Tương tư - một trạng thái tâm hồn phổ biến và riêng biệt; một cái tôi thơ mới với nét sâu sắc của văn hóa dân gian và quê hương
BÀI LÀM
Trong phong trào Thơ mới, mỗi nhà thơ đã đóng góp bằng một phong cách riêng. Nếu thấy Xuân Diệu 'Tây 'hoặc 'tân kỳ' quá thì lại có thể tìm thấy trong cái tôi thơ mới của Nguyễn Bính một góc nhìn quê mùa. 'Nguyễn Bính đã đánh thức trong ta tâm hồn nhà quê ẩn mình...' (Hoài Thanh- Thi nhân Việt Nam). Bản chất quê mùa, linh hồn quê, tình quê, ngôi nhà quê,... là những khái niệm quen thuộc khi nhắc đến hồn thơ Nguyễn Bính. Tương tư,là một bài thơ điển hình cho phong cách thơ đó. Nhà thơ không chỉ nâng cao trạng thái tương tư lên mức phổ biến mà còn thể hiện những đặc điểm riêng biệt, độc đáo với vẻ đẹp của thơ
Nguyễn Bính là một nhà thơ vĩ đại của thơ lãng mạn Việt Nam thời kỳ 1932- 1945. Tiếng thơ của ông đóng góp vào dòng thơ Thơ mới một phong cách đặc trưng, một cái hay cái đẹp độc đáo có sức thu hút riêng đối với người đọc.
Nói về hồn thơ Nguyễn Bính là nói về một tâm hồn thơ 'chân quê'nhưng trong cả hai ông vẫn là nhà thơ mới. Nguyễn Bính đã đánh thức 'tâm hồn quê' bằng sự kết hợp giữa cảnh quê, con người quê, tình quê, từ ngữ quê và giọng điệu quê trong thơ. Bước vào thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bính như bước vào không gian làng quê và thời gian cổ tích, ở đó độc giả bắt gặp những cảnh, những con người 'thuộc quê' và đồng thời lắng nghe giọng điệu cảm xúc đậm đà sắc thái dân gian. Tuy nhiên, 'ai nói con người không thuộc quê hẳn?' bởi 'dấu vết của nơi mình sinh sống không chỉ thể hiện trên trang phục, Mà còn in sâu vào trong tâm hồn' (Hoài Thanh). Cảm xúc, tình cảm của nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Bính với những 'trải nghiệm cuộc đời', những bi kịch của tình yêu không được đáp lại, những nỗi buồn, cô đơn,... chính là cảm xúc, tâm trạng của cái tôi thơ mới mang ý thức, khao khát cảm nhận cái 'sự thật... cần thiết đến mức đau đớn' (Hoài Thanh).
Một ấn tượng sâu sắc đóng góp vào phong cách thơ của Nguyễn Bính là thể thơ lục bát. Trên con đường của Thơ mới, nếu lục bát của Huy Cận có vẻ cổ điển, thì lục bát của Nguyễn Bính lại gần gũi hơn với dân gian. Nguyễn Bính được coi là nhà thơ có tài năng, thậm chí là có bản năng về lục bát. Ông sáng tác lục bát nhanh chóng và tự nhiên như lời nói hàng ngày. Dáng vẻ của những câu lục bát của ông vừa thời đại vừa mang nét của ca dao, lấy cảm hứng từ giọng điệu, cách phối hợp từ ngôn từ và cách xây dựng câu thơ
'Tương tư' là sự nhớ nhau trong tình yêu đôi lứa. Tâm lý tương tư rất phức tạp, không chỉ bao gồm nhớ nhung và thương cảm mà còn kèm theo những ước ao, sự hờn giận và trách móc. Vì vậy, khi diễn đạt nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch mà còn có những lời dỗi hờn, thậm chí cả những lời mát mẻ, lấp lửng nữa. Tương tư chính là biểu hiện sống động nhất của tình yêu. Ai đã yêu mà không tương tư? Nỗi tương tư của nhân vật trữ tình trong bài thơ của Nguyễn Bính cũng như vậy.
Nhân vật tiết lộ tâm trạng tương tư là một chàng trai ở thôn Đoài. Người mà chàng tương tư là một cô gái ở thôn Đông. 'Hai thôn cách nhau một làng; nhưng nỗi tương tư thì lớn lên, sâu sắc. Nhớ nhung là trạng thái cảm xúc chính:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người nhớ chín, mười mong một người.
Gió mưa là tai ương của trời,
Tương tư là tai ương của tôi yêu nàng.
Hai thôn cách nhau một làng,
Tại sao bên ấy không sang bên này?
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh đã đổi thành lá vàng.
Chàng nôn nao mơ tưởng:
Bao giờ bến mới cập bờ?
Hoa khê nở, bướm vờn bay?
Rồi ước mơ xa xôi:
Nhà em có vườn phong phú.
Nhà anh có hàng cây cau nối.
Thôn Đoài nhớ thôn Đông,
Cây cau ở Đoài nhớ trầu ở Đông.
Tất cả những trạng thái cảm xúc trong nỗi tương tư của chàng trai được thể hiện một cách tự nhiên, chân thực và lồng vào nhau một cách tinh tế. Trong niềm nhớ mong có khát vọng, khát vọng cháy bỏng biến thành ước mơ xa xôi mà thường xuyên. Ước mơ, khát vọng, nhớ nhung, mong đợi làm cho trái tim yêu cảm thấy hoang mang, tưởng tượng xa xôi để rồi thở dài, trách móc,... Tất cả những trạng thái cảm xúc nghẹn ngào khiến cho chàng trai cảm thấy bất an, lo lắng trong tình yêu, nỗi tương tư trải rộng cả không gian và thời gian.
Tâm lý tương tư rất phức tạp, không chỉ bao gồm nhớ nhung và thương cảm mà còn kèm theo những ước ao, sự hờn giận và trách móc. Vì vậy, khi diễn đạt nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch mà còn có những lời dỗi hờn, thậm chí cả những lời nói mát mẻ, lấp lửng nữa.
Ngoài bề ngoài, việc trách móc cô gái là điều không công bằng. Trách người khác làm sao được khi mình chính là người không chủ động. Người ta không thể ép người khác yêu mình. Mình ngồi đợi chờ mà còn trách móc người khác.
Tuy nhiên, trong bên trong, lời trách móc của chàng trai không hề vô lý. Đây là một bài thơ, tác giả tạo ra một tình huống trữ tình để thể hiện nỗi niềm mà không nhất thiết phải dựa vào thực tế. Nhà thơ phải đặt chàng trai ở tư cách thụ động, đợi chờ mới có thể diễn tả được tâm trạng tương tư của một chàng trai quê như vậy. Ngoài ra, lời trách móc không phải là việc ghét bỏ, không giống như việc quy kết trách nhiệm, đổ lỗi thông thường. Đó là cách diễn đạt tình yêu - 'trách yêu'.
Tâm trạng chờ đợi không kiên nhẫn và mòn mỏi là không thể tách rời khỏi việc diễn tả thời gian. Điều này được thể hiện qua cách ngắt nhịp, cách điệp, giọng điệu và sự tả cảnh ngụ tình, sử dụng biến đổi không gian để biểu hiện thời gian. Ví dụ như trong cặp câu: Ngày qua ngày lại qua ngày Lá xanh đã đổi thành lá vàng.
Câu lục: Ngày qua ngày lại qua ngày
Nhịp 2/2/2 thông thường trong lục bát truyền thống đã được thay đổi thành nhịp 3/3 (Ngày qua ngày lại qua ngày), ý và lời phần sau lặp lại với phần trước. Cách thay đổi này làm cho từ 'lại' ở đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó thể hiện rằng dòng thời gian trôi qua chậm chạp, ngày mới chỉ là sự lặp lại của ngày cũ một cách buồn tẻ, vô vọng. Cả cách thay đổi nhịp và nốt nhân giọng ở từ 'lại' khiến cho giọng thơ như là lời kêu oan trách than, than thở. Tất cả những điều này tạo nên hình ảnh của một chàng trai với tâm trạng sống động chờ đợi đến mức mòn mỏi.
Câu bát: Lá xanh đã đổi thành lá vàng
Những dòng thơ truyền tả về thời gian và tâm trạng một cách tinh tế, ý nhị. Sự chậm trễ của thời gian đã được diễn tả ở câu trước, nhưng chỉ qua từ ngữ. Ở đây, thời gian bắt đầu hiện lên một cách sinh động. Thời gian không chỉ là một khái niệm, mà còn có màu sắc, được thể hiện qua sự chuyển đổi màu sắc: từ 'lá xanh' sang 'lá vàng'. Khi anh bắt đầu chờ đợi, cây vẫn xanh tươi, nhưng bây giờ, lá đã chuyển sang màu vàng. Thời gian trở nên thù địch với tâm trạng. Càng chậm trễ, tâm trạng càng nặng nề. Và khi tâm trạng mệt mỏi, thời gian cũng trôi chậm lại. Điều tinh tế nhất là từ 'nhuộm'. Đầu tiên, từ 'nhuộm' diễn tả sự chậm trễ của thời gian. So với từ 'nhuộm' trong bài thơ của Nguyễn Du: 'Rừng phong thu (lá nhuộm màu lá vàng)', từ 'nhuộm' ở đây nói về sự biến đổi màu sắc đang diễn ra, chưa hoàn toàn kết thúc. Trong khi 'nhuộm' trong bài thơ của Nguyễn Bính đã hoàn tất. Thứ hai, từ 'nhuộm' không xác định chủ thể. Ai đã làm cho sự biến đổi này xảy ra? Chủ thể không rõ ràng. Không phải chỉ thời gian hoặc sự thay đổi nội tại của cây lá, mà còn là tâm trạng tương tư. Tình yêu đã khiến trái tim héo hon, đã làm cho cây lá ấy đổi màu. Người tương tư và cây lá có một mối liên kết kỳ lạ. Cả hai đều là nhân chứng của tình yêu, đồng thời là nạn nhân của nó, và đặc biệt, là biểu hiện của nỗi tương tư. Có thể coi cây lá cũng là một biểu hiện của tình yêu. Cách thể hiện như vậy rất tinh tế, ý nhị.
Tương tự như việc nâng cao trạng thái tinh thần của nhân vật lên mức phổ quát mà vẫn riêng biệt, Tương Tư cũng chứa đựng nét quê mùa sâu sắc. Mối duyên quê của cặp đôi trong Tương Tư không chỉ là một phần của phong cảnh quê hương, mà còn là cơ hội cho nỗi tương tư của chàng trai và mối duyên của cặp đôi được thể hiện một cách chân thành. Những địa danh, cây cỏ, thuyền bè... (thôn Đoài, thôn Đông, lá cây, chiếc thuyền) thuộc về chốn quê mùa sinh ra không gian quê mùa cho nhân vật trữ tình bày tỏ nỗi tương tư của mình, đồng thời là phương tiện, thậm chí là ngôn ngữ để nhân vật trữ tình diễn đạt tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị.
Ngoài chất quê mùa rõ ràng, Tương Tư còn mang nét dân dã sâu sắc. Hình ảnh của chàng trai thôn Đoài nhớ người con gái thôn Đông không chỉ là một cách diễn đạt đơn giản, mà còn tạo ra hai nỗi nhớ cùng tồn tại và liên kết với nhau: người nhớ người và quê nhà nhớ quê nhà. Có người nhớ người nên mới có quê nhớ quê. Điều này phản ánh một quy luật tâm lý: khi tương tư, không chỉ trái tim mà cả không gian xung quanh đều bị nhiễm tương tư. Do đó, có hai không gian của tương tư. Cả hai thôn làm nên không gian của tương tư này, tạo nên một trạng thái nhớ nhung khôn xiết.
Hình ảnh của trầu và cây cau cũng mang đậm bản sắc dân gian và ý nghĩa sâu sắc. Không chỉ là hình ảnh của cây lá quê mùa, mà còn là biểu tượng của mối tình quê mùa sâu lắng, chung thủy. Trong bối cảnh của nỗi tương tư, cây trầu và cây cau như đang ngẩn ngơ: 'Cây cau ở thôn Đoài có nhớ cây trầu nào ở thôn Đông không?'. Hơn nữa, tác giả còn sử dụng tiếng nói địa phương đậm chất dân dã của một số vùng đồng bằng Bắc Bộ (giầu - cau), làm cho tình yêu quê mùa trở nên sâu sắc hơn và gần gũi hơn với cộng đồng dân dã.
Ngoài ra, trong bài thơ, Nguyễn Bính đã tạo ra một hệ thống cặp đôi phức tạp: thôn Đoài - thôn Đông; một người - một người; tôi - nàng; thôn - làng; bên này - bên kia; lá xanh - lá vàng; đây - đó; hoa - hướng;... Trong văn học, các hình ảnh này thường đi cùng nhau, là các biểu tượng của nhau và đôi khi còn hỗ trợ lẫn nhau. Nói về một hình ảnh, người ta thường nghĩ đến hình ảnh khác và ngược lại. Trong nhiều trường hợp, các hình ảnh này được sử dụng để biểu hiện tình yêu đôi lứa như bến cảng và thuyền, hoa và bướm, đặc biệt là trầu và cây cau. Ở đây, Nguyễn Bính đã mở rộng điều này, tạo ra một hệ thống phức tạp các hình ảnh cặp đôi để thể hiện ý nghĩa của tương tư và tâm trạng của người tương tư, đồng thời thể hiện mong muốn của họ được sống hạnh phúc bên nhau.
Khát khao tình yêu trong Tương Tư là khát vọng từ thời niên thiếu của bản thân. Bài thơ mang đậm dấu ấn của văn học dân gian, là một tác phẩm mới với sự phong phú của nền văn hóa dân tộc. Trong việc tái khám phá ca dao truyền thống, những bài thơ lục bát của Nguyễn Bính không chỉ có vẻ đẹp riêng, mà còn kỳ diệu và đọng lại sự 'tương tư' trong lòng những người yêu thơ.
Mytour