Theo lời dạy của Bác Hồ: Vua Hùng có công dựng nước. Hãy cùng Mytour khám phá thêm về truyền thuyết về Vua Hùng: câu chuyện về sự công dựng nước của Vua Hùng trong bài viết dưới đây!
Vua Hùng, hay còn được biết đến với tên gọi Hùng Vương, là vị vua đầu tiên của Văn Lang - nền văn minh đầu tiên của người Việt Nam. Bác Hồ đã dạy rằng: 'Các vị Vua Hùng đã có công dựng nước, chúng ta hậu duệ phải cùng nhau bảo vệ đất nước này'. Kỷ niệm về các vị Vua Hùng giống như là kỷ niệm về nguồn cội, về tổ tiên, về những người đã mở ra bờ cõi đất nước. Hãy cùng Mytour khám phá thêm về truyền thuyết về Vua Hùng trong bài viết hôm nay nhé!
Ai là Vua Hùng?
Hùng Vương (雄王) hoặc Vua Hùng (chữ Nôm: 𤤰雄) là cách gọi để chỉ các vị vua của Văn Lang - dân tộc Lạc Việt, tồn tại từ khoảng thế kỷ 7 đến thế kỷ 2 TCN. Câu chuyện về các vị Vua Hùng không được ghi chép trong lịch sử chính thống mà nó nằm trong các truyền thuyết dân gian của người Việt được truyền miệng qua nhiều thế hệ. Với người Việt Nam, các vị Vua Hùng đại diện cho tổ tiên, cho truyền thống xây dựng đất nước và là niềm tự hào về nền văn minh mang nét đặc trưng riêng suốt hàng nghìn năm lịch sử.

Theo Đại Việt sử lược và nhiều nguồn tài liệu khác, triều đại của các Vua Hùng được truyền dài qua 18 đời, với các vị vua sau đây.
1. Vua Kinh Dương, tức Lộc Tục, hay còn gọi là Lục Dục Vương, sinh năm Nhâm Ngọ (2919 tr. TL), lên ngôi khi 41 tuổi, trị vì suốt 86 năm, từ năm Nhâm Tuất (2879 tr. TL) đến Đinh Hợi (2794 tr. TL).
2. Vua Lạc Long, tức Sùng Lãm, hay còn gọi là Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825 tr. TL), lên ngôi khi 33 tuổi, trị vì suốt 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793 tr. TL) đến Bính Thìn (2525 tr. TL).
3. Vua Hùng Quốc, tức Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, trị vì suốt 272 năm, từ Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr. TL.
4. Vua Hùng Hoa, tức Bửu Lang, lên ngôi khi Đinh Hợi (2252 tr. TL), trị vì suốt 342 năm, từ Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến Mậu Thìn (1913 tr. TL).
5. Vua Hùng Hy, tức Bảo Lang, sinh năm Tân Mùi (2030 tr. TL), lên ngôi khi 59 tuổi, trị vì suốt 200 năm, từ Kỷ Tỵ (1912 tr. TL) đến Mậu Tý (1713 tr. TL).
6. Vua Hùng Hồn, tức Long Tiên Lang, sinh năm Tân Dậu (1740 tr. TL), lên ngôi khi 29 tuổi, trị vì suốt 81 năm, từ Kỷ Sửu (1712 tr. TL) đến Kỷ Dậu (1632 tr. TL).
7. Vua Hùng Chiêu, tức Quốc Lang, sinh năm Quý Tỵ (1768 tr. TL), lên ngôi khi 18 tuổi, trị vì suốt 200 năm, từ Canh Tuất (1631 tr. TL) đến Kỷ Tỵ (1432 tr. TL).
8. Vua Hùng Vỹ, tức Vân Lang, sinh năm Nhâm Thìn (1469 tr. TL), lên ngôi khi 39 tuổi, trị vì suốt 100 năm, từ năm Canh Ngọ (1431 tr. TL) đến Kỷ Dậu (1332 tr. TL).
9. Vua Hùng Định, tức Chân Nhân Lang, sinh năm Bính Dần (1375 tr. TL), lên ngôi khi 45 tuổi, trị vì suốt 80 năm, từ 1331 đến 1252 tr. TL.
10. Vua Hùng Uy
11. Vua Hùng Trinh, tức Hưng Đức Lang, sinh năm Canh Tuất (1211 tr. TL), lên ngôi khi 51 tuổi, trị vì suốt 107 năm, từ Canh Tý (1161 tr. TL) đến Bính Tuất (1055 tr. TL).
12. Vua Hùng Vũ, tức Đức Hiền Lang, sinh năm Bính Thân (1105 tr. TL), lên ngôi khi năm 52 tuổi, trị vì suốt 86 năm, từ Đinh Hợi (1054 tr. TL) đến Nhâm Tuất (969 tr. TL).
13. Vua Hùng Việt, tức Tuấn Lang, sinh năm Kỷ Hợi (982 tr. TL), lên ngôi khi 23 tuổi, trị vì suốt 115 năm, từ Quý Hợi (968 tr. TL) đến Đinh Mùi (854 tr. TL).
14. Vua Hùng Anh, tức Viên Lang, sinh năm Đinh Mão (894 tr. TL) lên ngôi khi 42 tuổi, trị vì suốt 99 năm, từ 853 đến 755 tr. TL.
15. Vua Hùng Triệu, tức Cảnh Chiêu Lang, sinh năm Quý Sửu (748 tr. TL), lên ngôi khi 35 tuổi, trị vì suốt 94 năm, từ Đinh Hợi (754 tr. TL) đến Canh Thân (661 tr. TL).
16. Vua Hùng Tạo, tức Đức Quân Lang, sinh năm Kỷ Tỵ (712 tr. TL), trị vì suốt 92 năm, từ Tân Dậu (660 tr. TL) đến Nhâm Thìn (569 tr. TL).
17. Vua Hùng Nghị, tức Bảo Quang Lang, sinh năm Ất Dậu (576 tr. TL) lên ngôi khi 9 tuổi, trị vì suốt 160 năm, từ Quý Tỵ (568 tr. TL) đến Nhâm Thân (409 tr. TL).
18. Vua Hùng Duệ, sinh năm Canh Thân (421 tr. TL), lên ngôi khi 14 tuổi, trị vì suốt 150 năm, từ Quý Dậu (408 tr. TL) đến Quý Mão (258 tr. TL).
Truyền thuyết về Vua Hùng
Ngày xưa con trai của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh đi dạo phương Nam, đến Ngũ Lĩnh, say mê con gái Vụ Tiên, sinh ra Lộc Tục. Lộc Tục sáng suốt, được Đế Minh yêu mến, muốn kế vị. Lộc Tục từ chối, muốn nhường cho anh trai, nhưng không thể. Đế Minh lập Đế Nghi (anh trai của Lộc Tục) làm người kế vị, cho Lộc Tục cai trị phương Bắc, đất Xích Thần và đặt Lộc Tục làm Kinh Dương Vương, cai trị phương Nam và dân tộc Bách Việt, gọi là nước Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương, khi rời Thủy phủ, kết hôn với con gái của Long Vương Động Đình Quân tên là Thần Long Long Nữ, sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân thừa kế ngai vàng, còn Kinh Dương Vương biến mất sau khi truyền ngôi. Đế Nghi nhường ngôi cho con trai là Đế Lai cai trị phương Bắc, Đế Lai rong ruổi khắp nơi, qua nước Xích Quỷ, gặp Lạc Long Quân đã trở về Thủy phủ, lập con gái của mình, Âu Cơ, ở lại đó.
Lạc Long Quân trở về, thấy Âu Cơ xinh đẹp, biến hình thành chàng trai hào hoa, Âu Cơ mới rung động, Lạc Long Quân dẫn nàng về núi Long Trang. Hai người sống chung một năm, đẻ ra trăm quả trứng, sinh ra trăm người con trai gan dạ phi thường.

Lạc Long Quân lưu lại Thủy phủ, Âu Cơ quê mình ở Bắc, nhớ nhà nên kêu Lạc Long Quân về. Âu Cơ nói với Lạc Long Quân:
'Thiếp là người Bắc, ở cùng Quân sinh trăm con trai mà không ai dưỡng dục, xin hai ta không nên xa cách, khiến ta trở thành người cô đơn, không vợ không chồng, cô đơn vô cùng'.
Lúc đó, Lạc Long Quân mới nói:
'Ta là loài rồng, sinh sống ở vùng nước; nàng là loài tiên, sinh sống trên cõi đất, chúng ta không giống nhau, dù có con nhưng không thể sống cùng nhau vĩnh viễn. Bây giờ phải chia ly, ta sẽ đưa năm mươi con về biển, cai trị vùng nước, năm mươi con ở cùng nàng trên đất, chia làm hai nước cai trị, dù ở trên núi hay dưới biển nhưng phải giữ mối liên kết không được lãng quên'.
Âu Cơ cùng năm mươi người con trai ở Phong Châu, tự phong lên đứa con lớn nhất làm vua, mang tên là Hùng Vương
Hùng Vương lên ngôi, đặt tên quốc hiệu là Văn Lang, chia đất ra thành 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đặt đô ở bộ Văn Lang, Phong Châu.
Công lao của Vua Hùng
Lãnh thổ của Văn Lang được xác định ở vùng đồng bằng sông Hồng, phía đông bắc giáp với Âu Việt, phía tây bắc thuộc các tỉnh miền bắc Việt Nam và một phần của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc ngày nay, phía đông giáp biển Đông, phía tây tiếp giáp dãy núi Hoàng Liên Sơn (thuộc Lào Cai, Sơn La ngày nay), phía nam giáp Hồ Tôn Tinh (hay Hồ Tôn), một quốc gia Champa cổ. Dân số của Văn Lang vào khoảng 40, 50 nghìn người, chủ yếu phân bố ở khu vực trung du, hạ du sông Hồng và sông Mã.
Hùng Vương ủy quyền cho các em trai, bổ nhiệm em thứ làm Tướng võ, Tướng văn. Tướng văn được gọi là Lạc Hầu, Tướng võ là Lạc Tướng, con trai vua được gọi là Quan Lang, con gái vua được gọi là Mị Nương, quan Hữu ty được gọi là Bố Chính, thần bộc, nô lệ được gọi là nô tỳ, vai trò thần thánh là khôi, thế hệ cha truyền con nối được gọi là phụ đạo, thay đổi thời kỳ nhưng hiệu là Hùng Vương vẫn giữ nguyên.

Trong sách Đại Việt Sử ký Toàn thư có ghi chép phần đầu tiên được gọi là Kỷ Hồng Bàng thị, 3 phần nhỏ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Hùng Vương. Sách Lĩnh Nam chích quái đặt tên là Truyện Hồng Bàng.
Theo sách Khâm định Việt sử Thông giám cương mục: Theo sách An Nam chí nguyên của Cao Hùng Trưng viết. Giao Chỉ trước khi được xác định là quận huyện, có ruộng Lạc, theo thời gian triều tiên mà làm ruộng, mở ruộng đó là Lạc dân, cai trị dân là Lạc Vương, người giúp việc là Lạc Tướng: đều sử dụng ấn đồng thao xanh. Đất này được gọi là Văn Lang. Phong tục đơn giản, thân thiện, chưa có chữ viết, vẫn sử dụng cách buộc dây thắt nút làm dấu ghi nhớ; truyền đạt qua mười tám thế hệ.
Có một số nguồn sử học viết về lãnh thổ của vua Hùng, về phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc), về phía bắc là hồ Động Đình (Hồ Nam, Trung Quốc), về phía nam giáp nước Hồ Tôn, còn gọi là nước Chiêm Thành, là một nhầm lẫn với nước Xích Quỷ trong truyền thuyết của người Bách Việt cổ. Vương quốc Văn Lang của dân tộc Lạc Việt chỉ là một phần của các dân tộc Bách Việt, và cũng là tổ tiên của dân tộc Kinh ngày nay. Lạc Việt cùng với Âu Việt là hai trong số những dân tộc Bách Việt sinh sống ở vùng đất phía nam. Sau này, vua An Dương (hay Thục Phán), vua của nước Âu Việt (nằm ở phía tây bắc Văn Lang), đánh bại vua Hùng của Văn Lang và thành lập nước Âu Lạc. Dân số của Âu Lạc thời đó cũng chỉ khoảng 70.000 đến 80.000 người. Nếu muốn lãnh thổ Văn Lang giáp với Ba Thục, Tứ Xuyên và Hồ Động Đình, Hồ Nam thì phải bao gồm cả các tỉnh Quý Châu (diện tích 176.167 km²) và Hồ Nam (diện tích 210.000 km²), hầu hết tỉnh Vân Nam (diện tích 394.000 km²), một phần của tỉnh Quảng Tây (diện tích 236.700 km²) của Trung Quốc.

Theo truyền thuyết, vào năm 2557-2258 TCN, tức năm Mậu Thân thứ 5 thời vua Đường Nghiêu, Hùng Vương sai sứ sang tặng vua Nghiêu con rùa thần có thể đã hơn nghìn tuổi, con rùa cao ba thước, trên lưng có văn khoa đẩu ghi lại sự kiện từ thời trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu cho sao chép gọi là Quy lịch (lịch rùa).
Tìm hiểu thêm về Lễ hội Giỗ tổ Hùng Vương: Nguồn gốc, ý nghĩa ngày mùng 10 tháng 3
Trên đây là một phần trong sự thích Vua Hùng và truyền thuyết về việc thiết lập quốc gia được Mytour tổng hợp. Hãy theo dõi những bài viết tiếp theo của chúng tôi để biết thêm thông tin hữu ích.
Mua khẩu trang chất lượng tại Mytour để bảo vệ sức khỏe: