
Và mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ ai tham gia vào hoạt động kinh tế là cách phân bố các yếu tố có hạn ấy vào các lĩnh vực kinh tế khác nhau như thế nào, cũng như tác động lên quá trình phân bố này để có lợi nhất cho bản thân, vì dồn nguồn lực vào đây đồng nghĩa với việc bớt đi từ nơi khác.
Nhưng liệu câu chuyện này có còn đúng không? Đây là câu hỏi mà các tác giả Arnold Kling và Nick Schulz cố gắng trả lời trong cuốn sách Từ nghèo đến giàu có (From Poverty to Prosperity).
Trong cuốn sách này, các tác giả đã thảo luận về Kinh tế học 2.0, một khái niệm đề cập đến các đặc trưng của nền kinh tế toàn cầu mới, được hình thành trên cơ sở của các tiến bộ nhanh chóng về công nghệ trong những thập kỷ qua. Các tác giả nhấn mạnh khái niệm “tầng phần mềm” là linh hoạt, nhạy bén, dễ thích nghi nhưng cũng dễ bị tổn thương và tiềm ẩn nguy cơ trong nền kinh tế, điều mà Kinh tế học truyền thống (1.0) ít quan tâm, tập trung chủ yếu vào “phần cứng” (các yếu tố hữu hình và hữu hạn).
Klin và Schulz từ đầu đã nhấn mạnh vào nghiên cứu sâu sắc về “tầng phần mềm” của hoạt động kinh tế, mà chỉ có thể giải thích được khoảng cách về nhu cầu, sự hưởng thụ, và mức sống giữa các thời điểm khác nhau (khoảng cách thời gian) cũng như giữa các quốc gia khác nhau (khoảng cách phát triển). Dựa trên các lập luận có minh họa bằng ví dụ và dữ liệu, các tác giả đã chỉ ra rằng sự chú ý đúng mức đến “tầng phần mềm” của nền kinh tế chính là nơi mà các quốc gia có thể vượt qua giới hạn do các yếu tố “khan hiếm” của kinh tế “phần cứng” đơn thuần để tiến tới nền kinh tế mà đặc điểm chính là sự “dư dả” với “tầng phần mềm” là động lực chủ yếu. Đây cũng là bước chuyển mà xã hội có thể đi từ nghèo đói lên thịnh vượng, như tên gọi Klin và Schulz cho cuốn sách của họ.
Sau khi giới thiệu khái niệm và minh họa cho tính đúng đắn của Kinh tế học 2.0 trong quá trình “thoát nghèo” của bất kỳ nền kinh tế nào, Klin và Schulz tiếp tục đi sâu vào phân tích một số khía cạnh quan trọng của cách tiếp cận này.
Đầu tiên là vai trò của khoa học, công nghệ và sự cải tiến trong việc nâng cao chất lượng sống của con người. Đây là những “tài sản vô hình” không bị giới hạn bởi bất kỳ sự khan hiếm nào như các loại tài nguyên hữu hình, là động lực bất tận cho sự phát triển và là nguồn gốc để sự dư dả không còn là đặc quyền của một số ít mà trở thành đặc tính chung của xã hội. Đồng hành cùng khoa học và công nghệ là bản chất thử nghiệm liên tục của sự phát triển kinh tế, chỉ thông qua quá trình thử nghiệm – sai lầm – sửa chữa – thử nghiệm của chính nền kinh tế mới mà nó không bị đình trệ mà vẫn duy trì được động lực để tiến lên.
Theo các tác giả, sự phát triển tri thức và ứng dụng tri thức không nhất thiết phải đi song hành hoặc được định trước. Có những tri thức được khám phá ra nhờ vào nhu cầu cấp bách, cũng như có những tri thức được phát hiện ra rất lâu trước khi con người tìm ra ứng dụng cho chúng. Tuy nhiên, không có tri thức nào là vô dụng, bởi vì tri thức là thứ sẽ giúp con người vượt qua các giới hạn của nguồn cung vật chất hạn chế trên Trái đất, giúp các giới hạn này được vượt qua nhanh chóng hơn, thường xuyên hơn, mở rộng chân trời phát triển của chúng ta và tạo ra cơ hội thịnh vượng ngày càng nhiều hơn.
Nếu các yếu tố tích cực trong 'tầng phần mềm' được Klin và Schulz chỉ ra là những động lực bất tận cho tăng trưởng hướng tới thịnh vượng, thì các 'lỗi phần mềm' cũng được chỉ ra là yếu tố cản trở quan trọng nhất tạo nên sự khác biệt trong phát triển của các quốc gia, đặc biệt là các 'lỗi' ở 'hệ điều hành' của nền kinh tế. Dưới hình thức trao đổi với các nhà kinh tế học tên tuổi, các tác giả đã chỉ ra, phân tích một số 'lỗi phần mềm' nghiêm trọng có thể ảnh hưởng tới một quốc gia, bao gồm: chủ nghĩa bộ lạc, thiếu đảm bảo quyền sở hữu tài sản, tham nhũng, sự lệ thuộc vào các nguồn thu nhập 'không tự kiếm được', thiếu kiến thức và kỹ năng.
Nhấn mạnh vai trò của 'hệ điều hành' lành mạnh cho một nền kinh tế thịnh vượng, song Klin và Schulz chỉ ra rằng 'trái tim' đem lại sức sống cho nền kinh tế chính là các doanh nhân khởi nghiệp, và vai trò quan trọng nhất của họ là vượt qua các kháng cự với đổi mới. Các tác giả đồng thời cũng xem xét vai trò của các định chế tài chính trong việc giảm chi phí của các hoạt động chấp nhận rủi ro, vốn là một phần tất yếu của đổi mới sáng tạo, cũng như vai trò của Chính phủ cũng như hiệu quả tích cực từ khả năng thích nghi với thay đổi.
Cuối cùng, Klin và Schulz khép lại cuốn sách bàn về Kinh tế học 2.0 của họ bằng việc chỉ ra những vấn đề quan trọng của 'tầng phần mềm' cần được nghiên cứu thêm. Bởi cách tiếp cận mới này cũng cần thêm thời gian để tự hoàn thiện mình, đồng thời nguyên lý của nó cũng cần được cụ thể hóa cho phù hợp với vấn đề, thách thức cụ thể của từng nền kinh tế, từng quốc gia (phát triển hay đang phát triển, chậm phát triển) để có được hiệu quả tốt nhất.
Dịch giả Lê Đình Chi | Vietnamnet.vn