Pancreas | |
---|---|
1: Trưởng tuyến tuỵ 2: Quá trình (phần) độc lập của tuyến tuỵ 3: Khía tuyến tuỵ 4: Cơ quan của tuyến tuỵ 5: Bề mặt trước của tuyến tuỵ 6: Bề mặt kém hơn của tuyến tuỵ 7: Lề trên của tuyến tuỵ 8: Lề trước của tuyến tuỵ 9: Lề dưới của tuyến tuỵ 10: Củ từ 11: Đuôi của tuyến tuỵ 12: Tá tràng | |
Chi tiết | |
Tiền thân | các chồi tụy |
Động mạch | động mạch tá tràng cấp dưới, động mạch tá tràng cấp trên trước, động mạch tá tràng cấp trên sau, động mạch lách |
Tĩnh mạch | |
Dây thần kinh | đám rối tuyến tụy, hạch celiac, phế vị |
Bạch huyết | tĩnh mạch tuyến tụy, tĩnh mạch tuyến tụy |
Định danh | |
Latinh | Pancreass (Greek: Pankreas) |
MeSH | D010179 |
TA | A05.9.01.001 |
FMA | 7198 |
Thuật ngữ giải phẫu [Chỉnh sửa cơ sở dữ liệu Wikidata] |
Tủy (còn gọi là lá mía) là một cơ quan trong cơ thể động vật, nằm sau phúc mạc và có hai chức năng chính:
- Chức năng ngoại tiết: Tủy tiết ra các dịch tụy chứa enzyme tiêu hóa.
- Chức năng nội tiết: Tủy sản xuất và thải vào máu các hormone cần thiết.
Tủy thường bị nhầm lẫn với tỳ (lá lách). Trong tiếng Anh, tủy được gọi là pancreas, còn tỳ là spleen.
Giải phẫu học
Tủy là một cơ quan nằm sau phúc mạc, sát dạ dày và thành sau ổ bụng. Tủy có trọng lượng khoảng 80 gram, màu trắng nhạt hoặc hồng nhạt ở một số loài, và mỗi ngày tiết ra khoảng 0,8 lít dịch tụy.
Hình dạng của tụy khác nhau tùy theo loài. Ở cá, tụy là một khối nhão không có hình dạng rõ ràng. Ở ếch nhái và bò sát, tụy trở thành tuyến dính sát thành tá tràng. Ở chim, tụy nằm ở giữa đoạn cong của tá tràng. Ở người, tụy là một cơ quan nhỏ, hơi thuôn dài nằm trong ổ bụng.
Tủy được chia thành ba phần: đầu tụy, thân tụy và đuôi tụy. Đầu tụy tiếp xúc với đoạn tá tràng D2, còn đuôi tụy kéo dài đến gần lách. Ống tụy, hay ống Wirsung, kéo dài dọc theo tụy và dẫn lưu dịch tụy vào tá tràng D2. Điểm nối của ống tụy vào tá tràng gọi là bóng Vater. Ống mật chủ thường kết hợp với ống tụy gần hoặc tại bóng Vater, và theo một số tài liệu, nơi này được gọi là cơ vòng Oddi.
Tủy nhận máu từ các động mạch tá tụy, nhánh của động mạch mạc treo tràng trên. Máu tĩnh mạch từ tụy đổ vào tĩnh mạch lách rồi đến tĩnh mạch cửa. Tĩnh mạch lách chạy sát sau tuyến tụy nhưng không dẫn lưu máu của tụy. Tĩnh mạch cửa hình thành từ tĩnh mạch mạc treo tràng trên và tĩnh mạch lách. Ở một số người, tĩnh mạch mạc treo tràng dưới cũng đổ vào tĩnh mạch lách sau tuyến tụy, nhưng phần lớn trường hợp, nó đổ vào tĩnh mạch mạc treo tràng trên.
Chức năng
Tuyến tụy tiết ra dịch tiêu hóa có khả năng phân hủy gần như toàn bộ thành phần thức ăn.
Tụy ngoại tiết
Tụy được bao bọc bởi lớp bao tụy, giúp phân chia thành các tiểu thùy. Nhu mô tụy bao gồm các tế bào ngoại tiết chứa nhiều hạt nhỏ chứa enzyme tiêu hóa dưới dạng tiền chất (chủ yếu là trypsinogen, chymotrysinogen, lipase tụy và amylase).
Khi có kích thích phù hợp, các enzyme tụy được tiết vào ống tụy và chuyển vào ruột non tại đoạn D2 của tá tràng. Tại đây, enzyme enterokinase biến trypsinogen thành trypsin hoạt động. Trypsin, một endopeptidase, cắt chymotrypsinogen thành chymotrypsin hoạt động. Enzyme này tiếp tục phân hủy các polypeptide trong thức ăn thành các đơn vị nhỏ có thể hấp thu qua niêm mạc ruột. Việc tụy tiết enzyme dưới dạng tiền chất rất quan trọng để tránh việc các enzyme hoạt động tiêu hủy protein của chính tụy.
Dịch tụy chứa các enzyme tiêu hóa mỡ và protein, trong khi niêm mạc ruột chứa enzyme tiêu hóa đường. Nó cũng có các ion bicarbonate kiềm để trung hòa lượng acid từ dạ dày. Chức năng ngoại tiết của tụy được điều chỉnh bởi các hormone như gastrin, cholecystokinin và secretin, được tiết ra từ dạ dày và tá tràng khi thức ăn vào ống tiêu hóa và khi dịch tụy hoạt động.
Để duy trì cấu trúc và chức năng ngoại tiết của tụy, các enzyme được tiết ra dưới dạng tiền chất, chưa hoạt động để tránh tiêu hủy protein và mỡ. Tuy nhiên, nếu có vấn đề như ứ trệ, nhiễm trùng hay chấn thương, các enzyme có thể bị kích hoạt trong tụy, dẫn đến hiện tượng tự tiêu hủy gọi là viêm tụy cấp. Viêm tụy cấp có thể do sỏi, giun chui ống mật - tụy, v.v.
Tụy nội tiết
Trong nhu mô tụy ngoại tiết có các tiểu đảo tụy hay đảo Langerhans (khoảng 1-2 triệu đảo), là các nhóm tế bào tụ thành từng đám, nằm gần mạch máu và đổ vào tĩnh mạch cửa. Đây là phần nội tiết của tuyến tụy, có chức năng tiết các hormone quan trọng như insulin, glucagon, và một số hormone khác. Các tiểu đảo bao gồm ba loại tế bào chính: tế bào alpha, beta, và delta. Tế bào beta chiếm ưu thế và sản xuất insulin, tế bào alpha sản xuất glucagon, và tế bào delta sản xuất somatostatin, giúp giảm nồng độ glucagon và insulin trong máu.
- Tuyến tụy nội tiết: là phần nhỏ của tuyến tụy, bao gồm một số tế bào và chỉ chiếm một phần nhỏ khối lượng của tuyến.
- Tuyến tụy nội tiết tiết ra các hormone: Glucagon, Insulin, và Lipocain.
- Insulin làm giảm đường huyết; thiếu insulin có thể gây rối loạn trao đổi gluxit và bệnh đái đường.
- Glucagon làm tăng đường huyết và thúc đẩy phân giải glycogen thành glucose.
- Lipocain có tác dụng oxy hóa các axit béo; nếu mỡ không được oxy hóa và tích tụ nhiều, có thể gây nhiễm mỡ gan.
Rối loạn tuyến tụy
- Khối u không ác tính
- Ung thư tuyến tụy
- Xơ nang tụy: chủ yếu gặp ở người da trắng.
- Đái tháo đường: do thiếu hụt insulin tuyệt đối hoặc tương đối. Đây là bệnh mãn tính với tần suất cao và điều trị phức tạp, tốn kém, gây ra nhiều biến chứng nghiêm trọng như bệnh tim mạch, suy thận, loét mục, nhiễm trùng, đục thủy tinh thể, tổn thương dây thần kinh ngoại biên, liệt dương...
- Viêm tụy
- Viêm tụy cấp
- Viêm tụy mạn tính
- Nang giả tụy: thường là biến chứng của viêm tụy cấp.
- Giun chui ống tụy: thường gặp ở các nước nhiệt đới, có thể gây viêm tụy cấp.