Tượng trưng (tiếng Anh: symbol, tiếng Pháp: symbole) có thể hiểu rộng rãi là hình tượng được thể hiện dưới dạng kí hiệu, mang trong mình tính đa nghĩa của hình tượng.
Tất cả các tượng trưng đều là hình tượng (và ngược lại, hình tượng cũng là tượng trưng ở những mức độ khác nhau), nhưng phạm trù tượng trưng chỉ phần mà hình tượng vượt ra ngoài bản thân nó, thể hiện một ý nghĩa nào đó vừa hòa hợp với hình tượng vừa không hoàn toàn đồng nhất với nó.
Ví dụ như Sơn Tinh và Thủy Tinh, ngoài việc là hai kẻ đối đầu trong truyền thuyết, còn tượng trưng cho những điều sâu xa có thể được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Hình ảnh khách thể và ý nghĩa hàm chứa là hai yếu tố không thể tách rời trong tượng trưng (bởi vì nếu tách khỏi hình tượng, ý nghĩa sẽ mất tính hiện thực, còn nếu tách khỏi ý nghĩa, hình tượng sẽ bị phân tán thành các phần tử), nhưng tượng trưng được thể hiện qua sự kết hợp và phân chia giữa chúng.
Khi nhập vào tượng trưng, hình tượng trở nên “trong suốt”; ý nghĩa sẽ chiếu sáng qua nó, trở thành một nghĩa hàm sâu sắc và có chiều sâu.
Tượng trưng khác với phúng dụ về bản chất: nghĩa của tượng trưng không thể được giải mã chỉ bằng lý luận vì nó mang tính đa nghĩa. Cấu trúc nghĩa hàm của tượng trưng có nhiều lớp và phụ thuộc vào sự tiếp nhận của người xem.
Trong ý nghĩa hẹp, tượng trưng là một hình thức chuyển nghĩa (tương tự như phúng dụ). Khi kết hợp hai bình diện: nội dung “vật thể” và ý nghĩa ẩn dụ của nó, chúng tạo thành một đối sánh tượng trưng. Mỗi yếu tố trong hệ thống nghệ thuật (ẩn dụ, so sánh, tả cảnh, chi tiết, nhân vật,…) đều có thể trở thành tượng trưng.
Tuy nhiên, để chúng trở thành tượng trưng hay không phụ thuộc vào các yếu tố sau:
- Độ cô đọng của sự khái quát nghệ thuật, ví dụ: hình ảnh buổi sáng trong bài Giải đi sớm của Hồ Chí Minh, hình ảnh Ngọn đèn đứng gác của Chính Hữu;
- Ý định của tác giả trong việc chỉ ra ý nghĩa tượng trưng của các hình ảnh miêu tả, ví dụ: các hình ảnh hoa sen, ngôi sao trong bài Theo chân Bác của Tố Hữu;
- Văn cảnh tác phẩm và hệ thống sáng tác của nhà văn cho thấy một ý nghĩa tượng trưng độc lập với ý định miêu tả cụ thể của tác giả, ví dụ: ý nghĩa của hình ảnh buổi hoàng hôn trong các tiểu thuyết của Đốt-xtôi-ép-xki;
- Văn cảnh văn học của thời đại, ví dụ: hình ảnh non nước trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ,…
Việc nghiên cứu các đặc điểm và cấu trúc tượng trưng trong nghệ thuật giúp hiểu rõ hơn bản chất nghệ thuật của hình tượng văn học, đồng thời khắc phục quan niệm đơn giản về hình ảnh sao chép thực tế.
- Biểu tượng
- Ẩn dụ
- Hoán dụ
- So sánh