Nguyễn Đình Chiểu, một nhà Nho yêu nước của thế kỷ 19, đã để lại di sản vĩ đại với tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, một bức tượng đài bi tráng về người nông dân nghĩa sĩ đánh Pháp cuối thế kỷ XIV, khẳng định sức mạnh và tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Bắt đầu bằng tiếng than cảm thán, tác phẩm đã lột tả được tâm trạng của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống giặc Pháp:
'Hỡi ôi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ!'
Trong cơn sóng gió xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu tạo dựng bức tượng đài vĩ đại trên nền tảng của hoàn cảnh khốc liệt. Súng đạn kẻ thù rỉ tai rủa rợn khắp nơi. Xã hội lúng túng trước sức mạnh của quân thù.
Bến Nghé ngập trong dòng nước cuồn cuộn
Đồng Nai màu mây bao phủ nền đất
Khi mọi thứ dường như sụp đổ,
Gia đình bỏ lại, trẻ con hoang tàn đào xới
Bầy chim dáo dát mất đi nơi tổ yêu thương
(Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu)
Trong hoàn cảnh đau buồn tan tác này, lòng nhân từ của con người chiếu sáng như mặt trời giữa bầu trời xanh!
Họ là ai?
Họ không phải những anh hùng, không phải những người quyền quý được vua thưởng phước. Họ chỉ là những con người:
Làm ăn khó khăn, sống cuộc sống nghèo khổ...
... Chỉ biết canh tác, chăm sóc trâu, sống trong làng quê
Cày cuốc, bừa mảy, gieo cấy, làm việc nông nghiệp, đôi bàn tay quen thuộc;
Huấn luyện, sẵn sàng, tập bắn, rèn luyện kỹ năng quân sự, chưa từng tham gia chiến trường
Họ là những nông dân thực thụ, người chưa bao giờ rời xa làng quê! Hơn nữa, họ còn là những nông dân nghèo, nghèo đến cùng cực. Sự 'côi cút' trong từng ngôn từ của cụ Đồ thật đau lòng! Trong những ngày thường, những năm tháng trôi qua vô vọng đó, họ không hề được 'chăm sóc' như những gì mà quan lại vua chúa nghĩ. Một cuộc đời, nhiều đời chỉ biết cống hiến cho đất đai, hi sinh cho trời cao! Nhưng, chính những người bị bỏ rơi đó lại là những người đầu tiên đứng lên, dù không phải là quân lính, không phải là lính vệ. Họ chỉ vì ý nghĩa cao cả mà hòa mình dưới cờ đỏ sao vàng.
Một thư xa lớn lao, liệu có ai đủ can đảm đối mặt với nguy hiểm
Hai vầng trời sáng lấp lánh, nhưng đâu là nơi đón đưa lũ trẻ bán hàng bò
Bằng hai câu từ đó, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện họ là những người nhân văn, những cá nhân có trách nhiệm cao với đất nước, mang trong mình tinh thần bất khuất. Do đó, họ quyết định 'Phen này xin ra sức đoạn kình... Chuyến này dốc ra tay bộ hổ'.
Đó chính là tinh thần của những người như Triệu Thị Trinh, Bố cái Đại vương Phùng Hưng đã đối mặt với nguy hiểm trên biển Đông, săn hổ dữ trong rừng sâu trong lịch sử dân tộc.
Tuy vậy, Cụ Đồ Bến Tre vẫn nhớ rằng họ là những người bình dân với trái tim đầy căm hận dành cho kẻ thù, cho đến tận tận xương tủy:
Khi thấy bóng đen bao phủ ánh trăng, muốn tiến tới chống đối
Ngày nhìn thấy khói đen phủ kín bầu trời, muốn ra đấu tranh!
Đúng sự nồng nhiệt này khiến họ vượt qua khó khăn, không quan trọng về vũ khí, trang phục, không quan trọng về huấn luyện quân sự, không sợ kẻ thù có vũ khí tiên tiến, có lính thuê tàn bạo, có kẻ phản quốc mưu mô tinh vi nhất, họ vẫn dám đối mặt trực tiếp với những vũ khí tự chế đơn giản: “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi/ Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay”, ý là chỉ cần có cơ hội, miễn là tiêu diệt được đối thủ! Nếu không có lòng vì nghĩa lớn, làm sao có thể có dũng khí đó?
Và khi bước vào trận đấu, họ thực sự phi thường:
Dù mệt mỏi từ việc quản lý quân trống, đẩy rào, họ vẫn không ngừng tiến về phía trước; đối phó với kẻ thù như không có gì; không sợ bị kẻ Tây bắn đạn nhỏ, đạn lớn, hay bị hạ đo ván bằng những vật liệu vô giá.
Kẻ tấn công từ phía bên, người đánh từ phía trên, khiến cho quân địch hoảng loạn sợ hãi; lũ phản bội, bè lũ sau, không để ý đến sức mạnh của quân đội.
Thật là một trận đánh dũng mãnh, quyết liệt đến từ tâm hồn đầy căm thù! Những hành động quyết định như “đạp - lướt - xô - xông - đâm ngang - chém ngược...” khiến cho độc giả hàng trăm năm sau còn như nhìn thấy trước mắt cảnh vật mãnh liệt của binh đoàn chính nghĩa. Trong ngọn lửa bùng cháy, bóng tay trần, bóng lưỡi dao sáng bén, tiếng bước chân vang vọng, tiếng thét giữa cuộc chiến...
Trong văn học Việt Nam đến thời điểm đó, hiếm có một tác phẩm nào thể hiện hiện thực một cách sinh động như thế! Không có một chút hoài nghi, đây là sự kỹ năng mô tả, khả năng viết của Nguyễn Đình Chiểu, một giá trị không thể đong đếm! Vì sao một người sống trong bóng tối mà lại có cái nhìn rõ ràng như vậy? Tài năng hay lòng nhân từ? Có lẽ là cả hai!
Chính ý chí quyết định của những người nghĩa sĩ đã tạo ra những chiến công đáng khen ngợi. Họ đã tiêu diệt được lãnh đạo thù địch, đã xóa sổ mối nguy hiểm gián điệp, tức là kẻ thù xuất phát từ bên trong, kẻ thù tiềm ẩn, kẻ thù bên ngoài, kẻ thù tư tưởng (người dạy dỗ)... Điều đặc biệt hơn khi những chiến công này đạt được từ những vũ khí cơ bản! Bức tượng đài hùng vĩ ấy trở nên càng oanh liệt.
Làm sao đau lòng! Họ đã hy sinh! Sự dũng cảm của họ đã làm cho cả Nam Bộ đau buồn:
Sông Cần Giuộc, cây cỏ che kín như một vạt sầu vương;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ đều vẻn vẹn trong nỗi khốn khổ.
Trời đất mờ mịt! Mọi người ai cũng khóc lóc thương tiếc! Nỗi đau thương này còn chưa biết đến đâu! Sau cái chết của anh hùng sẽ là:
Đau lòng biết bao! Mẹ già ngồi trong lều, lửa đèn le lói; Đau xót biết bao! Vợ tìm chồng trong đêm tối, bóng đèn dìm dần trước nhà.
Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu đã sử dụng máu và nước mắt để viết ra những dòng văn đầy xúc động như thế!
Dù Nguyễn Đình Chiểu đã dùng lệ để ca ngợi sự hy sinh dũng cảm của những người lính với tấm lòng son sắt, “sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn vẫn theo giúp cơ linh, muôn kiếp vẫn thề trả thù kia”, tức là những con người đó đã chết nhưng vẫn sống. Nhưng lòng ta vẫn không thể ngăn được nỗi xót thương đau đớn!
Bức tượng đài hùng vĩ mà Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra bằng bút của mình sẽ luôn tồn tại cùng với non sông đất Việt. Đây là bức tượng đài đầu tiên về người nông dân đấu tranh! Chúng ta biết rằng, từ khi biết cầm cành cây chọc lỗ gieo hạt, người Việt cũng biết làm vót nhọn cành cây, chuốt nhọn đầu gậy để chống lại mọi kẻ thù bốn chân và kẻ thù hai chân! Họ thật sự là chủ nhân của đất nước. Nhưng trong văn học chính thống trước thời Nguyễn Đình Chiểu, họ chưa bao giờ trở thành nhân vật chính! Nay, Nguyễn Đình Chiểu đã trả lại vị thế xứng đáng cho những người lao động này. Nguyễn Đình Chiểu đã trở thành một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam cuối thế kỷ XIX với phần đóng góp đáng kể của “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”! “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” mãi mãi là “bài ca về những anh hùng thất bại” (Phạm Văn Đồng).
Hãy thắp một nén hương tưởng nhớ, hai lần tưởng nhớ, tưởng nhớ những anh hùng liệt sĩ, tưởng nhớ nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
Mytour