Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước có tấm lòng thương dân, thương cuộc sống sâu sắc. Ông đã để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Ngoài bản thơ nổi tiếng “Lục Vân Tiên”, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” được xem là tác phẩm vĩ đại nhất, thể hiện sâu sắc tư tưởng yêu nước và lòng nhân ái của tác giả. Với lòng kính trọng và tình cảm chân thành, nhà văn đã xây dựng một bức tượng vĩ đại về người nông dân – những người chất phác và mộc mạc, lại mang trong mình vẻ đẹp của người anh hùng dân tộc, sẵn sàng đấu tranh và hi sinh vì sự sống còn của đất nước.
Những người nông dân ấy, họ không sinh ra để trở thành những vị anh hùng như Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người mang trên mình bộ quần áo màu nâu của đất, giản dị và khiêm nhường. Nhưng họ xuất hiện trong bức tranh khắc nghiệt của thời đại:
Hỡi ơi!
Súng giặc rền, lòng dân hiển hiện
Họ đã không xa lạ với tiếng súng. Âm thanh đó đã phá vỡ cuộc sống yên bình của họ. Một cuộc sống dành cho đất, dành cho trời, một cuộc sống với nhiều lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã khiến họ trở nên nhỏ bé, sống trong vòng luẩn quẩn của “cui cút làm ăn”.. Một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ lên vòng xoáy cuộc sống không lối thoát của người dân Việt, những người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu từ việc “cui cút làm ăn” để kết thúc trong cảnh nghèo khó. Đằng sau hàng tre làng, họ không có “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong tầm nhìn của họ chỉ có “con trâu làm cơ nghiệp”. Dù đã quen với việc cày, việc làm nông nghiệp, nhưng việc sử dụng khiên, súng.. thật lạ lẫm.
Họ không bao giờ tưởng rằng họ phải chịu đựng mãi như thế. Khi quân xâm lược đến và chiếm lĩnh đất nước, chúng đang xâm chiếm từng mảnh đất ruộng, từng miếng đất quê hương ruột thịt của họ. Bây giờ, trong những thời điểm “lo toan” không chỉ là về đói nghèo mà còn là về lo sợ và bất an:
“Tiếng súng rền vang hơn mười tháng, giống như trời hạn mưa…”
Khi họ nhận ra rằng không thể nhìn những điều tồi tệ đó mà không làm gì, không thể ngồi yên và chờ đợi. Triều đình đã “từ bỏ” họ, nhưng không thể ngăn cản tình yêu đối với đất nước trong họ. Bọn xâm lược đã cướp đi những gì quý báu của họ, hủy hoại giấc mơ yên bình trong thôn quê, làm cho họ phải căm hận. Sự uất hận đó đã biến những người bình thường thành anh hùng trong truyền thuyết. Khi đất nước khó khăn, họ không ngần ngại chung vai, cống hiến. Tình yêu đối với đất nước đã trở thành lòng căm thù đối với kẻ thù:
“Khi thấy địch áp đặt, tôi muốn tới và chống lại.
Khi thấy khói đen phát ra từ ống súng, tôi muốn đi và đối mặt.
Nếu có mối nguy hiểm đến, ai sẽ đứng lên để chống lại?
Khi mặt trời lên, ai sẽ dũng cảm chống lại đám treo dê bán chó?”
Lòng yêu nước cháy bỏng từ trong tâm hồn đã làm cho họ trở nên tươi đẹp, rực rỡ… Dòng máu Việt Nam chảy trong họ, kết hợp với lòng yêu nước mạnh mẽ hơn cả sự yếu đuối, mạnh mẽ hơn cả cái chết. Khao khát đánh bại kẻ thù, khao khát chiến đấu, khao khát bảo vệ đất nước đã thúc đẩy họ, bất chấp việc “chờ rèn luyện”, “học võ thuật”, “sẵn sàng chiến đấu”, không quan tâm rằng họ chỉ có “một chiếc áo vải”. Những anh hùng thời kỳ XIX đã xuất hiện, “vượt qua rào cản”, coi như không có kẻ thù.
Ồ, “một chiếc áo vải”, “một thanh gươm”, chỉ có “một cây cày”, “một cành rơm”, liệu có thể đối đầu được với “tàu chiến, tàu sắt,” “đạn lớn, đạn nhỏ”. Đó là bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chính là tấn bi kịch của thời kỳ đen tối ấy. Họ là những nông dân nhưng lại làm cho chiến trường kinh ngạc. Có lẽ net lẽ đó là lý do vì sao bản hùng ca vang lên trong tiếng kêu của lòng dũng cảm. Có thể cuộc chiến có thể lấy đi cuộc sống của họ mãi mãi, nhưng tinh thần hy sinh vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về sức mạnh, chênh lệch với kẻ thù:
“Tiếng trống vang vọng, súng nổ…”
Hình tượng của những người nghĩa sĩ áo vải nổi lên trên hình ảnh đen tối của khói lửa ấy: những âm thanh rộn ràng (hè sang, đêm lại tới…) những động tác mạnh mẽ (đốt cháy, cắt giảm…). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành những anh hùng của một thời kỳ đáng nhớ. Trong tư thế dũng cảm đó, chân dung của những người mang trên vai số phận của quê hương lấp lánh. Họ biết rằng họ chỉ là những con người vô danh trong dòng dân tộc anh hùng, nhưng điều quan trọng nhất họ để lại là triết lý sống phù hợp cho muôn đời:
“Thà thắng một trận chiến để giữ vững tư cách, còn hơn là chịu đựng sự áp bức của kẻ thù tới mức vô thượng khổ đau”
Tinh thần đó, ý chí đó vẫn tỏa sáng trong lòng mỗi dân Cần Giuộc. Sống để trải qua sự nô lệ, bị chi phối bởi người tây phương, họ còn thà chiến đấu một lần và hy sinh hết mình để mang vinh quang về cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!”
Một tiếng khóc đầy nỗi oán trách, tiếng khóc đến đau lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những con người Cần Giuộc vĩnh viễn nằm yên trên mảnh đất của quê hương. Họ rơi xuống chiến trường đầy khói lửa. Vẫn còn nhiệm vụ với quốc gia chưa hoàn thành, bóng mẹ già với chiếc đèn le lói vẫn hiện về trong đêm. “Đau lòng quá! Mẹ già ngồi khóc cho con trẻ, chiếc đèn khuya sáng lên trong lều! Vợ yếu bỏ chạy tìm kiếm sự ủng hộ, bóng tối lan tỏa trước cửa”. Những người anh hùng đã ra đi về cõi thiên thai, để lại gia đình già yếu, người thân… Mai sau họ sẽ ra sao khi sự nghèo vẫn còn ám ảnh, khi nghĩa nước vẫn chưa được hoàn trả:
“Nước mắt anh hùng không ngừng rơi vì hai từ “thiên dân”, hương nghĩa sĩ vẫn thắp đèn thơm lên, tôn kính từng lời ca ngợi quê hương”
Nguyễn Đình Chiểu đã với lòng đồng cảm nhìn thấu, nghe thấu và tạo nên một bức tượng hoành tráng nhưng gần gũi, đầy tình yêu thương. Trong văn học dân tộc, hình ảnh người nông dân đã được đề cập nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều, chưa ai dám mở lời vẽ và tôn vinh hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân thường yêu nghĩa và hy sinh vì dân tộc”. Hơn nữa, việc mang hơi thở dân tộc vào văn chương đã làm cho “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của ông trở thành một tác phẩm vừa hùng bi tráng, vừa gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu có thể chỉ là một nhà thơ mù – “người ca hát lưu diễn của nhân dân”. Nhưng hình ảnh của người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã mở ra cho chúng ta một cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào về những con người nhỏ bé nhưng vẫn kiêu hãnh đối diện với sức mạnh tàn bạo. Tự hào về những người dân, lính, nghĩa sĩ vô danh chật vật đổ gục để bảo vệ sự toàn vẹn của đất nước. Họ là biểu tượng bất tử, sẽ mãi sống mãi trong lòng dân tộc.