Có hai loại tự do khác nhau: tự do khỏi một điều gì (tự do phủ định) và tự do tới một điều gì (tự do khẳng định). Các triết gia đã thảo luận về khái niệm này trong các tác phẩm của họ, từ Kant đến Isiah Berlin và Charles Taylor.
Triết gia thường sử dụng hai loại tự do này để tranh luận về vai trò của chính phủ trong cuộc sống của người dân. Chúng tôi muốn khám phá sự khác biệt giữa tự do phủ định và tự do khẳng định để hiểu rõ hơn về quá trình phát triển của mỗi cá nhân từ khi còn trẻ đến khi trưởng thành.
Phân Biệt Tự Do Phủ Định và Tự Do Khẳng Định
Tự do từ bỏ/ Tự do thoát khỏi điều gì đó
Tự do từ bỏ là tự do thoát khỏi các ràng buộc bên ngoài khiến bạn không thể làm những điều mình muốn, vào bất kỳ thời điểm nào bạn muốn. Những rào cản này được đặt lên bạn bởi người khác. Mỗi khi bạn sở hữu nhiều tự do từ bỏ, bạn sẽ ít gặp khó khăn hơn trong việc theo đuổi những ước mơ của mình.
Theo Charles Taylor, tự do từ bỏ là quyền lợi cơ hội của tự do, vì nó mở ra cho bạn một loạt các cơ hội đáng giá, dù bạn quyết định sử dụng chúng hay không.
Ý tưởng về tự do từ bỏ có thể được tổng kết bằng câu: “Tôi không phải là con nô lệ của ai khác.”
Tự do khẳng định/ Tự do tiếp cận điều gì đó
Tự do tự chủ/ Tự do điều khiển và định hình cuộc sống của bạn
Theo Taylor, tự do tự chủ là việc thực hiện tự do thông qua việc nhận biết tất cả các cơ hội có sẵn và chọn lựa theo ý chí và mong muốn thực sự của bạn.
Khái niệm về tự do tự chủ có thể được rút gọn bằng câu: “Tôi kiểm soát chính mình.”
Nếu bạn vẫn mơ hồ về sự khác biệt giữa tự do tự chủ và tự do từ bỏ, một hình ảnh từ Triết học Stanford có thể giúp bạn hiểu rõ hơn về bản chất của hai khái niệm này.
Hãy tưởng tượng một người đang lái xe. Người đó đến giao lộ không có đèn tín hiệu, cảnh sát hoặc bất kỳ yếu tố kiểm soát nào khác; người lái xe có thể tự do quyết định rẽ theo bất kỳ hướng nào và anh ta chọn rẽ trái. Đây là tự do từ bỏ; người lái xe không bị bó buộc bởi bất kỳ quy tắc nào, nhưng nếu anh ta rẽ trái để mua thuốc lá và bỏ lỡ một cuộc hẹn quan trọng, thì cơn nghiện thuốc lá đang kiểm soát anh ta. Điều này cho thấy người lái xe không có tự do tự chủ; anh ta không thực sự có quyền tự do hành động theo ý muốn của mình, trong trường hợp này là đến đúng giờ cho cuộc hẹn.
Từ điển Bách Khoa Triết học Stanford giải thích:
Áp dụng khái niệm tự do phủ định và tự do tự chủ vào cuộc sống của một người
Giai đoạn 1: Thời thơ ấu. Ít tự do phủ định/ mức độ tự do phủ định thấp. Ít tự do tự chủ.
Khi còn nhỏ, bạn thực sự thiếu đi sự tự do phủ định và tự chủ. Cha mẹ bạn đặt ra lịch trình cứng nhắc và buộc bạn phải tuân thủ theo những quy định rõ ràng. Bạn có ít sự lựa chọn và mục tiêu của bạn được định đoạt bởi họ. Bạn cũng không có khả năng tự quyết định cao, và việc kiểm soát hành động của bản thân là điều mà bạn gặp khó khăn và lo lắng trước nhiều điều.
Giai đoạn 2: Thời kỳ trưởng thành. Mức độ tự do phủ định cao. Mức độ tự do tự chủ thấp.
Rồi đến một ngày bạn tròn 18 tuổi, tốt nghiệp trường trung học và có thể ra xa gia đình để nhập học đại học. Lần đầu tiên trong cuộc đời, không còn ai giám sát hoặc nhắc nhở bạn phải làm gì. Những thế lực bên ngoài mà từ trước đến nay đã kiểm soát bạn giờ đã biến mất, đặc biệt trong giai đoạn Anomie, khi không có bất kỳ quy tắc văn hóa nào thực sự tồn tại, bạn có thể làm bất cứ điều gì bạn muốn (trừ khi làm việc vi phạm pháp luật). Bạn có thể tham gia tiệc tùng hàng đêm, ngủ đến tận buổi chiều mỗi ngày, trốn học khi bạn muốn và mời bất kỳ ai đến nhà bạn...
Bạn bị cuốn vào biển tự do phủ định - bạn có vô số cơ hội và cánh cửa rộng mở. Cảm giác này có thể gây hại và ban đầu bạn có thể thần tượng nó, thử thách những giới hạn trước đó chỉ để chứng minh cho bản thân rằng chúng không tồn tại nữa. Bạn không quan tâm đến việc phát triển kỷ luật hoặc khả năng tự chủ.
Lưu ý: Rõ ràng, tự do để làm bất kỳ điều gì bạn muốn không đồng nghĩa với việc bạn tự do khỏi những hậu quả của quyết định của mình; bạn có thể gặp rủi ro tài chính hoặc bị đuổi học. Bạn có thể chọn hành động của mình, nhưng bạn không thể chọn hậu quả của chúng.
Giai đoạn 3: Bắt đầu trưởng thành. Mức độ tự do phủ định cao. Tự do tự chủ dần tăng lên.
Tới một thời điểm, bạn nhận ra dù có nhiều cơ hội mở ra trước mặt, không phải cơ hội nào cũng quan trọng như nhau. Tư duy của bạn chuyển dịch từ việc 'Tôi có thể làm bất cứ điều gì mình muốn!' sang 'Tôi thực sự muốn làm điều gì?'. Bạn bắt đầu tìm kiếm ý nghĩa sâu sắc hơn và khám phá mục đích của cuộc sống.
Khi tâm trạng bạn thay đổi, bạn bắt đầu phân biệt những lựa chọn bạn có, đặt ra những quyết định quan trọng nhất - những điều có thể giúp bạn đạt được những khát vọng cao hơn. Khi bạn xem xét những cánh cửa trước mắt, bạn nhận ra những cánh cửa dẫn tới những ước muốn tầm thường mở rộng, và dẫn bạn tới một căn phòng, trong khi những cánh cửa dẫn tới những khát vọng cao hơn của bạn mở ra một bậc thang đưa bạn lên một tầng mới với một hành lang chứa nhiều cánh cửa khác. Bạn cũng nhận ra rằng một số cánh cửa để tới được khát vọng cao hơn của bạn đang bị khóa. Những chiếc khóa này tượng trưng cho những trở ngại bên trong bạn đang ngăn cản bạn đạt được điều mình mong muốn trong cuộc sống. Ví dụ như:
Bạn muốn kết hôn, nhưng bạn còn e ngại không dám trò chuyện với người yêu của mình
Bạn muốn học thạc sĩ, nhưng bạn thiếu kỷ luật để học cẩn thận và đạt điểm cao
Bạn muốn tham gia một cuộc thi chạy, nhưng bạn còn thừa cân và không đủ sức khỏe
Bạn muốn có tài chính độc lập nhưng vẫn không kiểm soát được việc tiêu xài của mình
Bạn muốn tuân theo luật lệ của một tôn giáo mới, nhưng bạn không thể bỏ được những thói quen cũ
Bạn muốn tìm một công việc, nhưng bạn không ngừng uống rượu và tham dự phỏng vấn khi vừa tỉnh rượu
Bạn muốn trở thành một nghị sĩ, nhưng bạn vẫn sợ phải nói trước đám đông
Bạn muốn trở thành một người trưởng thành, nhưng bạn không hiểu rõ điều đó có ý nghĩa gì
Bạn nhận ra bạn có tự do tiêu cực nhiều - tự do thoát khỏi những rào cản bên ngoài - nhưng bạn thiếu tự do khẳng định, khả năng vượt qua nỗi sợ, sự thiếu hiểu biết, hay những thói quen xấu ngăn cản bạn trở thành bản thân bạn mong muốn.
Giai đoạn 4: Trưởng thành. Nhiều tự do phủ định. Nhiều tự do khẳng định.
Mặc dù không còn ai đặt ra giới hạn bên ngoài cho bạn, bạn nhận ra để trở thành người bạn muốn, bạn phải tự đặt ra luật lệ cho bản thân và xây dựng những giới hạn cá nhân. Bạn sẵn lòng làm việc để phát triển khả năng tự chủ, tính kỷ luật và ý chí quyết tâm. Trong quá trình đó, bạn có thể kiểm soát được những ước muốn tầm thường của mình, và vì thế bạn không bị những thứ bạn nghiện điều khiển mình.
Những triết gia như Kant đã nói rằng những luật lệ bạn đặt ra cho chính mình không làm giảm đi tự do phủ định mà bạn có, bởi vì bạn tự tạo ra những luật đó, dựa trên ý chí và sự lựa chọn của mình, và vì thế không ai có thể ép buộc bạn. Tự do phủ định của bạn chỉ có thể bị xâm phạm bởi người khác, bắt buộc bạn làm những điều mà bạn không muốn. Bằng cách học cách kiểm soát và kiềm chế ước muốn của mình, bạn trở nên tự chủ hơn. Bạn không chỉ tự do khỏi những giới hạn bên ngoài, mà còn thoát khỏi những thúc đẩy của bản thân. Bạn không chỉ có tự do để đứng trước rất nhiều cánh cửa, mà còn có tự do để bước qua bất kỳ cánh cửa nào. Khả năng tự chủ chính là chìa khóa để mở ra mọi cánh cửa.
Quá trình theo đuổi tự do khẳng định và hành trình trưởng thành
Thật không may, nhiều người dừng lại ở giai đoạn thứ hai. Họ lớn lên trong một nền văn hóa nhấn mạnh rằng tự do phủ định là mục tiêu cuối cùng của mọi thứ; hạnh phúc được định nghĩa là có được những gì bạn muốn. Vì vậy, họ không bao giờ trải qua sự chuyển tiếp từ nghĩ về tự do khỏi đến suy nghĩ về tự do là gì. Nhưng quá trình chuyển giao này chính là bước quan trọng để một đứa trẻ trở thành người trưởng thành.
Người trưởng thành nhận ra sức mạnh của tự do khẳng định và nhận thức được rằng những giới hạn họ đặt ra cho bản thân không giới hạn tự do phủ định của họ. Mặc dù tính kỷ luật có thể ngăn cản một số khả năng có thể xảy ra, nó mở ra rất nhiều lựa chọn mới chỉ dành cho những người có khả năng tự chủ cao. Hầu hết mọi người đều có thể tìm được một công việc, nhưng chỉ có người trưởng thành với tự do khẳng định mới có thể đạt được công việc mơ ước. Hầu hết mọi người đều có thể trở thành một người chồng và một người bố, nhưng chỉ người trưởng thành mới có thể là một người chồng tốt và một người bố tốt.
Ngược lại, những người không trưởng thành tập trung hoàn toàn vào tự do khỏi, thấy mọi rào cản được đặt ra bởi người khác hoặc bởi chính họ hạn chế tự do phủ định của họ. Nếu họ phát hiện rằng những gì họ muốn đều bị khóa, thay vì cố gắng để vượt qua những hạn chế của bản thân, họ chỉ bỏ cuộc và cho rằng họ không cần những điều đó. Chính vì lý do này, những người dừng lại ở giai đoạn hai ít tiến bộ trong cuộc sống và không bao giờ đạt được đỉnh cao của quá trình hiện thực hóa bản thân, trở thành một anh hùng, nếu họ muốn.
Những người vẫn ở giai đoạn tự do khỏi thường cảm thấy không hạnh phúc với cuộc sống của họ. Sự cảm giác được kiểm soát cuộc sống tạo ra hạnh phúc và sự thoải mái, và khả năng kiểm soát này phụ thuộc vào việc bạn có được tự do khẳng định. Một người hiểu rõ tự do khẳng định tạo ra mối liên kết mạnh mẽ với mục tiêu của bản thân, và những gì anh ta phải từ bỏ để đạt được mục tiêu đó, và đặc biệt anh ta sẵn lòng làm điều đó. Anh ta hiểu rõ quy luật hy sinh, và làm chủ, chịu trách nhiệm trước mọi hành động của mình.
Cuối cùng, lợi ích của việc hình thành tự do khẳng định là vì trong khi tự do phủ định của một người có thể bị kiểm soát bởi người khác, trữ lượng tự do khẳng định của họ sẽ tạo ra một nguồn năng lượng không thể nào bị kiểm soát, giúp họ duy trì mạnh mẽ bất kể những biến động bên ngoài và những tình huống khó khăn mà họ gặp phải.
Điều này là điều mà nhà tâm lý Viktor Emil Frankl quan sát được khi ông sống cùng những tù binh khác - những người đã mất đi toàn bộ tự do phủ định - trong những trại tập trung của phát xít Đức. Frankl kể lại trong cuốn sách nổi tiếng của mình, 'Đi tìm lẽ sống' (Man’s Search for Meaning):
'Bất chấp cuộc sống thiếu thốn cả về thể xác lẫn tinh thần ở trại tập trung, những người sống ở đây vẫn có thể đào sâu cuộc sống linh thiêng của mình. Những người nhạy cảm đã quen với lối sống giàu có về tri thức phải trải qua nhiều nỗi đau (họ vốn đã thể chất yếu ớt), nhưng những thiệt hại tới con người bên trong của họ vẫn ít hơn rất nhiều. Họ vẫn có thể thoát khỏi hiện trạng sống tồi tệ để đến với cuộc sống nội tâm giàu có và tự do tâm linh. Chỉ qua cách lập luận này mà ta có thể giải thích được vì sao những người bị giam với thể chất yếu hơn lại chịu đựng được cuộc sống ở trại tập trung tốt hơn những người vốn dĩ khỏe mạnh hơn.
Cuộc sống ở trại tị nạn cho thấy con người có thể lựa chọn hành động của mình. Có đủ bằng chứng, thường về những người anh hùng, cho thấy con người có thể vượt qua sự hờ hững, hạn chế được những tức giận. Con người có thể gìn giữ được dấu tích của sự tự do tâm linh, của một tâm trí độc lập ngay cả trong những điều kiện căng thẳng tâm lý và thể chất.
Những người đã sống tại trại tập trung như chúng tôi đều có thể nhớ được hình ảnh của những người đàn ông đi bộ các túp lều an ủi những người khác, cho đi miếng bánh mì cuối cùng họ có. Mặc dù chỉ có một số ít những người như vậy, nhưng họ đã đủ để chứng tỏ rằng con người có thể mất đi mọi thứ ngoài trừ: sự tự do cuối cùng của mỗi người - đó là khả năng lựa chọn thái độ của bản thân trong bất kể tình huống nào, đó là lựa chọn cách hành xử của bản thân.'
Mytour