Phủ của A Sử, Mị vẫn tiếp tục thổi lửa mỗi đêm.
Vào một đêm khuya, Mị thấy A Phủ cũng mở mắt với nước mắt lấp lánh. Mị nhớ lại lần bị trói đứng và cảm thấy sự tàn ác của người làng. Trong tình hình này, Mị không còn sợ hãi nữa.
Mặc cho đám than đã vạc hẳn lửa, Mị không đứng lên. Mị nghĩ về việc A Phủ có thể trốn thoát và việc bị trói lại. Mặc cho tình cảnh khó khăn, Mị không sợ hãi.
Vào lúc đêm đã tối, Mị rón rén đến gỡ dây trói cho A Phủ. Mặc cho A Phủ vẫn không tỉnh, Mị cảm thấy A Phủ hiểu có người bên cạnh và cố gắng chạy trốn.
Mị đứng im bóng tối.
Sau đó, Mị nhanh chóng chạy ra. Dù đêm tối đen đến đâu, Mị vẫn chạy tiếp. Mị đuổi theo A Phủ, lăn, chạy, cho đến khi đến lưng dốc, Mị hít thở trong gió lạnh và nói:
- Đưa tôi đi cùng, A Phủ.
Trước khi A Phủ kịp trả lời, Mị tiếp tục nói:
- Nếu ở đây, chúng ta sẽ chết.
Bỗng dưng A Phủ hiểu ra điều gì đó.
Người phụ nữ đã chê chồng vừa cứu sống mình.
A Phủ bảo: “Theo tôi đi”. Và hai người im lặng giúp đỡ nhau chạy xuống dốc núi.
(Tóm lại: Hai người kết hôn và lánh nạn sang Phiềng Sa. Quân Pháp tiến tới, dân Phiềng Sa hoảng sợ. A Châu, một cán bộ Đảng, đã đến giúp đỡ. A Phủ và A Châu trở thành anh em tâm giao. Sau đó, A Phủ làm trưởng đội du kích, cùng Mị và đồng đội bảo vệ tổ quốc.)
Năm 1953
I. Một vài nét về Tô Hoài
- Tô Hoài, tên thật Nguyễn Sen.
- Ông sinh ra ở quê hương là thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ. Nhưng ông lớn lên ở quê ngoại, làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (hiện thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).
- Ông có kiến thức sâu rộng về phong tục, tập quán của nhiều vùng miền tại Việt Nam.
- Tác phẩm của ông thường tập trung vào việc miêu tả cuộc sống hàng ngày.
- Tác phẩm của ông bao gồm nhiều thể loại như truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, và tiểu luận...
- Năm 1996, Tô Hoài đã được vinh danh bằng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
- Dưới đây là một số tác phẩm tiêu biểu của ông:
- Dế Mèn phiêu lưu ký (truyện dài, 1941)
- O chuột (tập truyện ngắn, 1942)
- Cỏ dại (hồi ký, 1944)
- Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953)
- Tự truyện (1978)
- Quê nhà (tiểu thuyết, 1981)
- Cát bụi chân ai (hồi ký, 1992)
- Chiều chiều (tiểu thuyết, 1999)
- Chuyện cũ Hà Nội (ký sự, 2010)...
II. Giới thiệu về truyện ngắn Vợ chồng A Phủ
1. Xuất xứ
“Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm nổi bật nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” (1953) của Tô Hoài.
2. Hoàn cảnh khi sáng tác
Năm 1952, Tô Hoài tham gia cùng bộ đội vào chiến trường Tây Bắc. Trong chuyến đi kéo dài tám tháng, ông đã chia sẻ cuộc sống và lao động cùng với những người dân tộc thiểu số, từ khu căn cứ du kích trên đỉnh núi cao đến các bản làng mới giải phóng. Chuyến đi này đã giúp ông hiểu sâu hơn về cuộc sống và con người ở miền núi. “Vợ chồng A Phủ” là kết quả của hành trình thực tế đó.
3. Bố cục
Phân chia thành 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “Đến bao giờ chết thì thôi”. Tình hình sống của Mị.
- Phần 2: Tiếp tục đến “Vì thế mà sinh sự đánh nhau ở Hồng Ngài”. Sự nghiệp của A Phủ.
- Phần 3: Các phần còn lại. Cuộc gặp gỡ và sự giải thoát tự nhiên của Mị và A Phủ.
4. Ý nghĩa của tiêu đề
Mẫu 1
- Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được đăng trong tập Truyện Tây Bắc (1953). Trải qua những ngày tháng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc” với cán bộ và người dân miền núi Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài đã tìm thấy nguồn cảm hứng để sáng tác.
- Tác phẩm của Tô Hoài mang tựa đề “Vợ chồng A Phủ”, một tựa đề ngắn gọn nhưng rất ý nghĩa, chỉ ra hai nhân vật chính là A Phủ và Mị.
- Mối quan hệ “vợ chồng” giữa A Phủ và Mị thể hiện một sự gắn kết đặc biệt, dù ban đầu họ là hai người xa lạ nhưng do tình cảm và mối nợ với nhà thống lí Pá Trá, họ đã gặp nhau và trở thành vợ chồng. Cuộc đời của họ từ bóng tối đã được giải thoát và đi vào ánh sáng, thể hiện sự đổi đời và tìm đến tự do. Tác phẩm này của Tô Hoài phản ánh số phận đau thương và con đường tìm tự do của nhân dân miền núi Tây Bắc. Nhan đề “Vợ chồng A Phủ” giúp người đọc hiểu được nội dung ban đầu của tác phẩm.
Mẫu 2
- Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài đã đoạt Giải nhất Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam năm 1954-1955. Tác phẩm này đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, mang đến nhiều ý nghĩa sâu sắc cho độc giả. Tựa đề “Vợ chồng A Phủ” đã chỉ ra hai nhân vật chính trong truyện và mối quan hệ đặc biệt giữa họ. A Phủ và Mị, mặc dù không có mối liên hệ huyết thống nhưng qua cuộc sống cùng nhau, họ đã trở thành vợ chồng, chia sẻ cùng nhau những khó khăn và tìm kiếm hạnh phúc. Tác phẩm này thể hiện đau thương và bất hạnh của những người dân ở miền núi Tây Bắc, nhưng cũng khẳng định ý chí vượt lên số phận và tìm đến sự hạnh phúc. Nhan đề “Vợ chồng A Phủ” đã giúp độc giả có cái nhìn ban đầu về tác phẩm.
5. Tóm tắt
Mẫu 1
Tác phẩm kể về cuộc đời của Mị và A Phủ. Mị, một cô gái tài năng nhưng với cuộc sống nghèo khó, bị buộc phải làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ, một chàng trai mồ, sau khi đánh A Sử - con trai thống lí Pá Tra, trở thành thân nô lệ. Sự xuất hiện của A Phủ đã thay đổi cuộc đời của Mị, họ trốn tránh và cuối cùng trở thành vợ chồng. Hai người cùng tham gia cách mạng để bảo vệ bản làng.
Mẫu 2
Mị, con dâu gạt nợ, phải chịu đựng nhiều khổ cực trong nhà thống lí Pá Tra. Sự gắn kết giữa Mị và A Phủ bắt đầu từ việc Mị giải thoát A Phủ khỏi trói buộc. Họ trốn tránh và cuối cùng trở thành vợ chồng, cùng tham gia cách mạng để bảo vệ bản làng.
Mẫu 3
Vì bố mẹ nợ nần, Mị phải làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Sau khi bố Mị qua đời, Mị quen với cuộc sống khổ cực và không còn nghĩ đến cái chết. Một đêm, Mị bị trói buộc và phải chịu đựng nhiều khổ đau. Nhưng sự xuất hiện của A Phủ đã thay đổi cuộc đời của Mị, họ trốn tránh và cuối cùng trở thành vợ chồng. Hai người cùng tham gia cách mạng để bảo vệ quê hương.
6. Tóm tắt
Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” kể về sự phản kháng của người dân Tây Bắc chống lại áp bức, giam hãm từ thực dân, chúa đất, và tìm kiếm cuộc sống tự do.
7. Nghệ thuật
Tone văn đậm chất dân tộc, giàu tình cảm và phản ánh sâu sắc về cuộc sống và tinh thần đấu tranh của nhân vật, tạo nên một tác phẩm đầy nghệ thuật.
8. Giới thiệu và tổng kết
- Giới thiệu: Tô Hoài được biết đến là một tác giả lớn của văn học Việt Nam hiện đại, và tác phẩm nổi bật của ông là Vợ chồng A Phủ, xuất hiện trong tập Truyện Tây Bắc (1953). Tác phẩm tả lại cuộc đấu tranh của nhân dân Tây Bắc chống lại áp bức và tìm kiếm tự do.
- Tổng kết: Hê-minh-uê từng nói: “Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều mang bản sắc bất tử của chính mình”. Vợ chồng A Phủ là minh chứng rõ ràng cho câu nói đó. Tác phẩm chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc và phản ánh rõ nét phong cách sáng tác của Tô Hoài.
III. Phân tích chi tiết Vợ chồng A Phủ
(1) Giới thiệu
Tổng quan về tác giả Tô Hoài và tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
(2) Phần chính
a. Nhân vật Mị
* Trước khi trở thành con dâu gạt nợ
- Mị là một cô gái Mông trẻ trung, hồn nhiên, có tài năng trong việc thổi sáo.
- Mối tình đầu với nỗi khát khao mãnh liệt, không ngừng đi tìm ánh sáng của tình yêu.
- Một người con gái biết trân trọng gia đình, siêng năng làm việc, nhận thức rõ giá trị của tự do và sẵn lòng chấp nhận trách nhiệm gia đình.
* Khi trở thành một phần của gia đình, chấp nhận trách nhiệm gia đình
- Lý do là một nghĩa vụ truyền thống từ thời cha mẹ Mị, một truyền thống đầy tính chất thần thoại từ việc cướp vợ của người Mông để cúng vị thần.
- Mị phải trải qua những cảm giác bất hạnh về thể xác: lao động cực nhọc, không biết ngày đêm, phải chịu đựng những trận đòn mạnh mẽ...
- Mị bắt đầu cảm thấy như bị hoá đá bởi nỗi đau: “mặt u buồn như mưa”, sống chậm rãi “như con rùa ẩn trong lốc cửa”, “lụi tàn trong nỗi đau quen thuộc của Mị”.
- Trong buổi lễ mùa xuân tại Hồng Ngài, sức sống trong Mị đã trỗi dậy:
- Âm thanh (tiếng trẻ em chơi quay, tiếng sáo triệu hồi tình bạn...) đánh thức những kỷ niệm đã qua.
- Mị nhận ra sự tồn tại của chính mình “trong ánh sáng của quá khứ trở lại”, “Mị vẫn trẻ...”, khao khát tự do, chiếu sáng căn phòng tối, muốn “đi vui mừng tết” để kết thúc sự giam giữ.
- Khi bị A Sử buộc, trái tim Mị vẫn mơ mộng theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu tới với những bữa tiệc. Khi tỉnh giấc, cô trở về với thực tại.
- Nhận xét: Sức sống mãnh liệt luôn tiềm ẩn trong trái tim người con gái Tây Bắc và chỉ cần cơ hội để bùng cháy.
- Khi bị A Phủ mất bò và bị trói, Mị phải chịu hình phạt:
- Ban đầu, Mị cảm thấy lạc lõng sau đêm tình mùa xuân, như một xác không hồn.
- Khi nhìn thấy giọt nước mắt của A Phủ, Mị nhớ về quá khứ đau buồn của mình, và cảm thấy xót xa cho số phận bị đày đọa, “có thể ngày mai ta sẽ chết, chết đau đớn, ... ta phải chết”.
- Quyết định tự do khỏi sự ác độc của bọn thống lí, Mị giải dây đay để thả A Phủ. Mị sợ cái chết và sợ những kẻ thống lí, cô theo đuổi A Phủ để tìm lối thoát.
- Nhận xét: Mị là một người con gái yếu đuối nhưng mạnh mẽ, hành động của Mị đã lật đổ quyền lực của bè lũ thống trị vùng núi.
b. Nhân vật A Phủ
- Số phận: mồ côi cha mẹ, sống một mình…
- Khi trở thành một nô lệ trong trận đấu gạt nợ:
- Nguyên nhân: bị đánh bại trong vụ xử kiện không công bằng.
- A Phủ chịu đựng nhiều đau đớn về thể chất: phải làm những công việc cực kỳ khó khăn và nguy hiểm như “đốt rừng, cày cấy, săn bò...”, bị trói đứng và mất bò chỉ vì một cuộc tranh cãi.
- Tính cách:
- Trẻ con gan dạ, mạnh mẽ: khi bị bán xuống nơi thấp, lại leo lên cao để tự do.
- Trưởng thành thành chàng trai lành mạnh, chăm chỉ, có khả năng làm mọi công việc. Là người không chịu đựng bất công (đánh A Sử), mong muốn tự do (kiềm chế đau đớn để chạy khi được cắt dây trói).
(3) Kết luận
Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung của tác phẩm Vợ chồng A Phủ.