Danh sách hơn 30 bài văn nghị luận về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi hay nhất, đồng thời cung cấp dàn ý chi tiết để học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn tốt hơn.
Top 30 bài văn nghị luận về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi (đỉnh cao)
Đề bài: Viết một bài văn nghị luận thể hiện những điều bạn cảm nhận được qua tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của danh nhân Nguyễn Trãi.
Viết một bài văn nghị luận thể hiện những điều bạn cảm nhận được qua tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi - mẫu 1
Nguyễn Trãi, nhà văn võ kiệt xuất không chỉ là minh chứng cho tài năng quân sự mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước sâu sắc và tình yêu quê hương mãnh liệt. Ông thể hiện sự xuất sắc trong lĩnh vực quân sự, và đồng thời là một anh hùng vĩ đại trong lòng dân. Nguyễn Trãi là hình mẫu hoàn hảo của người dân tộc vừa có võ vừa có văn, tuy nhiên ông cũng phải trải qua nhiều bi kịch và thăng trầm trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu Ức Trai, xuất thân từ tỉnh Hải Dương. Ông lớn lên trong một gia đình được biết đến với sự nổi tiếng của cả cha lẫn mẹ.
Trong tuổi thơ, Nguyễn Trãi phải đối mặt với nhiều biến cố đau buồn như mất mẹ khi mới 5 tuổi và mất ông ngoại khi 10 tuổi. Năm 1400, ông đỗ kỳ thi Thái học sinh và sau đó cùng cha tham gia làm quan nhà Hồ.
Năm 1407, khi quân Minh xâm lược, nhà Hồ thất bại và cha của Nguyễn Trãi bị bắt đi Trung Quốc, ông đã tham gia vào cuộc kháng chiến Lam Sơn chống lại quân Minh.
Trong thời kỳ 1428, sau khi cuộc kháng chiến Lam Sơn thành công, Nguyễn Trãi viết 'Bình Ngô đại cáo'.
Sau thời gian làm quan, vào năm 1439, do thấy thời cuộc đầy biến động, Nguyễn Trãi quyết định rút lui về cuộc sống ẩn dật.
Năm 1440, vua Lê Thái Tông triệu tập Nguyễn Trãi quay lại làm quan và giúp đỡ triều đình. Ông đáp lại lời kêu gọi của vua và chống lại oan của mình. Năm 1442, Nguyễn Trãi và vợ bị liên quan vào vụ án Lệ Chi Viên hãm hại vua và bị kết tội tru di tam tộc.
Ông cùng gia đình của mình đã phải chịu cảnh tử hình. Vụ án Lệ Chi Viên là một trong những bi kịch đau đớn nhất trong lịch sử Việt Nam.
Cho đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã chính thức phục hồi danh dự cho Nguyễn Trãi. Ông được công nhận là một danh nhân văn hóa toàn cầu vào năm 1980.
Nguyễn Trãi góp phần quan trọng vào văn học Việt Nam. Ông sáng tác nhiều tác phẩm bằng chữ Hán và chữ Nôm, trong đó có văn chính luận và thơ trữ tình.
Các tác phẩm nổi tiếng như “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo” cùng nhiều tác phẩm khác có giá trị. Tư tưởng chính trong các tác phẩm của ông là lòng nhân nghĩa và tình yêu quê hương. Hai tập thơ “Ức Trai thi tập” (chữ Hán) và “Quốc âm thi tập” (chữ Nôm) là những tác phẩm quý giá của ông.
Thơ trữ tình của Nguyễn Trãi đơn giản, ẩn chứa nhiều hình ảnh đẹp và cảm xúc sâu sắc. Ông là một thiên tài văn học nổi tiếng, kế thừa tinh hoa của văn học Lí – Trần. Trong thơ của ông, lòng yêu nước và nhân đạo được thể hiện rõ nét.
Nguyễn Trãi là một nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng trong lịch sử Việt Nam. Ông là một thiên tài quân sự, có tình yêu nước và tinh thần nhân ái. Đúng như lời vua Lê Thánh Tông trao tặng: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Tên tuổi của Nguyễn Trãi sẽ mãi tỏa sáng như ánh sao khuê, là niềm tự hào của dân tộc.
Dàn ý viết văn nghị luận về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi
1. Giới thiệu về Nguyễn Trãi.
- Đánh giá vai trò của Nguyễn Trãi trong văn học và lịch sử Việt Nam.
- Nguyễn Trãi - biểu tượng anh hùng dân tộc được truyền thông toàn cầu biết đến.
- Một danh tướng nổi tiếng, người sáng lập nhà Hậu Lê và cũng là một nhà thơ lỗi lạc.
- Dù cuộc đời ông gặp nhiều biến cố và đau khổ, nhưng ông để lại di sản văn học vô cùng quý báu cho thế hệ sau.
2. Bài thân
2.1 CUỘC SỐNG VÀ SỰ NGHIỆP
- Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu Ức Trai, quê gốc ở Hải Dương, sinh sống chủ yếu tại Thường Tín-Hà Nội.
- Con trai của Nguyễn Phi Khanh, là cháu ngoại của quan tư đồ Trần Nguyên Đán – một tước quý thời đại Trần.
- Hiệu: Ức Trai. Nguyên quán làng Chi Ngại (Chí Linh- Hải Dương). Sau đó chuyển về Nhị Khê (Thường Tín- Hà Tây)
- Gia đình ông có truyền thống văn hóa, yêu nước. Cha: Nguyễn Phi Khanh, Tiến sĩ làm quan dưới thời nhà Hồ; Mẹ: Trần Thị Thái, dòng dõi quý tộc, con của Trần Nguyên Đán.
- Nguyễn Trãi từ nhỏ phải chịu nhiều tổn thất và đau khổ.
- Năm 1407, ông làm quân sư cho Lê Lợi, sau đó rút về ẩn cư tại Côn Sơn.
- Năm 1440, Lê Thánh Tông mời ông trở lại làm quan. Năm 1442, vua qua đời đột ngột, Nguyễn Trãi bị kết án và chịu án tru di tam tộc.
⇒ Cuộc đời của một anh hùng dân tộc, một nhà lãnh đạo toàn diện hiếm có. Nguyễn Trãi vừa là một nhà chính trị, vừa là một nhà văn, một nhà thơ tài hoa. Cuộc đời của ông là bi kịch của một con người bị oan khiên đau đớn.
- Nguyễn Trãi được công nhận là danh nhân văn hóa thế giới vào năm 1980.
2.2. SỰ ĐÓNG GÓP TRONG LĨNH VỰC VĂN HỌC
- Văn hóa dân tộc: Đóng góp vào việc xây dựng nền văn hóa quốc gia. Trong số những tác phẩm và nhân tài văn hóa, có thể kể đến: Tập truyện 'Quân Trung Từ Mệnh', Bản diễn văn 'Đại Cáo Bình Ngô' cho thấy phẩm chất xuất sắc của nhà văn chính luận. 'Quốc Âm Thi Tập' là bộ sưu tập thơ viết bằng chữ Nôm sớm nhất, phong phú nhất và xuất sắc nhất đến nay.
2.2.1. CÁC TÁC PHẨM CHÍNH:
- Tập truyện 'Quân Trung Từ Mệnh'
Bản diễn văn 'Đại Cáo Bình Ngô'
Lịch sử Lam Sơn
Thư lục văn học
- Thể loại thơ
Thơ viết bằng chữ Hán: phong phú trong tình cảm, mô tả thiên nhiên, di tích lịch sử, tâm trạng, và ý chí.
Thơ viết bằng chữ Nôm: là tiếng kêu than của người đau khổ vì không thực hiện được ước mơ của mình, lo lắng về tương lai phức tạp.
⇒ Nguyễn Trãi được biết đến là một nhà văn chính luận tài năng
2.2.2. Nguyễn Trãi được coi là một nhà thơ sâu lắng trong tình cảm
- Tích hợp giữa nhân văn và sự tưởng tượng, Nguyễn Trãi mô tả sự đồng nhất giữa con người thông thường và anh hùng.
- Lý tưởng về nhân nghĩa kết hợp với lòng thương xót dành cho dân chúng, vì dân tránh khỏi bất công.
- Tự nhận thức mình như cây trúc, cây mai, cây tùng: vững vàng, cao quý, trong sạch → những phẩm chất cao quý của người quân tử được dành để phục vụ đất nước và nhân dân
- Nỗi đau của con người
- Mong muốn xây dựng một đất nước giàu mạnh, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân
- Tình yêu thiên nhiên đa dạng và phong phú
2.2.3. Nghệ thuật:
- Sáng tạo và biến đổi các thể loại:
+ Thơ sáu ngôn: sáu bề
+ Thơ Đường luật thất ngôn với việc chèn một số câu bằng thể loại thơ sáu ngôn.
- Sử dụng hình ảnh gần gũi, phổ biến của dân tộc Việt Nam. – Cảm xúc trong bài thơ rất tinh tế.
3. Kết luận
- Nguyễn Trãi không chỉ dành cả cuộc đời cho sự nghiệp “trí quân trạch dân” mà còn có đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học dân tộc.
- Nguyễn Trãi được coi như một vì sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam.
- Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi xứng đáng được kính trọng và ghi nhớ suốt muôn đời.
Viết một bài văn nghị luận biểu hiện những cảm nhận sau khi tìm hiểu về cuộc đời và công lao của Nguyễn Trãi - mẫu 2
Nguyễn Trãi (1380-1442) là một anh hùng dân tộc vĩ đại, là một tài năng hiếm có trong lịch sử quốc gia, được coi là một biểu tượng văn hóa toàn cầu nhưng cũng phải gánh chịu nhiều thử thách khốc liệt nhất trong thời kỳ phong kiến Việt Nam.
Nguyễn Trãi sinh ra trong gia đình nghèo nhưng hiệu thảo, mẹ thuộc dòng dõi quý tộc nhà Trần. Nguyễn Trãi mất mẹ sớm và được ông ngoại Trần Nguyên Đán nuôi dưỡng cẩn thận.
Ông thi đỗ và phục vụ nhà Hồ cùng với cha năm 1400. Khi giặc Minh xâm lược nước ta năm 1407, cha Nguyễn Trãi bị bắt và dẫn sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi ban đầu đi theo cha nhưng sau đó quay lại để giúp đất nước.
Ông bị giặc Minh giam cầm 10 năm ở Đông Quan trước khi trốn thoát và tham gia vào cuộc kháng chiến cùng Lê Lợi chống lại Minh đến khi chiến thắng hoàn toàn năm 1427.
Ông nỗ lực tái thiết và phát triển đất nước nhưng bị gian thần ghen ghét và nghi ngờ, không được tin dùng nhiều.
Năm 1439, ông quyết định lui về ẩn dật, nhưng năm 1440, vua trẻ Lê Thái Tông kêu gọi ông ra giúp đỡ nước nhà.
Năm 1442, trong chuyến đi duyệt binh tại Chí Linh, vua Lê Thái Tông ghé thăm Nguyễn Trãi tại Côn Sơn, sau đó đột ngột qua đời tại Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi bị gian thần gán tội giết vua và bị xử tử cảnh cáo tam tộc.
Vào năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, tìm kiếm con cháu ông, thu thập lại tác phẩm văn thơ của ông và khẳng định tinh thần, lòng trung kiên, và tâm hồn cao quý của Nguyễn Trãi với câu nói nổi tiếng “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.
Nguyễn Trãi là một nhà chính trị, quân sự, giáo dục, và lập pháp tài ba của dân tộc. Ông không chỉ là một vị lãnh tụ, mà còn là người sáng lập văn học Việt Nam. Ông là tác giả nổi tiếng của nhiều thể loại văn học cả trong lĩnh vực chữ Hán và chữ Nôm. Ông để lại một tập lớn tác phẩm có giá trị, trong đó có “Đại cáo bình Ngô”, “Quân trung từ mệnh tập”…
Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận vĩ đại của văn học trung đại Việt Nam. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo của ông được đánh giá là “kiệt tác cổ kính”, là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. “Quân trung từ mệnh tập” được xem là “mạnh mẽ như 10 vạn quân”. Các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi có luận điểm vững chắc, lập luận sắc bén, và ngôn từ linh hoạt. Trong đó, luận điểm cơ bản là tư tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước thương dân.
Ông cũng là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ của ông thể hiện tâm hồn, con người ông từ góc nhìn phổ thông, thường nhật hòa quyện với con người anh hùng vĩ đại. Đọc thơ của Nguyễn Trãi, ta cảm nhận được những lo âu về dân tộc và đất nước, thấy được phẩm chất thanh cao, lòng yêu thiên nhiên cây cỏ của ông.
Nguyễn Trãi đã có đóng góp quan trọng vào việc phát triển chữ Nôm và Việt hóa thơ Đường thông qua việc sử dụng thạo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Ông mang vào thơ những hình ảnh dân dã quen thuộc một cách tự nhiên, tinh tế.
Ông được đánh giá là một thiên tài văn học, là hình mẫu tinh hoa của văn hóa Lí-Trần, là người mở ra một giai đoạn mới của thơ viết bằng tiếng Việt. Thơ văn của ông kết hợp đủ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là lòng yêu nước và lòng nhân đạo.
Viết một bài văn nghị luận biểu hiện những điều bạn cảm nhận được sau khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - mẫu 3
Nguyễn Trãi không chỉ được mọi người tôn kính về tài năng quân sự mà còn về lòng yêu nước, tận trung với đất nước và dân tộc. Ông đã cống hiến suốt đời và có đóng góp to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nước nhà, xứng đáng là một anh hùng của dân tộc.
Với những chiến lược quân sự thông minh, khả năng ngoại giao chính trị, và tài năng văn hóa, Nguyễn Trãi được coi là một nhà văn hào của dân tộc. Tuy nhiên, ông cũng phải chịu nhiều oan khiên đau đớn trong thời kỳ phong kiến của lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Trãi, hay còn gọi là Ức Trai (1380-1442), sinh ra tại Nhị Kê (Hà Tây), cha là Nguyễn Phi Khanh, mẹ là Trần Thị Thái, con gái của quan Trần Nguyên Đán – một quý tộc thời Trần. Ông lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước và văn hóa, năm 1400 ông đỗ kỳ thi Thái học sinh.
Nguyễn Trãi sống trong thời kỳ đất nước đang trải qua những biến cố mạnh mẽ. Ông mất mẹ từ khi mới 6 tuổi và thi đỗ kỳ thi Thái học khi 20 tuổi. Cùng với cha, ông phục vụ triều nhà Hồ. Tuy nhiên, khi giặc Minh xâm lược năm 1407, cha của Nguyễn Trãi bị bắt sang Trung Quốc.
Nguyễn Trãi tuân theo lời dặn của cha là “rửa nhục cho nước, trả thù cho cha”. Ông tham gia cùng với Lê Lợi vào cuộc kháng chiến, góp phần quan trọng vào chiến thắng của dân tộc sau hơn 10 năm chiến đấu.
Sau khi giặc Minh bị đánh bại và dân tộc hòa bình, Nguyễn Trãi bị một số quan lại ganh ghét và hãm hại. Ông mất đi sự tin tưởng và ủng hộ như trước, buộc phải xin về Côn Sơn.
Năm 1440, khi Lê Thái Tông mời ông đến tham gia công việc lớn, ông đang tích cực hỗ trợ vua thì xảy ra một vụ án oan trái (Lệ Chi Viên – Bắc Ninh) và vua đột ngột qua đời. Bọn gian thần vu cho ông bị buộc tội giết vua và chuộc tội cho tộc họ của ông (1442). Hơn 20 năm sau (1464), Lê Thánh Tông mới giải tỏa oan khuất này cho Nguyễn Trãi. Nhà vua đã thu thập lại tác phẩm văn thơ của ông và tìm lại con cháu của ông.
Nguyễn Trãi là một nhà tài năng vô song, không chỉ là một nhà chính trị, quân sự, ngoại giao xuất sắc mà còn là một nhà văn vĩ đại của văn học Việt Nam. Các tác phẩm của ông phản ánh cuộc đời, số phận, và những gian nan ông đã trải qua.
Sau khi ông qua đời, nhiều tác phẩm của ông bị lệnh tiêu hủy. Mất 20 năm, Lê Thánh Tông ra lệnh sưu tầm các tác phẩm của ông, nhưng sau đó bị thất lạc. Cho đến đầu thế kỷ 19 mới tìm thấy và phát hành lại một phần của chúng.
Ông để lại một di sản văn học phong phú, bao gồm nhiều tác phẩm quý giá: về quân sự và chính trị, có “Quân trung từ mệnh tập” - bao gồm thư từ và tài liệu giao thiệp với quân Minh và triều đình nhà Lê. “Bình Ngô đại cáo” là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống lại quân Minh và mở ra một thời kỳ mới cho đất nước...
Về lịch sử, có “Lam Sơn thực lục”, tài liệu về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và “Dư địa chí” - một tác phẩm về địa lý của đất nước vào thời điểm đó.
Trong văn học, Nguyễn Trãi sáng tác “Ức trai thi tập” và “Quốc Âm thi tập”. “Quốc Âm thi tập” được viết bằng chữ Nôm, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thơ ca Tiếng Việt.
Ông đứng đầu trong việc phát triển thơ Nôm trong hàng ngàn tác phẩm chữ Hán của thời đại.
Ngoài ra, tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên đã thấm nhuần vào thơ văn của ông. Tư tưởng nhân nghĩa, kết hợp với tình yêu nước và lòng thương dân, là trụ cột suốt cuộc đời của Nguyễn Trãi.
Thơ của Nguyễn Trãi thể hiện sâu sắc những triết lí thế sự, đồng thời giản dị, kể lại những trải nghiệm đau đớn trong cuộc sống. Trong thơ của ông, tình yêu thiên nhiên hiện diện mạnh mẽ, với thiên nhiên được coi như người bạn thân thiết, là một phần của gia đình.
Thơ văn của Nguyễn Trãi đạt tới đỉnh cao của văn học dân tộc, ông đã có nhiều đóng góp to lớn cho văn học Việt Nam. Bên cạnh các bài thơ, tác phẩm văn xuôi, luận, ông còn góp phần quan trọng trong việc xây dựng nền văn hóa tư tưởng cho dân tộc.
Thể loại thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi thể hiện một thế giới thẩm mĩ phong phú, kết hợp giữa trữ tình, trí tuệ và hào hùng, lãng mạn. Trong khi đó, thơ Nôm của ông là tiên phong và đa dạng, mang đậm tinh thần tri thức, sâu sắc và tinh tế.
Nguyễn Trãi đã sớm tích hợp tục ngữ vào tác phẩm thơ của mình, đồng thời sáng tạo ra hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một điều không tưởng trước đó. Ông được coi là một nhân vật tài năng và đầy đức tính, góp phần to lớn trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến.
Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa vĩ đại và cũng là một trong những số phận bi thương nhất trong lịch sử Việt Nam. Ông không chỉ góp phần viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc mà còn đóng góp quan trọng trong việc phát triển văn học dân tộc.
Tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân được Nguyễn Trãi nâng cao, cùng với tình yêu sâu đậm đối với cảnh vật thiên nhiên của đất nước, thể hiện trong ngôn từ Việt tinh tế và chân thành.
Viết một bài văn nghị luận thể hiện những điều bạn cảm nhận được qua tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - mẫu 4
Nguyễn Trãi, anh hùng tài ba, không chỉ tỏ ra xuất sắc trong lĩnh vực quân sự mà còn tỏ lòng yêu nước và tận trung với quê hương. Ông là biểu tượng của sự văn võ hòa quyện, nhưng số phận của ông cũng là một bi kịch trong lịch sử dân tộc.
Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, sinh ra ở Hải Dương, là một trong những người nổi tiếng trong gia đình. Cha mẹ ông đều có tiếng vang.
Tuổi thơ của Nguyễn Trãi gắn liền với những đau thương: mất mẹ khi mới 5 tuổi, mất ông ngoại khi 10 tuổi. Ông đỗ Thái học sinh vào năm 1400, gia đình ông tham gia vào triều nhà Hồ.
Năm 1407, khi giặc Minh xâm lược, cha ông bị bắt sang Trung Quốc, ông buồn bã nhưng không thể làm gì khác ngoài việc tham gia vào cuộc kháng chiến của Lam Sơn.
Vào năm 1428, sau khi Lam Sơn đánh bại giặc Minh, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”.
Sau một thời gian làm quan, vào năm 1439, với sự biến động của triều đình, Nguyễn Trãi quyết định rút lui vào ẩn cư.
Năm 1440, Lê Thái Tông kêu gọi nhân tài, mời Nguyễn Trãi ra làm quan và giúp đỡ việc nước. Ông đáp lại lời kêu gọi của vua và cống hiến mình cho công cuộc cứu dân. Tuy nhiên, năm 1442, ông và vợ của mình bị kết án oan ác trong vụ Lệ Chi Viên, bị kết tội tru di tam tộc.
Gia đình Nguyễn Trãi đã chịu xử tử trong ba thế hệ. Vụ án Lệ Chi Viên được coi là bi kịch nhất trong lịch sử Việt Nam. Cho đến năm 1464, Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông được công nhận là một danh nhân văn hóa toàn cầu vào năm 1980.
Nguyễn Trãi có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam. Ông viết nhiều tác phẩm bằng chữ Nôm và chữ Hán, từ văn chính luận đến thơ trữ tình. Các tác phẩm nổi bật như “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo” và nhiều chiếu, biểu có giá trị khác. Tư tưởng chủ đạo trong tác phẩm của ông là sự nhân nghĩa, lòng yêu nước và thương dân. Hai tập thơ “Ức Trai thi tập” (chữ Hán) và “Quốc âm thi tập” (chữ Nôm) được đánh giá cao.
Thơ trữ tình của Nguyễn Trãi đơn giản, giàu hình ảnh, chứa đựng sự ước lệ. Ông là thiên tài văn học nổi tiếng, phản ánh tinh thần của văn học Lí – Trần. Thơ của Nguyễn Trãi kết hợp giữa lòng yêu nước và tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Nguyễn Trãi là một nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông là thiên tài quân sự, yêu nước và thương dân. Như vua Lê Thánh Tông đã trao tặng cho ông danh hiệu “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Tên tuổi của Nguyễn Trãi sẽ luôn tỏa sáng như ánh sao Khuê, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Viết một bài văn nghị luận thể hiện những cảm nhận của bạn sau khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam nổi tiếng với nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong lịch sử Việt Nam, ông được biết đến là một nhà chính trị quân sự tài ba, với tầm nhìn sâu rộng và lòng yêu nước sâu sắc. Mặc dù đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của đất nước, nhưng Nguyễn Trãi cũng phải chịu một số bi kịch, đặc biệt là vụ án oan Lệ Chi Viên.
Nguyễn Trãi (1380-1442), tên hiệu Ức Trai, quê gốc tại làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau đó gia đình chuyển đến Định Khê, Thường Tín, Hà Nội. Ông sinh ra trong một gia đình danh giá, được truyền thống văn hóa, yêu nước và có chức tước nhiều đời. Tuy nhiên, từ thuở nhỏ, Nguyễn Trãi đã phải đối mặt với nhiều mất mát đau thương, nhưng với nền giáo dục tốt, ông đã trở thành căn cơ cho sự nghiệp sau này. Cha ông, Nguyễn Ứng Long (sau đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh), là một nho sĩ uyên bác, từng đỗ Thái học sinh dưới thời Trần, và mẹ là con gái thứ ba của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Sau khi tham gia nghĩa quân Lam Sơn và góp phần vào cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên, kết thúc cuộc đời đầy gian nan của một nhà văn vĩ đại.
Nguyễn Trãi không chỉ nổi tiếng với sự nghiệp chính trị và quân sự mà còn là một bậc kỳ tài có am hiểu sâu rộng trong nhiều lĩnh vực. Các tác phẩm của ông đã trở thành mẫu mực, có ý nghĩa tham khảo cho các thế hệ sau này. Ông để lại nhiều tác phẩm lịch sử như Vĩnh Lăng thần đạo bi, Lam Sơn thực lục, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục. Trong lĩnh vực địa lý, ông để lại Dư địa chí hay Ức Trai thi tập Nam Việt Dư địa chí, là bộ sách về địa lý cổ nhất của Việt Nam. Trong chính trị và quân sự, Nguyễn Trãi nổi tiếng với Bình Ngô Đại cáo và Quân trung từ mệnh tập. Ông cũng để lại nhiều tác phẩm thơ xuất sắc như Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập.
Nguyễn Trãi còn được biết đến là một nhà văn chính luận kiệt xuất và một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Tác phẩm của ông không chỉ xuất sắc về hành văn và nội dung mà còn thể hiện tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, và phẩm cách quân tử. Bình Ngô Đại cáo và Quân trung từ mệnh tập là những tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Trãi trong lĩnh vực chính luận. Trong thơ ca, ông để lại những tác phẩm như Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập, thể hiện tài năng văn chương đa dạng của mình.
Nguyễn Trãi là một nhà văn kiệt xuất và một nhà thơ trữ tình tài ba. Tác phẩm của ông thể hiện tư tưởng yêu nước, lòng nhân nghĩa, và những cảm xúc sâu lắng về con người và cuộc đời. Ông đã góp phần lớn vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và để lại những tác phẩm văn chương vĩ đại như Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập.
Nguyễn Trãi là một trong những anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, với sự đóng góp to lớn cho sự độc lập và tự do của quê hương. Ông là biểu tượng của lòng yêu nước sâu sắc và tài năng văn chương vượt thời đại. Công trạng của Nguyễn Trãi được khắc ghi trong lịch sử và là nguồn cảm hứng cho thế hệ sau.
Nguyễn Trãi là một tượng đài của văn học và chính trị Việt Nam, với tài năng vượt bậc và lòng yêu nước sâu sắc. Cuộc đời và sự nghiệp của ông là nguồn cảm hứng không chỉ cho người Việt mà còn cho toàn thế giới. Viết về Nguyễn Trãi là viết về một mảnh sử sách vĩ đại, là viết về một tấm gương sáng cho thế hệ mai sau.
Nguyễn Trãi (1380-1442) là một nhà chính trị nổi tiếng. Ông theo học Thái học và bắt đầu sự nghiệp làm quan dưới thời nhà Hồ. Mặc dù có gia thế cao- mẹ là con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, cha là Nguyễn Ứng Long cũng từng làm quan lớn dưới thời nhà Trần, nhưng Nguyễn Trãi đã trải qua nhiều mất mát đau đớn từ khi còn nhỏ: mất mẹ khi mới 5 tuổi, sau đó là mất ông ngoại khi Nguyễn Trãi chỉ 10 tuổi. Sau khi tốt nghiệp Thái học, ông và cha cùng tham gia làm quan dưới thời nhà Hồ.
Năm 1407, khi giặc Minh xâm lược, cha ông bị bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đã lẩn trốn để gia nhập quân Lê Lợi. Mặc dù trung thành, nhưng với lòng nợ nước và thù nhà, ông đã phản bội. Dưới sự hỗ trợ của Nguyễn Trãi, quân Lam Sơn đã giành chiến thắng. Mặc dù ông dành trọn trái tim để phục vụ vua và nước nhưng lại bị các thần tình ghen ghét, bị nghi ngờ và không được tin tưởng nhiều. Năm 1439, Nguyễn Trãi xin rút lui để ẩn dật, nhưng vào năm 1440, vua trẻ Lê Thái Tông lại mời ông trở lại để giúp đỡ nước nhà. Năm 1442, trong chuyến đi du xuân tới Chí Linh, nhà vua ghé thăm Nguyễn Trãi tại Côn Sơn, sau đó đột ngột qua đời tại Lệ Chi Viên. Nguyễn Trãi bị các thần tình vu oan và bị xử án trừng phạt tám tộc.
Vào năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi, tìm kiếm con cháu của ông và thu thập lại thơ văn của ông, khẳng định tính cách, tấm lòng và tâm hồn cao lớn của Nguyễn Trãi với câu nói nổi tiếng “Tấm lòng cao quý của Ức Trai ánh sáng muôn nơi”.
Nguyễn Trãi cũng là một nhà văn, nhà thơ tài năng. Ông là tác giả xuất sắc của nhiều thể loại văn học cả trong lĩnh vực chữ Hán và chữ Nôm. Ông đã để lại một lượng lớn tác phẩm có giá trị như “Đại cáo Bình Ngô”, “Quân trung từ mệnh tập”, “Lam Sơn thực lục”, “Tuyển tập thơ Ức Trai”, “Tuyển tập thơ Quốc âm”,…
Nguyễn Trãi - nhà văn chính luận kiệt xuất. Tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo” của ông được coi là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi có luận điểm mạnh mẽ, lập luận sắc bén, giọng điệu linh hoạt. Trong đó, luận điểm cốt lõi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt đến trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến cấu trúc chặt chẽ, lập luận sắc bén.
Ông cũng là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ của ông thể hiện tâm hồn, con người ông từ phương diện bình thường, trần thế hòa quyện với con người anh hùng vĩ đại. Đọc thơ của Nguyễn Trãi, chúng ta cảm nhận được nỗi lo âu, trăn trở về dân tộc và đất nước, thấy được phẩm cách cao quý, lòng yêu thiên nhiên của ông.
Nguyễn Trãi được coi là một thiên tài văn học, văn chương của ông kết hợp hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là tình yêu nước và lòng nhân đạo. Ông đã đem lại cho văn học dân tộc thơ Đường viết bằng chữ Nôm, đồng thời làm cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học phong phú và đẹp mắt. Năm 1980, Nguyễn Trãi đã được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Viết một bài văn nghị luận thể hiện những suy tư của bạn sau khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - một biểu tượng quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, tự là Ức Trai, quê gốc tại Chi Ngải (Chí Linh, Hải Dương) nhưng sau này chuyển về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học giả nghèo, xuất sắc, tốt nghiệp Thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con của Trần Nguyên Đán, một quý tộc thời Trần. Ông mất mẹ khi mới sáu tuổi, và mất ông ngoại khi lên mười tuổi. Sau đó, ông cùng cha về ở Nhị Khê, nơi cha dạy ông học. Năm 1400, ông đỗ Thái học sinh và cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ. Năm 1407, khi giặc Minh xâm lược, cha ông bị đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và em trai đi theo chăm sóc. Nghe lời cha, ông quay về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông gia nhập lực lượng của Lê Lợi. Trong mười năm chiến đấu, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng vào chiến thắng lớn của dân tộc.
Đầu năm 1428, sau khi đánh bại quân thù, Nguyễn Trãi tích cực tham gia vào công cuộc tái thiết đất nước nhưng bị vu oan và bị giam giữ. Sau đó, ông được tha, nhưng không còn được tin tưởng như trước. Ông buồn, quyết định rút về Côn Sơn, từ năm 1438 - 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại và giao phó cho ông nhiều nhiệm vụ quan trọng. Ông đã nỗ lực giúp đỡ vua nhưng lại xảy ra vụ việc khiến vua bất ngờ qua đời tại Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Bị ganh tị từ lâu, kẻ thù trong triều tình đã bày mưu hãm hại Nguyễn Trãi, buộc ông vào tội ám sát vua và kết án ông đày tội.
Hơn hai mươi năm sau, vào năm 1464, Lê Thánh Tông mới giải thoát cho Nguyễn Trãi và tổ chức thu thập lại các tác phẩm văn học của ông, cũng như tìm kiếm người con trai sống sót để làm quan.
Nhìn chung, trong cuộc đời của Nguyễn Trãi, có hai điểm quan trọng nhất:
Nguyễn Trãi là một anh hùng dân tộc vĩ đại và là một nhân vật toàn diện, hiếm có trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến. Ông không chỉ là một nhà chính trị, một tướng lĩnh, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, mà còn là một nhà thơ vĩ đại. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi cũng phải trải qua nhiều sự oan trái, do xã hội của thời đại gây ra, đến mức hiếm có trong lịch sử.
Ông là một nhà văn, nhà thơ tài ba: Ngoài vai trò anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là một nhà văn, nhà thơ tài năng. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị. “Quân trung từ mệnh tập” là một tập thư gửi đến các tướng quân và những tài liệu giao tiếp với triều Minh, với mục tiêu thực hiện chiến lược “đánh vào lòng dân”, mà ngày nay được gọi là tác chiến. “Bình Ngô đại cáo” là tuyên ngôn của Lê Lợi sau mười năm chiến đấu chống lại giặc, khẳng định chính nghĩa quốc gia, tinh thần dân tộc, và quá trình gian khổ và anh dũng để đạt được chiến thắng cuối cùng, giành lại hòa bình cho quốc gia. “Lam Sơn thực lục” là một bản sử ký về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. “Dư địa chí” là một tác phẩm về địa lý lịch sử của đất nước. “Chí Linh sơn phú” kể về những trận chiến khốc liệt và anh hùng trong cuộc kháng chiến chống lại giặc Minh. Tất cả các tác phẩm đều được viết bằng chữ Hán. Vào năm 1980, Nguyễn Trãi đã được tổ chức UNESCO công nhận là một danh nhân văn hóa của thế giới.
Viết một bài luận diễn đạt những cảm nhận của bạn sau khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - một tượng đài trong lịch sử Việt Nam.
Trong hành trình xây dựng và bảo vệ quê hương của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là một người nổi bật. Tài năng, trí tuệ và phẩm chất của ông rực sáng như sao Khuê, chiếu sáng cho muôn đời sau. Ông được xem là “hơi thở của dân tộc, là tinh thần của dân tộc. Công việc và tác phẩm của ông là một bài hát ca tự hào về quê hương, về dân tộc”. Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà chính trị, một vị tướng lĩnh, một nhà ngoại giao thiên tài đã có đóng góp to lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn là một tác giả xuất sắc với nhiều tác phẩm vĩnh cửu.
Nguyễn Trãi (1380–1442), còn được biết đến với hiệu Ức Trai. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống học thuật và lòng yêu nước sâu sắc. Cha của ông, Nguyễn Phi Khanh, là một học trò nghèo đã đỗ Thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ của ông là Trần Thị Thái, con gái của quan Trần Nguyên Đán. Nguyên quán của Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nhưng ông sinh sống tại Thăng Long và sau đó chuyển về làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Từ khi còn nhỏ, Nguyễn Trãi đã phải trải qua nhiều khó khăn và thách thức.
Khi Nguyễn Trãi 5 tuổi, mẹ ông qua đời, và không lâu sau đó, ông ngoại cũng ra đi. Ông sống với cha tại làng Nhị Khê. Cuộc đời của ông được đánh dấu bởi những khó khăn và thử thách.
Năm 1400, sau khi lên ngôi, vua Hồ Quý Ly tổ chức một cuộc thi khoa học. Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) khi mới 20 tuổi. Ông được vua Hồ Quý Ly bổ nhiệm vào vị trí Ngự sử đài chánh chưởng. Cha của ông, Nguyễn Phi Khanh, đã đỗ bảng từ năm 1374 và được vua Hồ Quý Ly bổ nhiệm vào chức vị Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1406, quân Minh xâm lược nước ta. Nhà Hồ ra trận đánh, nhưng bị đánh bại. Hồ Quý Ly và con trai, cùng một số quan thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh, bị bắt và dẫn về Trung Quốc. Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại và tham gia vào cuộc chiến đấu, cứu nước.
Ông đã vượt qua vòng vây của quân Minh để đến Thanh Hóa và gặp Lê Lợi. Ông đã trình bày cho Lê Lợi một chiến lược để đánh đuổi quân Minh - đó là Bình Ngô sách, trong đó ông nói về việc chiến đấu vào lòng người thay vì tấn công thành phố.
Lời khen của Lê Lợi đối với chiến lược của Nguyễn Trãi là chính xác. Và ông đã áp dụng chiến lược này để tiến hành chiến dịch chống quân Minh. Từ đó, ông thường xuyên giữ Nguyễn Trãi ở bên cạnh mình để cùng thảo luận về kế hoạch đánh quân Minh.
Trong cuộc chiến kháng chiến, Nguyễn Trãi khẳng định rằng phải dựa vào lòng dân mới có thể đánh bại được kẻ thù và cứu nước. Sau khi chiến dịch kết thúc thành công, ông nhận ra rằng cần phải quan tâm đến dân, mới có thể xây dựng nên đất nước. Trong bản tạ ơn sau khi được bổ nhiệm làm Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông viết: 'Quan trọng là phải quan tâm đến lòng dân, chúng ta phải lo lắng cho những gì mà dân chúng quan tâm, vì hạnh phúc của dân là hạnh phúc của chính ta'.
Bằng việc luôn 'lo trước điều mà dân chúng cần phải lo, hạnh phúc của dân là hạnh phúc của ta', Nguyễn Trãi luôn sống một cuộc đời giản dị, liêm chính. Ngôi nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một căn nhà nhỏ (góc thành Nam lều một phòng). Khi ông làm việc tại hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn chỉ là một căn nhà trống trải, với sách vở là duy nhất tài sản quý giá (theo thơ của Nguyễn Mộng Tuân, bạn của Nguyễn Trãi). Vào năm 1442, vụ án oan “Lệ chi viên” bất ngờ giáng xuống, gây thiệt hại nghiêm trọng cho ông và gia đình. Ông và gia đình phải chịu tội ác vô cùng nặng nề trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi, trao quan tước, tìm kiếm con cháu còn sống sót và bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng.
Ông đã để lại cho văn học một số tác phẩm quý báu: trong lĩnh vực quân sự và chính trị, có 'Quân trung từ mệnh tập', bao gồm các thư từ mà ông đã viết trong quá trình tiếp xúc với quân Minh. Những bức thư này là bằng chứng cụ thể cho thấy sự khéo léo trong chiến lược ngoại giao và thực hiện chiến lược đánh vào lòng dân của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, giúp quân Lam Sơn không phải mất máu mà vẫn giành được nhiều thành tựu.
'Bình Ngô đại cáo' là một tác phẩm văn học 'vĩ đại không thể phủ nhận' trong lịch sử, tổng kết mười năm kháng chiến chống lại quân Minh và mở ra một thời kỳ mới cho đất nước... Trong lĩnh vực lịch sử, có 'Lam Sơn thực lục' là một tài liệu về cuộc kháng chiến Lam Sơn và 'Dư địa chí' viết về địa lý của quốc gia vào thời điểm đó. Trong văn học, Nguyễn Trãi có 'Ức trai thi tập”, “Quốc Âm thi tập'
'Quốc Âm thi tập' được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự phát triển của thơ ca Tiếng Việt. Ông là người dẫn đầu trong việc khai sinh dòng thơ Nôm trong hàng ngàn, hàng triệu văn chương bằng chữ Hán dày đặc thời kỳ đó.
Ngoài ra, trong thơ văn của ông, tư tưởng nhân nghĩa, triết lý về cuộc sống và tình yêu thiên nhiên đã được thể hiện một cách rõ ràng. Tư tưởng nhân nghĩa, kết hợp với tình yêu đối với quê hương và nhân dân, là trung tâm của tư duy của Nguyễn Trãi. Thơ của ông cũng chứa đựng những triết lý sâu sắc về cuộc sống và những trải nghiệm đắng cay. Ngoài ra, trong thơ của ông còn có sự kỳ vọng và tình yêu với thiên nhiên, mà ông xem như là một phần của cuộc sống hàng ngày.
Thơ văn của Nguyễn Trãi là điểm cao sáng chói trong văn hóa dân tộc, ông đã có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học quốc gia. Bằng các tác phẩm văn học và văn thơ, ông đã đặt nền móng cho văn hóa tư tưởng của dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới đẹp tuyệt vời, kết hợp giữa tình cảm, trí tuệ, và sức mạnh, đồng thời phản ánh sự hùng vĩ và lãng mạn. Trong thơ Nôm, ông là người tiên phong, để lại nhiều tác phẩm nhất và cổ điển nhất. Những bài thơ của ông phong phú tri thức, sâu sắc, chứa đựng nhiều triết lý về cuộc sống, viết bằng ngôn ngữ trong sáng, truyền thống. Nguyễn Trãi là một nhà thơ sớm sử dụng tục ngữ trong tác phẩm, và cũng là người sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức mới mẻ. Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài năng và tôn trọng trong lịch sử Việt Nam. Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một tác phẩm vĩ đại của dân tộc.
Nguyễn Trãi được xem là một nhân vật lịch sử vĩ đại của Việt Nam, ông không chỉ đóng góp vào các sự kiện quan trọng trong lịch sử giữ nước mà còn đặt nền móng cho văn học dân tộc. Nguyễn Trãi tôn trọng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, và gắn bó chặt chẽ với cảnh vật thiên nhiên của đất nước, thể hiện tình yêu sâu đậm với ngôn từ Việt. Tâm hồn và sự nghiệp của ông vẫn tỏa sáng như bóng đèn, như Lê Thánh Tông đã khen ngợi 'tâm hồn cao quý của Nguyễn Trãi'. Dù thời gian có qua đi, nhưng tinh thần của Nguyễn Trãi vẫn sáng bừng và chiếu sáng qua các thế hệ sau này. Nguyễn Trãi, một biểu tượng văn hóa của Việt Nam, sẽ luôn là nguồn tự hào của dân tộc.
Viết một bài văn nghị luận thể hiện cảm nhận của bạn sau khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - một người mẫu cho thế hệ ngày nay
Nguyễn Trãi là một nhân vật trung thành với tổ quốc, yêu quý đất nước mình và là một nhà quân sự và văn học tài ba. Ông là một vị anh hùng văn hóa của dân tộc, đã có nhiều đóng góp quan trọng cho dân tộc nhưng lại phải chịu nhiều bất hạnh nhất trong lịch sử phong kiến của nước ta.
Nguyễn Trãi, hay còn được biết đến với hiệu Ức Trai, sinh năm 1380 và qua đời năm 1442, quê quán tại Nhị Kê (Hà Tây), cha là Nguyễn Phi Khanh, mẹ là Trần Thị Thái, là con cháu của gia đình quý tộc. Từ nhỏ, ông đã thể hiện sự thông minh và siêng năng, và năm 1400, ông đỗ Thái học sinh. Cuộc đời của Nguyễn Trãi trải qua nhiều gian nan, từ khi mất mẹ ở tuổi 6, sau đó cha ông bị bắt sang Trung Quốc khi giặc Minh xâm lược nước ta. Nguyễn Trãi đã chăm sóc cha mình và tham gia vào cuộc kháng chiến sau đó, đưa đất nước qua thời kỳ gian khổ trong 10 năm.
Sau khi quốc gia trở lại bình yên, ông rút lui vào ẩn dật. Tuy nhiên, năm 1440, ông được Lê Thái Tông mời ra giúp đỡ. Ông đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc cai trị đất nước. Mọi thứ đang diễn ra suôn sẻ khi vua bất ngờ qua đời, và những kẻ gian thần đã vu cáo ông, khiến ông và gia đình bị kết án và mang gánh nặng oan uổng suốt 20 năm. Đến năm 1464, Lê Thánh Tông mới giải quyết được vấn đề này và truy tặng danh hiệu cho Nguyễn Trãi.
Ngoài ra, Nguyễn Trãi còn để lại nhiều tác phẩm quý giá cho văn học dân tộc. Mặc dù nhiều tác phẩm của ông đã bị tiêu hủy sau khi bị buộc tội giết vua, nhưng sau này, chúng được khôi phục và trở nên quý báu. Ông đã viết nhiều tác phẩm về quân sự và chính trị, trong đó có bộ “Quân trung từ mệnh tập” bao gồm thư từ và giấy tờ liên quan đến quan hệ với quân Minh và triều đình nhà Lê.
'Bình Ngô đại cáo' được xem như một tác phẩm vĩ đại trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống lại quân Minh và mở ra một thời kỳ mới cho đất nước... Trong các tư liệu lịch sử, có 'Lam Sơn thực lục' nói về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và 'Dư địa chí' viết về địa lý của đất nước vào thời điểm đó. Về văn học, Nguyễn Trãi có tập 'Ức trai thi tập, Quốc Âm thi tập'. 'Quốc Âm thi tập' được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của thơ ca Tiếng Việt.
Thơ văn của Nguyễn Trãi luôn phản ánh tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên. Trong tác phẩm của ông, tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân luôn là chủ đề chính. Ông luôn quan tâm, nỗ lực để mang lại hòa bình cho dân. Thiên nhiên là nguồn cảm hứng và bạn đồng hành của ông.
Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm thơ chữ Hán với thế giới thẩm mỹ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người đầu tiên và để lại nhiều bài thơ nhất. Những bài thơ của ông đầy tri thức, sâu sắc, lấy cảm hứng từ cuộc sống, viết bằng ngôn ngữ trong sáng, truyền thống. Nguyễn Trãi là nhà thơ sớm sử dụng tục ngữ trong tác phẩm, và cũng là người sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức mới. Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Trãi thực sự là một nhân vật vĩ đại của dân tộc, ông đã đóng góp lớn trong việc xây dựng văn học quốc gia và bảo vệ đất nước. Ông đã dành cả đời mình để phục vụ dân tộc và quê hương. Đáng nhớ, năm 1980, Nguyễn Trãi được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.
Hãy viết một bài văn nghị luận thể hiện cảm nhận của bạn sau khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - một mẫu người để noi theo
'Ức Trai tâm thượng quan Khuê Táo'
Nguyễn Trãi không chỉ được tôn vinh về tài năng quân sự mà còn về lòng trung kiên với tổ quốc, tình yêu sâu sắc đối với đất nước. Ông là một bậc anh hùng vĩ đại của dân tộc, đã dành cuộc đời để cứu và xây dựng nước nhà. Với chiến lược quân sự thông minh, khả năng ngoại giao tài tình và tài văn nghệ xuất sắc, Nguyễn Trãi thực sự là một đại văn hào của dân tộc. Tuy nhiên, ông cũng phải chịu nhiều bất hạnh nhất trong lịch sử phong kiến của nước ta.
Nguyễn Trãi không chỉ được biết đến với tài năng chính trị, quân sự mà còn là một quan nhân thanh liêm, luôn tận tụy với dân tộc và đất nước. Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, sinh năm 1380, quê ở Chí Linh – Hải Dương, sau đó chuyển về Hà Tây. Ông sinh ra trong một gia đình yêu nước và có truyền thống văn hóa. Cha là Nguyễn Phi Khanh, một nhà Thái học (Tiến sĩ) đời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con của quan Tư đồ (Tể tướng) Trần Nguyên Đán. Tuổi thơ của Nguyễn Trãi chứng kiến nhiều mất mát: mẹ qua đời khi ông mới 5 tuổi, ông ngoại qua đời khi ông 10 tuổi. Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cùng cha ra làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, khi giặc Minh xâm lược, Nguyễn Phi Khanh bị bắt và dẫn sang Trung Quốc. Theo lời dặn của cha, Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn. Sau chiến thắng toàn vẹn của kháng chiến Lam Sơn, vào cuối năm 1427 đầu năm 1428, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo” theo lệnh của Lê Lợi. Năm 1439, triều đình rối ren và gian thần hoành hành, Nguyễn Trãi quyết định lui về ẩn cư tại Côn Sơn. Năm 1440, ông được Lê Thái Tông mời trở lại phục vụ nước. Ông lại tích cực tham gia vào việc cứu nước. Năm 1442, Nguyễn Trãi bị kẻ thù bày mưu đặt oan án Lệ Chi Viên và bị trục xuất cùng gia đình. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi. Ông là một anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa vĩ đại. Năm 1980, UNESCO công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới.
Nguyễn Trãi để lại cho văn học Việt Nam một di sản văn học vô cùng quý giá. Ông sáng tác ở nhiều thể loại, viết bằng chữ Nôm và chữ Hán, thành công trong cả văn chính luận và thơ trữ tình. Ông để lại một khối lượng tác phẩm lớn, có ý nghĩa lớn đối với văn học dân tộc. Nguyễn Trãi được biết đến như một nhà văn chính luận xuất sắc. Với các tác phẩm như “Quân trung từ mệnh tập” (mạnh như mười vạn quân), “Bình Ngô đại cáo” và nhiều văn bản khác, Nguyễn Trãi được coi là chuyên gia về văn chính luận trong thời kỳ Trung đại. Tư tưởng chủ đạo trong văn chính luận của Nguyễn Trãi là nhân nghĩa, yêu nước và thương dân. Về mặt nghệ thuật, các tác phẩm văn chính luận của ông có cấu trúc chặt chẽ, luận điệu sắc bén. Nguyễn Trãi cũng là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Hai tập thơ “Ức Trai thi tập” (chữ Hán) và “Quốc âm thi tập” (chữ Nôm) đã phản ánh hình ảnh của anh hùng với tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân luôn mãnh liệt và nồng nhiệt; phẩm chất và ý chí rực rỡ.
'Hoa thường héo cỏ thường tươi'
Thơ trữ tình của Nguyễn Trãi đóng góp quan trọng cho văn học dân tộc từ việc phát triển ngôn ngữ (chữ Nôm), Việt hóa thể thơ Đường và sáng tạo ra thể thơ thất ngôn xen lục ngôn. Thơ của Nguyễn Trãi chứa đựng những hình ảnh tươi đẹp và đầy ý nghĩa, vừa mang tinh thần cuộc sống vừa có phong cách trang nhã và giản dị. Ông là một thiên tài văn học của dân tộc, Nguyễn Trãi không chỉ kế thừa truyền thống Văn học Lí – Trần mà còn mở ra một giai đoạn mới trong phát triển văn học. Về nội dung, thơ của Nguyễn Trãi luôn nâng cao giá trị nhân đạo và yêu nước. Về mặt nghệ thuật, thơ văn của Nguyễn Trãi có ảnh hưởng lớn đến văn học dân tộc cả về thể loại và ngôn ngữ.
Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, là anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hoá của dân tộc. Tâm hồn và sự nghiệp của ông luôn được nhớ đến như Lê thánh Tông đã trao cho tên gọi “Ức Trai tâm thượng quan Khuê Táo”.
Hãy viết một bài văn nghị luận thể hiện cảm nhận của bạn sau khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - một mẫu người để noi theo
Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại, nhà quân sự tài ba, là một anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Ông là biểu tượng của sự kiên cường và trí tuệ của dân tộc Việt Nam. Công lao quý giá và sự nghiệp vĩ đại nhất của Nguyễn Trãi là tấm lòng yêu nước, yêu dân và việc đánh giặc cứu nước mà ông đã hy sinh trọn đời. Dù phải chịu nhiều oan trái, tên tuổi của Nguyễn Trãi vẫn mãi là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380 và qua đời vào năm 1442, quê ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây. Ông là con của Nguyễn Phi Khanh, cháu của tướng công Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi đã từng trải qua những khó khăn trong cuộc đời nhưng bằng tinh thần quyết tâm và kiên trì, ông đã xây dựng nên một sự nghiệp vĩ đại.
Dù mẹ mất sớm, từ nhỏ Nguyễn Trãi đã nỗ lực học tập để tiếp tục truyền thống của gia đình. Sau khi đỗ Thái học sinh năm 1400, ông phục vụ với cha dưới thời hồ Quý Ly. Khi giặc Minh xâm lược năm 1407, Nguyễn Trãi đã cùng cha chống lại chúng và sau đó trở về quê nhà để tham gia vào cuộc chiến cứu nước.
Năm 1428, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”, tuyên bố sự nghiệp giành lại độc lập cho nước Việt. Sau đó, ông được giao làm Chánh chủ khảo khoa thi tiến sĩ đầu tiên của triều Lê. Tuy nhiên, ông đã phải trải qua những gian khổ khi bị bọn nịnh thần vu khống và cuối cùng quyết định lui về Côn Sơn.
Năm 1442, sau khi nhà vua băng hà tại Côn Sơn, bọn gian thần đã vu khống án oan làm cho toàn bộ gia đình Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên, đây có thể coi là một trong những oan trái lớn nhất trong lịch sử nước ta.
Năm 1464, sau khi xem xét lại vụ án, vua Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi và tìm kiếm con cháu của ông để bổ nhiệm vào các vị trí quan trọng.
Nguyễn Trãi là một nhà văn hoá lớn của Việt Nam, có đóng góp to lớn vào văn hóa và tư tưởng của dân tộc. Ông là một trong số 14 anh hùng dân tộc Việt Nam và được coi là biểu tượng của sự kiên cường và trí tuệ.
Với tâm hồn yêu nước và trí tuệ, Nguyễn Trãi đã góp phần lớn vào phong trào khởi nghĩa Lam Sơn và đem lại chiến thắng cho dân tộc. Tài năng của ông đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Nguyễn Trãi để lại một loạt các tác phẩm văn học quý giá, tất cả đều phản ánh tinh thần trung quân ái quốc của ông. Những tác phẩm này vẫn được coi là những tuyệt phẩm văn học dân tộc, giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Trong số đó, có thể kể đến những tác phẩm như: “Bình Ngô đại cáo”, “Dư địa chí”, “Lam Sơn thực lực”, “Phú núi Chí Linh”, “Quốc âm thi tập”, “Ức Trai thi tập”…
Thơ của Nguyễn Trãi thể hiện sâu sắc tư tưởng về nhân nghĩa, yêu nước và thương dân. Việc thương dân và trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt) để loại bỏ kẻ thù tàn bạo là việc làm mang lại hạnh phúc và an yên cho nhân dân, chính là bản chất của nhân nghĩa:
“Việc, nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Sức mạnh của nhân nghĩa là sức mạnh của Việt Nam để đánh bại kẻ thù bên ngoài. Đó là “Đại nghĩa” (nghĩa lớn vì dân tộc), là lòng “chí nhân” (yêu người vô hạn):
“Đem đại nghĩa để thắng kẻ hung tàn,
Lấy chi nhân để đẩy lùi cường bạo”.
Tâm trạng căm thù đối với kẻ thù đang cao trào, quyết không chịu sống chung với quân thù “cuồng Minh”:
“Ngẫm thù lớn có đồng lòng,
Căm giặc, thề không cùng hòa”.
Tư tưởng về nhân nghĩa của Ức Trai luôn liên kết với lòng “trung hiếu” và tình thương “ưu ái” (quên mình vì nước, quý trọng dân):
“Lòng trung hiếu như cục sáng
Mài điều khuyết, nhuộm đen điều lành”.
“Lòng ưu ái như hạt muối,
Ngày đêm sóng sánh triều Đông”.
Văn thơ của Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu sâu đậm đối với thiên nhiên, quê hương và gia đình. Ông trân trọng yêu thương cây cỏ, hoa lá, trăng nước, mây trời, chim muông…
“Nắng chiều rọi rặng cây cành lấp lánh
Con thuyền yên bình trôi dịu bên bờ”.
Ông có tình yêu sâu đậm đối với quê hương và gia đình:
“Quê nhà ta cần một điều gì
Có rau trong vườn, cá trong ao”.
Ông mê mẩn và tự hào về những danh lam thắng cảnh của đất nước:
“Một cảnh xanh mượt gương sáng,
Ngàn cây xanh đẹp, lá xanh tươi màu”.
Ông sống cuộc đời trong sạch sẽ, tâm hồn cao quý, trong trẻo:
“Một trái tim son sáng cháy lên ngọn lửa,
Mười năm trải qua lạnh buốt như băng”.
Nếu thơ của Nguyễn Trãi dịu dàng, lanh lợi thì văn chính luận như “Bình Ngô đại cáo” lại mạnh mẽ, quyết liệt, luận điệu sắc bén, đúng là tiếng nói của một dân tộc chiến thắng, một quốc gia có nền văn hiến lâu đời. Thơ chữ Hán uyển chuyển, tinh tế, sâu sắc. Thơ chữ Nôm đậm chất dân dã mà tài hoa, thâm thúy. Thơ thất ngôn xen lục ngôn là dấu ấn đặc biệt của văn học dân tộc chữ Nôm. Nguyễn Trãi đã làm nên một bước tiến lớn khi phá vỡ luật thơ Đường, mở ra một kỷ nguyên mới cho văn học dân tộc.
Nguyễn Trãi đã có những đóng góp quan trọng trong việc cải tiến thể loại thơ chữ Nôm và khai mở ra một thời kỳ thịnh vượng của văn học dân tộc.
– Suốt đời, Nguyễn Trãi sống trong sạch, dành trọn tâm hồn cho đất nước và nhân dân. Trở về quê hương, ông hạnh phúc và tự hào: “Quê nhà ta không thiếu điều gì, Có rau trong vườn, cá trong ao”. Canh tác là niềm vui: “Mỗi cày một gánh thú nghịch, Thành bài rộn ràng, dậu xếp sát nhau”. Đồng bào nông dân xứ này xứng đáng được biết ơn: “Ăn lộc phải nhớ công người cày ruộng”. Cuộc sống giản dị, bình dị mà thanh cao: “Bữa ăn có mỗi dưa muối, Áo áo màu đời như nhau”, “Giày dép đã cũ vẫn mặc, Ao chưa đầy nước vẫn cày'. Thậm chí, trước sự thèm khát của kẻ tham lam, Nguyễn Trãi càng giữ một lòng trong sáng, một trái tim “thơm tho”.
– Trái tim ấy chứa đựng tình yêu nước và lòng thương dân. Đôi khi ông gọi đó là “tâm trí hiếu khách”, “tình thương”. Nó luôn rộn ràng: “Dù chỉ một chút lòng chung hiếu khách, Dù có lỗi lầm, vẫn tự gặp lỗi”, “Dù có một chút tình thương cũ, Ngày đêm trôi trôi dòng nước triều đông”. Nó dựa trên tư tưởng nhân nghĩa. Nhân nghĩa là một ý chí cao quý lưu hành suốt cuộc đời và trong tác phẩm văn học của ông. Đối với ông, nhân nghĩa chính là “yên dân”, “trừ bạo” hay “Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”. Chỉ khi có những điều như thế, thì thực sự “Có nhân, có trí, có anh hùng”. Nhân trí, anh hùng ấy nằm trong tình yêu nước cao cả của ông, yêu nước bằng tư tưởng, tình cảm, bằng hành động cứu nước lo dân tuyệt vời. Nói cụ thể như : “tâm hồn nhân ái lớn nhất là mặc kệ mọi khó khăn để chống lại thế lực thù địch, loại bỏ sự bạo tàn, vì độc lập của quốc gia, hạnh phúc của nhân dân”. Đất nước bị xâm lược, nó sinh ra lòng căm thù cao cả và ý chí kiên định, vững vàng để tiêu diệt kẻ thù: “Hận thù vô hạn, không hề chung sống”, “Nếm trải nỗi đau, có lẽ cả đời, Quên ăn vì phẫn nộ, suy tính kỹ lưỡng đã sáng suốt”. Khi đối thủ bị tiêu diệt, nó mong muốn xây dựng một đất nước thịnh vượng, một cuộc sống hạnh phúc cho tất cả mọi người.
– Nguyễn Trãi – Anh hùng dân tộc lỗi lạc, nhân vật đa tài của lịch sử Việt Nam. Trong Nguyễn Trãi là một nhà chính trị vĩ đại, một tướng quân tài ba, một nhà ngoại giao lỗi lạc, một nhà văn, một nhà thơ kiệt xuất. Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận là Danh nhân văn hoá thế giới và tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông.
Nguyễn Trãi là anh hùng vĩ đại, một nhà văn hóa lỗi lạc, là đại thi hào kiệt xuất của dân tộc, một nhân vật đa tài hiếm có, danh nhân văn hoá thế giới. Một con người phải chịu những oan trái thảm khốc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Nguyễn Trãi cũng là người tiên phong trong lĩnh vực thi ca nghệ thuật với tinh thần mạnh mẽ, khao khát tự do cho dân tộc.
Hãy viết một bài văn nghị luận thể hiện những điều bạn cảm nhận qua việc tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - một người mẫu hình tiêu biểu.
Trên bầu trời văn học Việt Nam, có rất nhiều ngôi sao sáng. Nhưng xuất hiện vào thế kỷ XV và chiếu sáng rực rỡ nhất trong thế kỷ này chính là sao Khuê — Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi sinh vào năm 1380, được biết đến với bút hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại (nay là Chí Linh, Hải Dương), sau đó chuyển về làng Ngọc Ổi (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Nội). Cha của Nguyễn Trãi là Nguyễn Ứng Long (sau đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh) là một học trò nghèo, thi đỗ Thái học sinh và mẹ là Trần Thị Thái, con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, một dòng dõi quý tộc.
Nguyễn Trãi sinh ra và lớn lên trong một thời kỳ đầy biến động. Nhà Trần suy yếu, Hồ Quý Ly lên nắm quyền, lập ra triều Hồ. Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Cả hai cha con Nguyễn Trãi đều phục vụ cho triều Hồ.
Khi quân Minh xâm lược nước ta, chúng bắt cha con Hồ Quý Li và các triều thần về Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi và em trai Nguyễn Phi Hùng đã theo cha sang Trung Quốc. Tuy nhiên, khi đến ải Nam Quan, theo lời dặn của cha phải tìm cách làm sạch danh dự cho nước, ông quay về và bị giặc bắt ở Đông Quan. Sau đó, Nguyễn Trãi bỏ trốn theo Lê Lợi, mang theo Bình Ngô sách (hiện đã mất) và được tin dùng. Ông trở thành cố vấn hàng đầu của Lê Lợi. Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, cùng Lê Lợi bàn bạc và giúp Lê Lợi soạn các văn thư, chiếu lệnh, góp phần lớn vào công cuộc giải phóng đất nước.
Sau khi đánh đuổi xong quân Minh, Nguyễn Trãi chưa kịp thực hiện ước mơ xây dựng đất nước bình yên, thịnh vượng, dân chủ thì cuộc đời ông lại bước sang một giai đoạn mới, khó khăn và bi thảm. Sau cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi tiến hành thanh trừng các tướng sĩ, Nguyễn Trãi cũng bị ảnh hưởng. Trong suốt mười năm (1429 - 1439), Nguyễn Trãi không được tin dùng. Năm 1439, ông xin rút về ở Côn Sơn nhưng chỉ vài tháng sau Lê Thái Tông lại mời ông quay lại làm việc cho triều đình. Khi hy vọng vào một tương lai mới, ba năm sau (năm 1442), một thảm họa đã ập đến với Nguyễn Trãi và gia đình. Vụ án Lệ Chi Viên, vụ án oan lớn nhất trong lịch sử Việt Nam đã cướp đi sinh mạng của ông, khiến ông mãi mãi không có cơ hội thực hiện ước mơ của mình.
Trong suốt cuộc đời, Nguyễn Trãi đã sáng tác nhiều tác phẩm văn học. Tuy nhiên, sau khi ông qua đời, nhiều tác phẩm của ông đã bị ra lệnh tiêu hủy. Năm 1467, Lê Thánh Tông ra lệnh thu thập tác phẩm của Nguyễn Trãi nhưng sau đó lại bị mất. Đến đầu thế kỷ XIX, các tác phẩm của ông mới được tìm lại và chỉ vào nửa sau thế kỷ XIX mới được in ấn.
Nguyễn Trãi đã sáng tác trên nhiều lĩnh vực, mỗi lĩnh vực đều có những tác phẩm xuất sắc, độc đáo. Trong lĩnh vực quân sự và chính trị, ông có Quân (trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo. Trong đó, Quân trung từ mệnh tập bao gồm một số thư từ, biểu, quân lệnh gửi cho các tướng của chúng ta và những bức thư ông viết nhân danh Lê Lợi để giao tiếp với tướng nhà Minh, thực hiện kế hoạch “tâm công”. Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm văn xuôi kinh điển trong lịch sử, tổng kết đầy đủ và cảm động về cuộc kháng chiến anh dũng chống lại quân Minh và cũng là tuyên ngôn về tình yêu hòa bình của nhân dân ta. Ông cũng sáng tác 28 bài phú, chiếu, biểu, tấu, bi kí, lực..., trong đó Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục là tiêu biểu. Về lĩnh vực lịch sử, Nguyễn Trãi viết Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng, ghi chép quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, khẳng định tư tưởng gắn bó với nhân dân là điều kiện tiên quyết của mọi thành công. Ngoài ra, ông còn có Dư địa chí – một tác phẩm địa lí duy nhất còn lại ở nước ta. Về văn học, Nguyễn Trãi có Ức Trai thi tập — tập thơ chữ Hán và Quốc âm thi tập — tập thơ chữ Nôm đánh dấu sự ra đời của nền thơ ca tiếng Việt.
Tư tưởng nhân nghĩa, triết lý thế sự và tình yêu thiên nhiên luôn hiện diện trong tác phẩm thơ văn của Nguyễn Trãi. Nếu tư tưởng nhân nghĩa của nhà nho nhấn mạnh việc yêu người, xây dựng cho người, không áp đặt lên người (Kỉ dục lập nhi lập thân, Ki sở bất dục vật thi ư nhân), thì với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước thương dân. Ông, với truyền thống dân tộc, hiểu nhân nghĩa theo nội dung yêu nước, thương dân. Nhân nghĩa làm cho nhân dân sống bình yên:
Lòng nhân nghĩa chủ yếu là vì dân,
Quân lực được sử dụng trước hết để loại trừ bạo độc.
(Tuyên ngôn của Bình Ngô)
Nhân nghĩa là khiến cho tất cả dân chúng được an lành, hạnh phúc:
Ngựa kia đã cầm đàn một nhịp
Dân chúng giàu có đủ đầy khắp nơi.
(Khung cảnh mùa hè)
Bên cạnh tư tưởng nhân nghĩa, thơ văn của Nguyễn Trãi cũng thể hiện những triết lý sâu sắc về cuộc sống, con người:
Dưới vỏ bề ngoài công danh là sự chịu đựng nhiều khổ nhục
Trong cuộc sống rối loạn, vẫn tồn tại những đường nét thanh lịch.
(Nhìn nhận sự việc, phần 2)
Phượng thì thường buồn bã, nhưng diều vẫn bay cao phất phơ,
Hoa có thể héo tàn, nhưng cô gái vẫn luôn rạng rỡ. ‘
(Tự sự, phần 9)
Một người khiêm nhường ít nói, nhưng khi nắm quyền thì biết im lặng và tận tụy.
Tình cảm hiếu thảo làm cho con người dám ganh đua, không ngại khó khăn.
(Nhìn vấn đề, phần 10)
Thơ văn của Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện những ý tưởng sâu sắc mà còn phản ánh một tâm hồn nghệ sĩ, sâu sắc yêu thiên nhiên, coi thiên nhiên như một người bạn, đối xử với thiên nhiên như đối xử với con người:
– Núi gần, chim gần bạn bè
Những ngôi sao làm bạn, nguyệt làm người thân. ¬
(Tình thú, phần 19)
– Đêm trăng sáng tỏ, cá có thể thấy không,
Rừng tiếc nhớ chim về, sợ cây không đủ phát triển.
(Kể chuyện mùa thu, phần 6)
Hòa mình với những giá trị tư tưởng sâu sắc đó là những giá trị nghệ thuật đặc biệt. Đầu tiên, với Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi là một nhà văn chính luận tài ba. Quân trung từ mệnh tập là tuyển tập văn chính luận phản ánh đầy đủ chiến lược “công bằng” của quân Lam Sơn. Còn Bình Ngô đại cáo là một bản tuyên ngôn độc lập hùng vĩ, quả quyết.
Với lĩnh vực thơ ca, Nguyễn Trãi đã thể hiện một thế giới thẩm mỹ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn qua các tác phẩm chữ Hán. Còn với thơ chữ Nôm, ông để lại những bài thơ giàu trí tuệ, sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm về cuộc sống với một ngôn ngữ tinh tế, trong trẻo, đọng đầy tinh thần cổ điển:
Hương thạch hiên vẫn đang tỏa ra,
Nụ hồng đã tiễn hương thơm.
(Tôn trọng cảnh vật, phần 43)
Ao đã khô, lục bèo mọc,
Nơi đất phát triển cỏ lúa, sen nở.
(Trải nghiệm thu vui, phần 24)
Nguyễn Trãi là nhà thơ sớm mang tục ngữ vào tác phẩm. Chỉ trong một bài thơ tám câu, ông sáng tạo sử dụng tục ngữ dân gian: Ở bầu thì tròn ở ống thì dài; Xấu hay tốt đều có dạng rập khuôn; Gần nhà giàu ăn cám, gần gân kê trộm chịu đòn; Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng sáng:
Trong bầu tròn, hình dáng chắc chắn phải tròn,
Xấu hay tốt đều có dạng nhất quán.
Lân cận với nhà giàu ăn cám đầy đủ,
Bạn bè kề cạnh trộm phải chịu đòn no đủ.
Chơi với kẻ dại sẽ trở nên dại dột,
Giao du với những người khôn nên biết cách khôn ngoan.
Ở trong đám thấp, nên biết giữ tư duy khiêm nhường,
– Gần mực thì đen, gần son thì đỏ.
(Bảo kính cảnh giới, bài 21)
Nguyễn Trãi cũng đã dùng thơ để mô tả những hình ảnh quen thuộc như “lùm tươi tốt”, “vườn rau mầm mạnh”, “hương vị quê mình”... giản dị, gần gũi với cuộc sống nông thôn:
Miêu tả hương vị thân thuộc của quê nhà, mùi vị tự nhiên.
Canh tác đất, trồng lúa, gặp sương sớm.
(Ngôn chí, bài 9)
Ao hồ gửi đi bè rau muống,
Đất Bụt ương nhờ sự ẩm ướt tốt.
(Thuật hứng, bài 23)
Cơm ăn dầu mà không có muối,
Áo mặc mà không có gấm thêu.
(Ngôn chí, bài 3)
Nguyễn Trãi cũng đã biến tấu một loại thơ Trung Quốc khi sáng tạo thể thơ thất ngôn xen lục ngôn độc đáo:
Bui có lòng trung hiếu không giàu,
Mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen.
(Thuật hứng, bài 24)
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ muôn phương đòi hỏi.
(Bảo kính cảnh giới, bài 43)
Với tất cả những gì đã làm cho nhân dân, dân tộc, với tất cả những gì đã để lại cho nhân loại, Nguyễn Trãi xứng đáng là danh nhân văn hóa vĩ đại. Trong vai trò nhà văn, nhà thơ, ông là người dẫn đầu trong việc lập nên cơ sở cho văn học Việt Nam. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới và tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh của ông.
Viết một bài văn biểu đạt những cảm xúc của bạn sau khi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - mẫu số 13
Nguyễn Trãi là một người xuất sắc, là một trong những danh nhân văn hóa vĩ đại nhất thế giới. Ông đại diện cho tinh thần và phẩm chất cao quý của dân tộc. Công việc và tác phẩm của ông là biểu tượng của lòng yêu nước. Ông là một nhân tài toàn diện, là một nhà chính trị, quân sự, và ngoại giao lỗi lạc.
Nguyễn Trãi (1380–1442), hay còn được biết đến với bút danh Ức Trai, là một trong những người sinh ra trong một gia đình truyền thống yêu nước. Cha ông, Nguyễn Phi Khanh, từng là một học sinh nghèo đỗ cử nhân Thái học. Mẹ ông, Trần Thị Thái, là con gái của quan Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi sinh ra ở làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nhưng được sinh ra tại Thăng Long và sau đó chuyển về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi cho chúng ta thấy cuộc đời ông từ nhỏ đã trải qua nhiều gian khó. Ông mồ côi mẹ từ khi mới 5 tuổi, sau đó không lâu, ông cũng mất cha. Ông sống với cha tại làng Nhị Khê. Cuộc đời của ông trải qua nhiều thử thách và khó khăn.
Vào năm 1400, sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi vua, ông mở khoa thi tuyển tài năng. Nguyễn Trãi tham gia và đỗ cử nhân Thái học khi mới 20 tuổi. Ông được Hồ Quý Ly tin tưởng bổ nhiệm làm Ngự sử đài chánh chưởng. Cha của ông, Nguyễn Phi Khanh, đỗ cử nhân Thái học năm 1374 và được bổ nhiệm làm Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1406, quân Minh xâm lược nước ta. Nhà Hồ đối mặt với quân địch nhưng thất bại. Hồ Quý Ly và một số quan triều trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và gửi sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi, nghe lời cha, tìm cách đánh giặc và cứu nước.
Nguyễn Trãi trao cho Lê Lợi kế hoạch đánh đuổi quân Minh - Bình Ngô sách 'chỉ mưu lược không nói đến việc đánh thành, mà nhấn mạnh vào việc chiến đấu vào lòng người'. Từ đó, ông và Lê Lợi cùng thảo luận chiến lược chống lại quân Minh.
Chiến lược của Nguyễn Trãi là phải dựa vào dân để đánh giặc và cứu nước. Khi chiến thắng, ông nhận thấy rằng phải lo lắng cho nhân dân mới có thể xây dựng đất nước: 'Nhân dân là trên hết, tôi lo về nhân dân trước khi lo lợi ích của bản thân. Nguyễn Trãi luôn lo lắng cho cuộc sống của nhân dân, số phận của họ luôn ở trên hết
Năm 1442, vụ án “Lệ chi viên” bất ngờ đối mặt ông. Ông và gia đình phải chịu cảnh khốn khổ nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Cho đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới công nhận sự oan cho Nguyễn Trãi và trao tước vị cho gia đình.
Phân tích về Nguyễn Trãi cho thấy mặc dù ông phải chịu nhiều bi kịch trong đời nhưng ông đã để lại cho văn hóa nước những tác phẩm có giá trị: về chính trị có “Quân trung từ mệnh tập”, bản ghi chép về giao tiếp với quân Minh. Những tài liệu này chứng tỏ sự khôn ngoan trong ngoại giao của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, giúp quân Lam Sơn chiến thắng mà không mất nhiều quân.
Bình ngô đại cáo là một tác phẩm vĩ đại của Nguyễn Trãi, tổng kết chiến công chống quân Minh và khép lại thắng lợi... Về lịch sử có 'Lam Sơn thực lục', một bộ sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, 'Dư địa chí' là tập sách về địa lý Việt Nam thời bấy giờ. Nguyễn Trãi còn có 'Ức trai thi tập”, “Quốc Âm thi tập' làm phong phú thêm văn chương Việt Nam. 'Quốc Âm thi tập' viết bằng chữ Nôm, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển thơ ca Tiếng Việt. Nguyễn Trãi đứng đầu trong việc khai sinh thơ Nôm trong hàng nghìn tác phẩm văn học Hán bày bán thời đó.
Thơ văn của ông chứa đựng triết lý nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên và yêu nước, thương dân. Triết lý trong thơ văn của Nguyễn Trãi là sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống. Độc giả cũng có thể cảm nhận được tình yêu của ông dành cho thiên nhiên. Với ông, thiên nhiên là người bạn đồng hành, và đó cũng là lý do ông thích sống giản dị, tiết kiệm, và trung thực. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long ngày nay) chỉ đơn giản như một căn nhà lều. Ngôi nhà của ông tại Côn Sơn cũng không xa hoa, chỉ có sách làm giàu.
Thơ văn của Nguyễn Trãi là một tia sáng rực rỡ trong văn hóa dân tộc, ông đã có những đóng góp to lớn cho văn học và chính trị. Thơ chữ Hán của ông kết hợp giữa tình cảm, trí tuệ và lòng dũng cảm, hùng tráng và lãng mạn. Với thơ Nôm, Nguyễn Trãi để lại tập thơ phong phú nhất và đa dạng nhất. Đó là những tác phẩm sâu sắc, trí tuệ, thể hiện sự trải nghiệm về cuộc sống và con người. Nguyễn Trãi được xem là một biểu tượng vĩ đại của dân tộc Việt Nam thời kỳ đó.
Nguyễn Trãi là một nhân vật lớn lao, là danh nhân văn hóa thế giới. Ông không chỉ góp phần vào việc tạo dựng những trang sử vang bóng trong lịch sử dân tộc mà còn đóng góp quan trọng vào việc phát triển văn học. Ông tôn trọng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân và có mối liên kết sâu sắc với thiên nhiên và ngôn từ Việt. Tâm hồn và sự nghiệp của ông luôn tỏa sáng như ngọn đèn Khuê Tảo. Mặc dù thời gian có thể làm phai nhạt mọi thứ nhưng tinh thần của Nguyễn Trãi sẽ mãi mãi chiếu sáng qua các thế hệ.
Viết một bài văn nghị luận về cuộc đời và công lao của Nguyễn Trãi - mẫu 14
Trong lịch sử, Nguyễn Trãi là một nhân vật nổi bật trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Tài năng và phẩm chất của ông là một tia sáng không bao giờ tắt, chiếu rọi qua hàng thế hệ. Ông là biểu tượng của dân tộc, là người tôn trọng nhân nghĩa, yêu nước và thương dân. Sự nghiệp và tác phẩm của ông gắn liền với bản sắc dân tộc và là nguồn cảm hứng vĩnh cửu cho thế hệ sau này.
Nguyễn Trãi (1380–1442), hiệu là Ức Trai, sinh ra trong một gia đình yêu nước và trí thức. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo đã đỗ Thái học sinh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái của quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi từ nhỏ đã phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách.
Năm ông 5 tuổi, mất mẹ và không lâu sau đó, ông ngoại cũng qua đời. Ông sống cùng cha tại quê nhà, ở làng Nhị Khê. Cuộc đời của Nguyễn Trãi là một chuỗi những khó khăn và gian nan.
Năm 1400, sau khi lên ngôi vua, Hồ Quý Ly mở cửa cho cuộc thi. Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) khi mới 20 tuổi. Hồ Quý Ly tin tưởng cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Cha ông, Nguyễn Phi Khanh, từng đỗ bảng nhãn năm 1374, được cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1406, quân Minh xâm lược nước ta. Nhà Hồ ra chiến đấu, nhưng bị đánh bại. Hồ Quý Ly và một số triều thần bị bắt và đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi theo lời cha quay lại chiến đấu để cứu nước.
Nguyễn Trãi đã đề xuất chiến lược đánh đuổi quân Minh cho Lê Lợi. Bình Ngô sách nói 'hiến mưu trước lớn không đánh vào thành, mà lại đánh vào lòng dân'.
Lê Lợi đánh giá cao chiến lược của Nguyễn Trãi và sử dụng nó để đánh quân Minh. Sau đó, ông thường giữ Nguyễn Trãi ở bên cạnh để bàn kế hoạch đánh quân Minh.
Trong cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi luôn đặt nhân dân lên hàng đầu. Ông tin rằng chỉ khi bảo vệ nhân dân thì mới có thể cứu nước. Ông viết: 'Hãy để tâm đến nhân dân, mình sẽ lo trước điều mọi người cần'.
Với tinh thần 'lo trước điều mọi người cần, vui sau sự vui của mọi người', Nguyễn Trãi sống giản dị, liêm chính. Nhà của ông chỉ là một góc lều tranh. Khi ông đảm nhận công việc ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn cũng đơn giản, chỉ có sách là giàu thôi. Năm 1442, ông bị kết án oan và phải chịu tội chu di tam tộc bi thảm nhất trong lịch sử. Cho đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và bổ nhiệm làm quan.
Nguyễn Trãi đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong văn học và chính trị. 'Quân trung từ mệnh tập' là tập thư ghi lại giao thiệp với quân Minh. Những tài liệu này chứng minh chiến lược ngoại giao khôn ngoan của Lê Lợi và Nguyễn Trãi. 'Bình ngô đại cáo' là tác phẩm vĩ đại, tổng kết cuộc kháng chiến chống quân Minh và mở ra một kỷ nguyên mới cho nước nhà. Trong lịch sử, 'Lam Sơn thực lục' ghi lại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và 'Dư địa chí' viết về địa lý nước ta. Nguyễn Trãi còn để lại 'Ức trai thi tập” và “Quốc Âm thi tập'.
'Bình ngô đại cáo' là tác phẩm vĩ đại, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỷ nguyên mới cho nước nhà... Trong văn học, Nguyễn Trãi còn có 'Ức trai thi tập” và “Quốc Âm thi tập'.
'Quốc Âm thi tập' được viết bằng chữ nôm, là biểu hiện của sự phát triển của thơ ca Tiếng Việt. Nguyễn Trãi là người dẫn đầu trong việc khởi đầu dòng thơ Nôm trong hàng ngàn văn chương chữ Hán thời đó.
Thơ văn của Nguyễn Trãi thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên. Ông nổi bật với tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân. Ông cho rằng bảo vệ nhân dân là trọng yếu nhất để cứu nước. Thơ của Nguyễn Trãi cũng thể hiện sự đơn giản, nhưng sâu sắc và đau đớn của cuộc đời, cũng như tình yêu thiên nhiên.
Thơ văn của Nguyễn Trãi là điểm sáng rực rỡ trong văn học dân tộc. Ông đã có những đóng góp to lớn cho văn học quốc gia. Cùng với các bài thơ và văn xuôi, ông đã góp phần xây dựng nền văn hóa tư tưởng cho dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ, trữ tình, và hào hùng. Thơ Nôm của ông là tiên phong, đậm chất tri thức và trải nghiệm cuộc sống. Nguyễn Trãi đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm và sáng tạo hình thức thơ mới, góp phần làm phong phú văn hóa Việt Nam.
Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử vĩ đại của Việt Nam. Ông đã góp phần không nhỏ vào các trang hào hùng của lịch sử giữ nước và làm nền móng vững chắc cho văn học dân tộc. Ông cao quý tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, và gắn bó thiết tha với cảnh vật thiên nhiên của đất nước. Sự nghiệp và tâm hồn của ông là nguồn sáng soi rọi qua các thế hệ mai sau. Nguyễn Trãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Viết một bài văn nghị luận thể hiện những điều bạn cảm nhận được về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - mẫu 15
Nguyễn Trãi là một nhân vật lịch sử vĩ đại của Việt Nam. Ông là anh hùng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà thơ, và nhà văn hóa có đóng góp vĩ đại cho văn học và tư tưởng Việt Nam.
Nguyễn Trãi sinh ra ở Thăng Long trong một gia đình quan trọng. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu Ức Trai (hay còn gọi là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán.
Khi Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông qua đời. Không lâu sau đó, Trần Nguyên Đán cũng từ giã cuộc sống. Ông trở về quê ở với cha tại làng Nhị Khê.
Năm 1400, trong bối cảnh chế độ phong kiến đang đối diện với khủng hoảng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và thực hiện các biện pháp cải cách như hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế.
Cùng năm 1400, sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly tổ chức khoa thi. Nguyễn Trãi tham gia và đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) ở tuổi 20. Ông được giao giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Cha ông, Nguyễn Phi Khanh, đã từng đỗ bảng nhãn từ năm 1374 và được cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ dẫn quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ ra quân đối địch, nhưng thất bại. Hồ Quý Ly và con trai cùng một số triều thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh, bị bắt và đưa về Trung Quốc.
Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi và em trai Nguyễn Phi Hùng không kìm được nước mắt. Họ quyết định theo cha sang bên kia biên giới để ủng hộ và chăm sóc cha khi ông bị giam giữ.
Trong lúc vắng nhà, Nguyễn Phi Khanh nói với Nguyễn Trãi:
'Con là người trí thức, có tài năng, cần phải tìm cách giúp đỡ nước nhà, bảo vệ danh dự của gia đình, và báo thù cho cha. Đó mới là lòng hiếu nghĩa cao cả. Không nên đi theo cha mà khóc lóc như phụ nữ.'
Nghe lời cha, Nguyễn Trãi quay lại tham gia vào cuộc chiến để bảo vệ đất nước khỏi quân giặc.
Sau khi trở về Thăng Long, Nguyễn Trãi bị quân Minh bắt giữ. Mặc dù quân Minh cố gắng dụ dỗ, nhưng ông vẫn kiên quyết không cam kết với giặc.
Sau khi thoát khỏi giam cầm ở Đông Quan, Nguyễn Trãi đồng hành cùng Lê Lợi và tham gia vào cuộc kháng chiến chống lại quân Minh. Ông đóng góp bản chiến lược Bình Ngô sách cho cuộc chiến.
Trong Bình Ngô sách, Nguyễn Trãi không chỉ nói về việc đánh thành mà còn nhấn mạnh vào việc chiến đấu vào lòng người, đánh tan ý chí của đối thủ.
Chiến lược của Nguyễn Trãi nhận được sự khen ngợi của Lê Lợi và được áp dụng trong cuộc chiến chống lại quân Minh. Hai người thường cùng nhau bàn bạc về chiến thuật chiến đấu.
Cuối năm 1426, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cùng thành lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm) để tiến hành các hoạt động quân sự. Họ thường trao đổi ý kiến và lập kế hoạch chiến lược cùng nhau.
Trong quá trình kháng chiến, Nguyễn Trãi luôn nhấn mạnh vào việc dựa vào dân để chiến thắng quân giặc và cứu nước. Sau chiến thắng, ông nhận ra tầm quan trọng của việc chú trọng đến dân để xây dựng đất nước. Ông thể hiện điều này trong bản biểu tạ ơn khi được bổ nhiệm làm Gián nghị đại phu tri tam quân sư.
Trong năm 1437, khi vua Lê Thái Tông ra lệnh tổ chức lễ nhạc, Nguyễn Trãi khuyên vua rằng việc quan trọng nhất là phải chăm sóc và bảo vệ nhân dân trước tiên:
– Bệ hạ cần có lòng yêu thương và chăm sóc nhân dân, để mỗi làng quê, mỗi xóm làng đều yên bình, không có tiếng kêu oán thảm.
Luôn tuân thủ nguyên tắc 'lo dưỡng dân trước, vui vẻ sau', Nguyễn Trãi luôn sống một cuộc sống giản dị và tối giản. Ngôi nhà của ông ở Thăng Long chỉ là một căn nhà nhỏ, khiêm nhường. Khi đảm nhận công việc quản lý quân dân ở Côn Sơn, nhà của ông cũng không xa hoa, chỉ có sách làm giàu.
Bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một kiệt tác văn học, là biểu tượng của lòng yêu nước và lòng dũng cảm của dân tộc.
Tập thư 'Quân trung từ mệnh' của Nguyễn Trãi là bộ tư liệu chứng minh cho chiến lược thông minh trong giao thiệp với quân Minh. Nhờ những bức thư này, quân Lam Sơn không phải mất máu mà vẫn giành được nhiều chiến thắng quan trọng.
'Quốc âm thi tập' của Nguyễn Trãi là một tác phẩm văn học quan trọng nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, là một nguồn tài liệu quý giá cho nghiên cứu lịch sử và ngôn ngữ Việt Nam.
Năm 1442, gia đình Nguyễn Trãi bị hãm hại, gây ra sự tiếc nuối lớn lao trong xã hội.
Vào năm 1464, vua Lê Thánh Tông ban hành lệnh phong cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và điều tra con cháu của ông.
Nguyễn Trãi là một biểu tượng vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, là anh hùng dân tộc và là một nhà văn hóa uyên bác của đất nước. Tâm hồn và sự nghiệp của ông tỏa sáng như ánh sáng mặt trời được vua Lê Thánh Tông tôn thờ bằng 'Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo'.
Viết một bài văn nghị luận thể hiện những điều bạn cảm nhận được qua tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi - mẫu 16
Khi nhắc đến Nguyễn Trãi, chúng ta nhớ đến một anh hùng dân tộc và một nhân vật văn hoá nổi tiếng trên thế giới. 'Nguyễn Trãi là biểu tượng của dân tộc Việt Nam, là người sống trọn vẹn với đất nước Việt Nam, với tinh thần thời đại' (Phạm Văn Đồng).
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) được biết đến với hiệu ức Trai, sinh ra tại Chi Ngại (Hải Dương) trước khi chuyển đến Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội). Ông sinh ra trong một gia đình truyền thống yêu nước và văn hoá, với lịch sử học văn. Cha là Nguyễn úng Long (sau này là Nguyễn Phi Khanh), một học giả nghèo, học giỏi và thi đỗ thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Cuộc đời của Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố khác nhau: biến cố trong gia đình (mẹ mất khi ông 5 tuổi, cha và em bị bắt sang Trung Quốc khi ông 27 tuổi), biến cố của đất nước (nhà Hồ thay thế nhà Trần, quân Minh xâm lược, Lê Lợi thành lập triều Hậu Lê, trong thời kỳ bất ổn sau này).
Sống trong thời đại đầy biến động của lịch sử, cuộc đời của Nguyễn Trãi là một cuộc sống anh hùng lẫy lừng nhưng cũng là bi kịch và oan khuất nhất trong lịch sử.
Nguyễn Trãi đã sớm ghi nhận sâu sắc nghĩa vụ quốc gia từ lời dặn của cha vào năm 1407.
Đóng góp lớn của Nguyễn Trãi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và chiến dịch chống lại quân Minh là không thể phủ nhận. Ông tham gia vào cuộc khởi nghĩa từ năm 1417 với vai trò là một nhà chiến lược xuất sắc. Vào cuối năm 1427 và đầu năm 1428, Nguyễn Trãi hỗ trợ Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo. Sau đó, ông tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước.
Nguyễn Trãi đã không thể thực hiện được ước mơ của mình trong thời kỳ hòa bình. Các xung đột nội bộ trong triều đình đã gây ra nhiều vụ án giết người. Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và bị giam giữ, sau đó được tha. Tình huống đó buộc ông phải rút lui và sống ẩn dật tại Côn Sơn. Tuy nhiên, chỉ sau vài tháng, ông được vua Lê Thái Tông triệu tập trở lại làm việc. Đáng tiếc, ba năm sau đó (1442), vua qua đời đột ngột trong một chuyến đi về miền Đông. Kẻ gian đã tận dụng cơ hội này để đổ oan cho Nguyễn Trãi và ông bị kết án tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi và thu thập lại các tác phẩm văn học của ông.
Ông là một anh hùng dân tộc vĩ đại và đã đóng góp quan trọng vào việc xây dựng lịch sử lừng lẫy của triều Hậu Lê. Đồng thời, ông cũng là nạn nhân của sự oan khuất nhất trong lịch sử. Ngoài ra, ông cũng là một nhân vật đa tài hiếm có, với đóng góp nổi bật trong nhiều lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá và văn học. Vào năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Nguyễn Trãi là một nhà văn có sự nghiệp văn chương rộng lớn, với đủ các thể loại từ sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Các tác phẩm viết bằng chữ Hán bao gồm: Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, ức Trai thi tập, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng… Ông cũng để lại bộ Dư địa chí - một bộ sách cổ nhất về địa lí của nước ta.
Nguyễn Trãi được coi là một nhà văn chính luận xuất sắc với một lượng lớn các tác phẩm chính luận. Các tác phẩm tiêu biểu như: Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, Chiếu biểu dưới thời triều Lê.
Những tác phẩm văn chính luận của Nguyễn Trãi đã có đóng góp quan trọng cho việc xây dựng và phát triển đất nước dưới triều Hậu Lê. Quân trung từ mệnh tập chứa đựng những thư từ gửi cho tướng giặc và các văn bản để giao thiệp với triều đình của nhà Minh. Tác phẩm này là sự kết hợp tinh tế của lòng yêu nước, nhân nghĩa và nghệ thuật viết văn chính luận của Nguyễn Trãi.
Bình Ngô đại cáo được coi là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, là bản cáo trạng đanh thép về tội ác kẻ thù, là bản hùng ca về khởi nghĩa Lam Sơn, là áng văn yêu nước của thời đại. Tất cả những giá trị này dựa trên tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước hoà làm một.
Về mặt nghệ thuật, văn chính luận của Nguyễn Trãi hấp dẫn với cấu trúc chặt chẽ, lập luận sắc bén, bút pháp linh hoạt tùy thuộc vào đối tượng và mục đích sử dụng.
Thơ văn của Nguyễn Trãi phản ánh tâm hồn trong sáng và đầy sức sống của ông. Cả hai tập thơ Quốc âm thi tập và ức Trai thi tập đều ghi lại hình ảnh của Nguyễn Trãi vừa là anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế.
Con người anh hùng của Nguyễn Trãi thể hiện qua hai khía cạnh: lý tưởng anh hùng và phẩm chất anh hùng. Lý tưởng anh hùng kết hợp nhân nghĩa với yêu nước thương dân, trong khi phẩm chất anh hùng thể hiện qua sự mạnh mẽ, kiên trì, và lòng dũng cảm chống ngoại xâm cũng như áp đặt chính quyền bạo ngược.
Hoà hợp với con người anh hùng, tâm hồn của Nguyễn Trãi còn chứa đựng sự nhân ái và yêu thương con người. Ông cảm thương nỗi khổ của con người và yêu thương nhân loại. Nguyễn Trãi chịu nhiều nỗi đau từ cuộc sống, nhưng lòng trắc ẩn dành cho thiên hạ. Ông luôn mơ ước về một cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho dân: “Uống rượu mười ba chén để đổi công danh! Chỉ mong một ngày thấy cuộc sống an bình”.
Tình yêu của Nguyễn Trãi không chỉ dành cho thiên nhiên, đất nước, và con người mà còn dành cho cuộc sống. Đối với ông, “Tình yêu thiên nhiên và mọi vật là đo lường tâm hồn” (Xuân Diệu). Thiên nhiên trong thơ chữ Nôm của ông đơn giản, gần gũi, tạo nên một môi trường sống trong lành mà con người giữ được vẻ đẹp trong sáng trong lòng mình: “Chạy qua dòng suối dưới bóng trăng, đi lại giữa cây trúc xanh”. Nguyễn Trãi thấy thiên nhiên như một người bạn tri kỉ, nơi ông có thể truyền đạt triết lý và tình cảm ruột thịt: “Con chim cò nằm che phủ với nhau, cùng với tôi làm một người bạn”. Ông dành những tình cảm ấm áp, nồng nhiệt cho bạn bè, người thân, hàng xóm, và quê hương.
Có thể nói, khía cạnh con người trong thời anh hùng của Nguyễn Trãi là một phần của vẻ đẹp nhân loại, giúp nâng cao tầm vóc của anh hùng dân tộc lên tầm nhân loại.
Nói về Nguyễn Trãi là nhà thơ tình cảm vĩ đại không thể không nhắc đến những đóng góp của ông trong thơ ca Việt Nam, mang ý nghĩa sâu sắc về cả thể loại và ngôn ngữ. Thể thơ thất ngôn xen lẫn với lục ngôn chính là biểu hiện rõ nét của sự cố gắng đầu tiên trong việc Việt hoá thơ Đường luật. Ông cũng khéo léo sử dụng ngôn ngữ hàng ngày và các tài liệu dân gian (như ca dao, tục ngữ...) để tạo nên những tác phẩm sáng tạo.
Nguyễn Trãi là một biểu tượng văn hóa quan trọng của dân tộc, mở ra một giai đoạn mới trong văn học Việt Nam và kế thừa truyền thống văn hóa Lý - Trần. Trên mặt nội dung, tác phẩm của ông tỏa sáng bởi ý thức yêu nước và nhân đạo, đồng thời đạt đến đỉnh cao của tư tưởng Việt Nam thời trung đại. Trong mặt nghệ thuật, Nguyễn Trãi là người đầu tiên khởi đầu cho thơ tiếng Việt với sự phong phú về ngôn ngữ và thể loại. Tập thơ Nôm của ông vẫn được coi là một di sản độc đáo trong văn hóa thơ Nôm Việt Nam.
Nguyễn Trãi mãi mãi là biểu tượng của anh hùng dân tộc với tài năng và sự oan khuất. Ông không chỉ là một nhà thơ tài ba mà còn là một nhân vật văn hóa toàn cầu. Thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông, bất kể là chính luận hay tình cảm, đều thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của một con người vĩ đại và đời thường. Ông là bậc đại thơ Nôm Việt Nam.
Viết một bài văn nghị luận về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi, một hình mẫu văn hóa vĩ đại.
Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa quốc tế, có ảnh hưởng sâu rộng đối với văn học Việt Nam. Cuộc sống và sự nghiệp của ông đầy những biến động, nhưng cuối cùng ông vẫn giữ được những phẩm chất và giá trị đạo đức tốt đẹp. Ông trở thành một biểu tượng lớn trong lòng dân Việt và cả cộng đồng quốc tế.
Cuộc đời của Nguyễn Trãi là một hình mẫu của sự vĩ đại và hùng vĩ, tác phẩm của ông không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn phản ánh thời đại và liên kết với sự phát triển của quốc gia.
Nguyễn Trãi sinh ra vào một thời kỳ lịch sử rối ren, những biến động và cuộc chiến tranh giữa các triều đại đã gây ra rối loạn và mâu thuẫn trong xã hội. Ông có nguồn gốc từ một gia đình quan lại, cha ông là Nguyễn Phi Khanh, quan lớn của triều đình Trần Nguyên Hãn ở Thăng Long. Mẹ ông mất khi ông còn nhỏ, và ông trở về ở với cha ở làng Mỹ Khê - Hà Nội. Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thực hiện các biện pháp cải cách. Ông trở thành tiến sĩ xử Tài Chánh Trường khi mới 20 tuổi.
Năm 1406, khi Minh Thành sai Trương phụ đem quân sang xâm lược Việt Nam, nhà Hồ ra trận đấu nhưng thất bại. Hồ Quý Ly và Nguyễn Phi Khanh bị bắt và đưa về Trung Quốc. Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới lãnh đạo của Lê Lợi. Ông trở thành mưu sĩ của kế quân Lam Sơn và làm việc dưới thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông.
Cuộc đời của Nguyễn Trãi rạng ngời về tài năng nhưng cay đắng về số phận. Gia đình ông bị kết án trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442, nhưng năm 1464, vua Lê Thánh Tông ân xá cho ông. Ông là một nhà văn hóa lớn góp phần vào văn chương Việt Nam. Vụ án Lệ Chi Viên ghi dấu bi kịch trong lịch sử.
Nguyễn Trãi không chỉ là một anh hùng dân tộc mà còn là một tác giả văn học quan trọng của Việt Nam. Tác phẩm của ông toả sáng với tư tưởng yêu nước, thương dân và tình yêu thiên nhiên. Các tác phẩm nổi tiếng như Quân Trung từ Mệnh và Bình Ngô đại cáo là biểu tượng của sự độc lập và tự do của dân tộc.
Ông cũng viết nhiều tác phẩm với nhiều chủ đề khác nhau như Lam Sơn Thực Lục, Dư Địa Chí... đều bằng chữ Hán. Các tập thơ trữ tình như Ức Trai Thi tập và Quốc âm thi tập đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu văn học và ngôn ngữ Việt Nam.
Nguyễn Trãi là một nhà văn hóa vĩ đại của dân tộc, ông đã truyền bá tư tưởng nhân nghĩa sâu sắc. Tác phẩm của ông luôn phản ánh tình yêu nước và thương dân sâu sắc. Ông sống vì dân, về với cuộc sống bình dị sau những ngày tháng chiến trận.
Nguyễn Trãi được đánh giá cao về văn chương chính luận, các tác phẩm của ông thể hiện ý thức tự giác, phục vụ mục đích chính trị, xã hội và tinh thần dân tộc kiên cường. Đó là thành tựu tư tưởng và văn học lịch sử của Việt Nam.
Nguyễn Trãi là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn đối với văn học Việt Nam. Ông là một nhà chính trị, cuộc đời ông dâng hiến cho dân tộc mặc cho những bi kịch, nhưng phẩm chất của ông luôn cao quý.
Viết một bài văn nghị luận thể hiện những điều bạn cảm nhận được qua tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi - mẫu 18
Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa thế giới, không chỉ là anh hùng quân sự mà còn là người yêu nước sâu sắc. Cuộc đời ông đầy thăng trầm, nhưng nhân cách cao đẹp của ông luôn là nguồn cảm hứng cho chúng ta.
Nguyễn Trãi sinh ra tại Hải Dương, trong gia đình nổi tiếng. Ông phải đối mặt với nhiều tổn thương từ khi còn nhỏ, nhưng ông vẫn vượt qua và tham gia vào cuộc kháng chiến Lam Sơn chống lại giặc Minh.
Khi kháng chiến Lam Sơn thành công năm 1428, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo, đánh dấu sự độc lập mới cho dân tộc. Dù cuộc đời ông gặp nhiều biến cố và án oan, tác phẩm của ông vẫn góp phần làm phong phú văn học Việt Nam.
Vượt lên trên số phận, Nguyễn Trãi để lại cho văn học Việt Nam những tác phẩm lớn như Ức Trai Thi tập, Bình Ngô đại cáo, Quốc âm Thi tập.
Các tác phẩm của Nguyễn Trãi thể hiện sự đa dạng, giàu tư tưởng và trữ tình. Ông luôn biểu hiện tình yêu đối với dân tộc và thiên nhiên, và chỉ trích bất công trong xã hội.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Trãi rất độc đáo, ông sử dụng thể thơ Đường luật để tạo ra các tác phẩm với giá trị tư tưởng sâu sắc.
Dù đã trải qua bao nhiêu năm, nhưng di sản và đóng góp của Nguyễn Trãi với văn học Việt Nam vẫn sáng mãi, nhân cách của ông luôn là một tấm gương để chúng ta học hỏi và noi theo.
Viết một bài văn nghị luận thể hiện những điều bạn cảm nhận được qua tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi - mẫu 19
'Danh nhân văn hóa thế giới' Nguyễn Trãi không chỉ là một người anh hùng về mặt quân sự mà còn là một người yêu nước sâu sắc. Cuộc đời ông có nhiều gian nan nhưng dù vậy, ông vẫn toả sáng bằng phẩm chất tốt đẹp và tài năng độc đáo. Ông đã trở thành một biểu tượng quan trọng trong lòng người dân Việt.
Qua thông tin từ sách báo, có thể thấy rằng, Nguyễn Trãi là một con người 'tài hoa bạc mệnh'. Dù có tài năng và nền tảng gia đình tốt đẹp, ông vẫn phải đối mặt với giai đoạn lịch sử đầy rẽ ngòi. Sự sụp đổ và nổi dậy của các triều đại phong kiến đã gây ra nhiều rối loạn, mâu thuẫn nội bộ. Nguyễn Trãi cũng không tránh khỏi bi kịch của án oan 'chu di tam tộc', khiến tất cả các tác phẩm của ông đều bị hủy hoại. Chỉ khi vua Lê Thánh Tông minh oan vào năm 1464, văn thơ của Nguyễn Trãi mới được phục hồi và tôn vinh.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi không chỉ nổi tiếng với sự đa dạng và đồ sộ mà còn với những giá trị vượt thời đại mà nó mang lại.
Nội dung chủ yếu của các tác phẩm của Nguyễn Trãi tập trung vào tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên và những suy tư về thế sự. Đó là tâm hồn trung quân, ái quốc, trọng dân, ơn dân sâu sắc, quý báu của người làm quan. Đó là những cảm xúc, trăn trở sâu sắc của tâm hồn nghệ sĩ về cuộc sống và thời đại. Nhìn vào xã hội đang rối ren với các vấn đề chính trị, Nguyễn Trãi chỉ biết thở dài trong nỗi đau đớn.
Không chỉ xuất sắc về nội dung, thơ văn của Nguyễn Trãi còn là sự kết hợp hoàn hảo giữa nhiều hình thức nghệ thuật đặc sắc. Với vai trò là nhà chính trị, ông đã thành công trong việc sử dụng thể loại văn chính luận. Bằng ngòi bút mẫu mực, ông đã kết hợp hài hòa giữa các tư tưởng và đạo đức Nho giáo với quy luật của cuộc sống. Thơ của ông, dù viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm, đều sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật tinh tế, đậm đà bản sắc dân tộc. Ông còn sáng tạo ra thể thơ Nôm riêng biệt bằng cách kết hợp câu thơ sáu chữ vào bài thơ thất ngôn, tạo ra sự hài hòa đặc biệt. Có thể nói rằng, Nguyễn Trãi đã đóng góp nhiều cho sự phát triển và hoàn thiện của văn học trung đại Việt Nam.
Sinh ra giữa những gian khổ và cám dỗ, Nguyễn Trãi vẫn giữ được lòng thanh khiết, tính chính trực của một người đại trượng phu qua những bài thơ giàu triết lí. Dù gặp nhiều bi kịch, ông vẫn tỏa sáng bằng phẩm chất cao quý. Ông là một trong những tượng đài vĩ đại của văn học Việt Nam.
Xuân Diệu đã nhận xét về Nguyễn Trãi: 'Trán thi sĩ vượt mây, trong lòng thơ cháy lên ngọn lửa cuộc đời rất ấm'. Câu nói này khẳng định về sự cao quý, bao la của thơ văn Nguyễn Trãi, thức tỉnh những cảm xúc mãnh liệt trong lòng mỗi người. Tác phẩm của ông vẫn giữ nguyên giá trị và tác động sâu sắc đến mọi thế hệ.