Bài văn Phân tích Làng xuất sắc nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài mẫu từ các học sinh lớp 9 trên toàn quốc sẽ giúp bạn hiểu và viết về phân tích truyện ngắn Làng một cách tốt hơn.
Tuyển chọn 40 bài Phân tích Làng (súc tích và hấp dẫn)
Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 1
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Các tác phẩm của ông thường mang đề tài cuộc sống của người nông dân. Truyện 'Làng' viết trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và đăng trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Truyện tập trung vào tình yêu nước của nhân vật ông Hai, phản ánh lòng yêu nước từ tình yêu quê hương và nước.
Tác phẩm này thể hiện tình yêu quê hương và lòng yêu nước của người dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. Ông Hai yêu quý làng chợ Dầu, nơi mình sinh sống, mặc dù phải tản cư đốt làng nhưng vẫn không ngừng quan tâm và yêu thương làng quê. Tình yêu quê hương và lòng yêu nước của ông Hai thể hiện qua từng hành động và suy tư của nhân vật.
Tác giả thông qua nhân vật ông Hai muốn khẳng định tình yêu nước và tình yêu quê hương là những giá trị quan trọng, được giữ gìn và truyền đạt qua thế hệ. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thức tỉnh tinh thần yêu nước trong lòng người dân, làm cho họ hiểu rõ hơn về ý nghĩa của việc bảo vệ quê hương. Tình yêu nước và lòng yêu quê hương là hai khía cạnh không thể tách rời trong cuộc sống của người Việt Nam.
Từ đó, vì nỗi lo âu này, ông Hai chỉ còn trút vào đứa con nhỏ ngây thơ: 'Nhà mình ở làng chợ Dầu', 'Hãy ủng hộ Cụ Hé nhé con!'. Những lúc tâm sự đó thực chất là lúc ông tự nhủ với chính mình, giải bày nỗi lòng để khẳng định tình yêu sâu đậm với làng chợ Dầu cũng như lòng trung thành với cách mạng và kháng chiến, biểu tượng là Cụ Hồ. Lòng yêu nước của ông Hai còn được thể hiện rõ nét hơn khi nghe tin đính chính: Làng bị giặc tàn phá, không bén duyên với Tây. Những lo âu, xấu hổ tan biến đi, thay vào đó là niềm vui mừng khôn xiết nên ông nói: 'Tây nó đốt nhà mình rồi ông chủ ạ. Đốt sạch !'. Đây thật sự là một niềm vui kỳ lạ, thể hiện một cách đau lòng và đầy cảm động về tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai. Đây là tình cảm đặc biệt của ông Hai, cũng như của những người nông dân thời kháng chiến chống Pháp.
Tóm lại, 'Làng' của Kim Lân là một truyện ngắn xuất sắc khai thác tình cảm quê hương, đất nước phổ biến trong con người thời kháng chiến. Đây là tình cảm mang tính cộng đồng, nhưng thành công của Kim Lân là đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện cụ thể, sinh động ở một con người, trở thành một nét tâm lí sâu sắc ở nhân vật ông Hai. Vì thế, nó là tình cảm chung mà lại mang rõ màu sắc riêng, cá nhân, in đậm cá tính của nhân vật. Tình yêu làng quê, yêu nước, yêu kháng chiến của nhân vật ông Hai trong truyện là tình cảm thực sự của nhân dân ta trong thời kháng chiến. Truyện giúp chúng ta hiểu, yêu mến và khâm phục biết bao những người nông dân bình dị, chất phác mà lại có tình yêu nước thiết tha và cao cả đến thế.
Dàn ý Phân tích truyện ngắn Làng
1. Mở bài: Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
- Kim Lân thuộc dòng các nhà văn đã nổi tiếng từ trước Cách mạng Tháng 8 - 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hóa của xứ Kinh Bắc, gắn bó với thôn quê, từ lâu đã hiểu biết về người nông dân.
- Làng (1948) đã thành công trong việc thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam với làng quê và tình yêu nước trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Thân bài
* Tổng quan về tác phẩm
- Bối cảnh sáng tác: Truyện ngắn “Làng” được viết vào năm 1948 - thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
- Nội dung cốt truyện: Ông Hai là một người yêu quý làng quê mình đến độ, khiến ông quyết định ở lại làng để tham gia kháng chiến, dù tuổi đã cao. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình, ông phải tản cư lên thị trấn Hiệp Hòa. Rồi một ngày, ông nghe tin làng Chợ Dầu đã bị giặc chiếm, khiến ông rất đau khổ. Nhưng sau khi nghe tin cải chính về làng, ông lại vui sướng đến mức đi khoe nhà mình bị đốt hết trong niềm tự hào.
* Luận điểm 1: Phân tích tình huống trong truyện
- Tình huống: Ông Hai luôn tự hào và yêu quý làng của mình, nhưng khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc
- Tình huống đối nghịch với tình cảm tự hào mạnh mẽ về làng Chợ Dầu của ông Hai, khác biệt với ý tưởng về một làng quê 'tinh thần cách mạng lắm' của ông.
- Ý nghĩa của tình huống: Tình huống này thách thức và thay đổi mạnh mẽ tâm trạng của nhân vật, đặt ra thách thức về lòng yêu nước và lòng yêu làng của ông Hai.
* Luận điểm 2: Tình yêu quê hương, tình yêu nước trong nhân vật ông Hai
- Tình yêu quê hương của ông Hai trước Cách mạng
+ Ông tỏ ra tự hào về làng: giàu có và xinh đẹp, đường phố lát đá xanh mướt, những ngôi nhà ngói sáng bóng như tỉnh, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, còn có cả trạm phát thanh cao bằng ngọn tre...
+ Ông tự hào về quê hương mình từ những điều vật chất đến cái tính cách của tổng đốc làng, tự hào vì làng có một lịch sử vinh quang.
- Tình yêu quê hương của ông Hai sau Cách mạng.
+ Ông tỏ ra tự hào về tinh thần cách mạng của làng, thậm chí cả cụ già tóc bạc cũng tham gia vào các hoạt động, ông khoe những hố, hang và hào...
- Biến đổi tâm trạng của ông Hai:
+ Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu bị theo giặc.
+ Khi nghe tin làng Chợ Dầu đã bị theo giặc.
+ Khi biết tin làng Chợ Dầu đã chuyển hướng ủng hộ Tây.
- Đặc sắc nghệ thuật:
+ Sử dụng ngôn ngữ mạnh mẽ, phong phú và giọng điệu dân dã của người nông dân.
+ Sự đồng nhất về cảm xúc và giọng điệu theo góc nhìn của nhân vật ông Hai (sử dụng ngôi thứ ba).
+ Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai không chỉ phản ánh đặc điểm chung của người nông dân mà còn thể hiện rõ nét cá nhân, tạo nên tính động đậm nét đặc trưng cho nhân vật.
+ Cách diễn đạt tự nhiên, thân thiện và đôi khi hài hước của nhân vật.
+ Miêu tả cụ thể, gợi cảm và tường minh về diễn biến tâm trạng qua suy nghĩ, hành động, lời nói và nội tâm đối thoại.
3. Kết bài
- Tác giả thành công trong việc tạo ra các tình huống trong truyện, trong việc miêu tả tâm lý nhân vật và ngôn ngữ của họ.
- Những đặc điểm về nghệ thuật đóng góp vào việc thể hiện triết lý của tác phẩm: tình yêu quê hương, lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến của người nông dân trong hoàn cảnh bị đuổi xa quê nhà.
- Xác nhận Kim Lân là một tác giả truyện ngắn tài năng, có khả năng lôi cuốn trái tim của độc giả.
Sơ đồ tư duy Phân tích truyện ngắn Làng
Những phẩm chất tốt đẹp của ông Hai như tính cần cù lao động, lòng yêu quê hương và đất nước... là minh chứng cho phẩm chất cao quý, trong sáng của người dân nông thôn Việt Nam. Họ đã làm việc vất vả để tạo ra những bát cơm thơm ngon nuôi sống mọi người. Họ đã hy sinh, chiến đấu 'bảo vệ làng, bảo vệ đất nước, bảo vệ mái nhà tranh, bảo vệ cánh đồng lúa mạch chín...'.
Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 3
Tác giả Kim Lân, tên thật Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1921, quê ở Hà Bắc. Là một nhà văn chuyên viết truyện ngắn, ông đã có những tác phẩm được xuất bản từ trước cách mạng tháng 8. Sâu sắc hiểu biết về cuộc sống nông thôn và người nông dân, Kim Lân gần như chỉ tập trung vào việc mô tả cuộc sống nông thôn và tâm trạng của người nông dân.Truyện ngắn Làng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Kim Lân, được viết vào thời điểm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948). Đây là một câu chuyện độc đáo về lòng yêu nước của ông Hai Tu, một tình yêu xuất phát từ tình yêu sâu đậm đối với quê hương, yêu thương làng quê của mình. Tình cảm này đã lan tỏa khắp mọi nơi trong cộng đồng người nông dân Việt Nam trong những ngày đầu tiên của cuộc chiến chống Pháp.Ông Hai yêu thương làng chợ Dầu của mình đến mức đam mê, tha thiết, ông luôn tự hào khi nói về làng của mình. Khi kể về làng chợ Dầu, ông tả một cách say sưa mà không cần quan tâm người nghe có quan tâm hay không. Ông tự hào về làng của mình với những ngôi nhà đều ngói, sầm uất, đường phố bên trong làng được lát đá xanh, và khi trời mưa từ đầu đến cuối làng không hề bị bùn. Trong mùa thu, lúa và rơm phơi đều chất lượng, không có một hạt nước đất nào.Ông cũng tự hào về vai trò của mình như tổng đốc làng. Ông tự hào và vinh dự vì làng của mình có những nét độc đáo, có một lịch sử dày dạn. Tuy nhiên, khi cách mạng thành công, ông đã nhận ra sai lầm của mình. Từ đó, mỗi khi nói về làng, ông chỉ tự hào về những ngày đấu tranh dũng cảm, những buổi tập quân sự với những người già trên mình vác gậy đi tập. Ông cũng tự hào về những công trình như hố, ụ, và hào,... những công trình không đếm xuể của làng.Điều gì khiến ông phải rời xa làng là cảnh giặc tràn vào. Khi ông xa làng, ông mang theo mọi nỗi buồn nhớ. Vì vậy, mỗi lần đi xa, ông luôn đau lòng khôn nguôi. Thật sự, cuộc sống và số phận của ông Hai gắn liền với làng quê. Tự hào và yêu thương nơi 'chôn rau cắt rốn' của mình đã trở thành một truyền thống và tâm lý chung của người nông dân thời bấy giờ.
Những lo âu và xấu hổ đã tan biến, thay vào đó là niềm vui và sự sung sướng. Ông đi khắp làng, khoe niềm tự hào làng mình không khuất phục giặc, cũng như việc nhà ông bị đốt không làm ông tiếc nuối mà ngược lại, ông vui vẻ, hạnh phúc. Quả thật, tâm trạng của ông Hai đã được Kim Lân diễn đạt một cách rất thành công, là một biểu tượng cho tinh thần của người nông dân Việt Nam sau cách mạng tháng 8.
Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 4
Trong cuộc kháng chiến, tình yêu nước của mỗi người dân chính là động lực mạnh mẽ giúp dân tộc chiến thắng. Yêu làng, gắn bó với làng cũng là cách thể hiện tình yêu nước. Truyện ngắn Làng của Kim Lân nói về một người nông dân có tình cảm sâu sắc với làng quê.
Truyện ngắn Làng kể về Ông Hai, người luôn tự hào và gắn bó với làng của mình. Mỗi khi nhắc về làng, ông luôn tràn đầy sự say mê mà không cần quan tâm đến sự chú ý của người khác. Ông tự hào với cơ sở vật chất và lịch sử của làng, cũng như những nỗ lực của dân làng trong cuộc kháng chiến.
Ngay cả khi nhà của ông bị đốt, ông vẫn không lo lắng mà thậm chí còn rất vui vẻ. Đối với ông, danh dự và tinh thần chiến đấu của làng quan trọng hơn bất cứ thứ gì khác. Tình cảm của ông đối với làng thật sự đáng khâm phục.
Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 5
Kim Lân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn học cách mạng Việt Nam, tác phẩm của ông thường nói về cuộc sống của người nông dân nghèo ở các làng quê Việt Nam. Trong số các tác phẩm nổi tiếng của ông, truyện ngắn Làng là một trong những tác phẩm không thể quên, xoay quanh câu chuyện về tình yêu nước của nhân vật ông Hai, một người nông dân nghèo yêu quê hương và làng quê của mình một cách sâu sắc.
Làng là một tác phẩm tái hiện lại cuộc sống xã hội xưa, với những biến cố và nguy hiểm luôn đe dọa hàng ngày. Tuy nhiên, hình ảnh những người nông dân hiền lành vẫn được ca ngợi vì tinh thần yêu nước và yêu quê hương.
Trong lòng những người nông dân ấy, tình cảm gắn bó với đất nước và làng quê là vô cùng sâu sắc. Dù phải rời xa làng để bảo vệ đất nước, họ vẫn luôn nhớ mãi về nơi sinh sống, tự động viên mình khi nhớ về quê nhà.
Với niềm vui và tự hào về làng quê, ông Hai luôn tỏ ra hăm hở và khoe với mọi người về làng của mình. Tình cảm đó được ông thể hiện một cách mãnh liệt và chân thành, khiến mọi người cảm thấy gần gũi và thấu hiểu.
Ông Hai không ngần ngại chia sẻ niềm vui và tình cảm với mọi người, từ hàng xóm đến những người mới đến làng. Tình yêu và sự đoàn kết của làng đã mang lại cho ông một cái nhìn mới về thế giới, đầy chất nhân văn.
Làng quê với ông Hai như một phần của cơ thể, ông luôn háo hức và say mê khi kể về nó. Ông tự hào về những người từ làng quê, những người anh dũng luôn chiến đấu cho dân tộc. Dù phải rời xa, ông vẫn luôn gắn bó với quê hương và làng quê của mình.
Ông cũng tự hào khi kể về chợ Dầu, nơi đã từng chịu đựng sự tàn phá của kẻ thù. Niềm vui ấy luôn hiện hữu trong tâm hồn ông, là niềm hạnh phúc không thể nào tả được, với sự tự hào vô hạn về làng quê.
Tuy nhiên, khi nghe tin làng mình bị giặc chiếm đóng, ông Hai đau khổ không tả được. Điều đó khiến ông đau lòng và không thể tin được, ông vẫn cố gắng từ chối sự thật đắng cay đó.
Ông cảm thấy xấu hổ và không thể tin được điều đó. Sự thất vọng và sốc khi nghe tin tức làm cho ông mất đi sự tỉnh táo. Ông chịu đựng những nỗi nhục nhã và đau đớn, đặc biệt khi nhận ra rằng những kẻ phản bội là con của làng Việt Nam. Sự đau khổ và tuyệt vọng lấp đầy trong trái tim và tâm hồn của ông.
Ông cảm thấy xấu hổ trước mọi người khi tin tức lan truyền, và gia đình ông phải chịu đựng hậu quả của sự xấu hổ đó. Dù ông Hai có lòng yêu thương làng quê sâu sắc, nhưng khi biết làng đã đầu hàng thì ông tỏ ra phẫn nộ và không muốn quay trở lại nơi đó nữa.
Dù ông luôn yêu quý quê hương, nhưng khi biết làng đã quay lưng với cách mạng, ông không thể tha thứ. Sự đau khổ và tuyệt vọng đã làm cho ông cảm thấy chán nản và xấu hổ.
Tuy nhiên, niềm vui trở lại khi ông nghe tin làng đã thay đổi quyết định. Ông hạnh phúc và đầy hứng khởi, mua quà cho con cái và khoe với mọi người về niềm tự hào làng quê không khuất phục. Tình yêu quê hương đã thể hiện qua những hành động đa dạng của ông.
Tác phẩm này đã gợi lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc về tình yêu quê hương và làng quê.
Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 6
Trong thời kỳ kháng chiến, lòng yêu nước của mỗi người là động lực lớn giúp dân tộc chiến thắng. Có nhiều cách để thể hiện tình yêu nước, và gắn bó với làng quê cũng là một cách. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã nói về một người nông dân yêu quê hương và làng quê sâu sắc.
Nhân vật chính trong truyện là ông Hai, người dân của làng Chợ Dầu, ông rất yêu quý làng của mình và luôn tự hào về nó. Mỗi khi nói về làng, ông đều truyền đạt một cách say sưa, không quan tâm người nghe có chú ý hay không. Ông mô tả mọi thứ ở làng một cách tươi đẹp và lôi cuốn. Đối với ông, mọi thứ ở làng đều tuyệt vời và lớn lao nhất.
Trong những buổi tập, cả ông cụ râu bạc cũng tham gia, và có nhiều công trình khác nhau được xây dựng. Khi phải rời xa làng, ông vẫn mang theo nỗi nhớ và trông chờ về làng. Tin tức về làng theo Tây khiến ông đau đớn và xấu hổ, và dù không muốn tin nhưng ông vẫn cảm thấy buồn bã và tủi nhục khi người ta chửi làng của ông. Tình cảm của ông dành cho làng rất chân thành và trung thành.
Nhà văn đã rất thông cảm và hiểu biết khi mô tả tâm trạng của ông Hai khi đối mặt với nỗi đau của làng theo Tây. Dù yêu quý làng, nhưng ông vẫn trung thành với cách mạng và cụ Hồ. Niềm vui của ông khi nghe làng không theo giặc không gì tả được, và ông tự hào về lòng trung thành và danh dự của làng.
Truyện ngắn “Làng” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả về nhân vật ông Hai, người có tình yêu sâu sắc đối với làng và đất nước. Ông là biểu tượng của tinh thần kháng chiến trong thời kỳ chống Pháp.
Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 7
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết về đời sống nông thôn của Việt Nam. Truyện của ông thường tập trung vào cuộc sống và truyền thống của người nông dân Bắc Bộ. Ông được đánh giá cao về sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống nông thôn và tình yêu của mình dành cho đất nước và con người.
Truyện ngắn “Làng” là một minh chứng rõ ràng cho sự hiểu biết sâu sắc của Kim Lân về cuộc sống nông thôn. Ông đã thành công trong việc mô tả tâm trạng của nhân vật ông Hai và khả năng diễn đạt tình cảm bằng ngôn ngữ thực tế và lời nói hàng ngày của người dân nông thôn.
Trong truyện ngắn “Làng”, Kim Lân đã tạo ra tình huống căng thẳng để thể hiện tình yêu sâu sắc của nhân vật ông Hai đối với làng và đất nước. Tin đồn về làng ông theo giặc đã gây ra một cuộc đấu tranh nội tâm giữa tình yêu làng và tình yêu nước trong tâm hồn của ông Hai.
Ông cảm thấy đau đớn và tủi hổ khi nghe tin đó, nhưng tinh thần kháng chiến và lòng yêu nước vẫn nổi bật hơn tình yêu với làng. Tin tức về sự cải chính của làng đã làm ông cảm thấy hạnh phúc và tự hào về lòng trung thành của làng với cách mạng.
Nhà văn Kim Lân đã tài tình miêu tả tâm trạng phức tạp của nhân vật ông Hai dưới tác động của tình huống. Ông Hai đối mặt với sự xung đột giữa tình yêu làng và tình yêu nước, và nhà văn đã thành công trong việc tái hiện sâu sắc những mâu thuẫn trong tâm trí ông.
Như nhiều người dân nông thôn khác, ông Hai có một tình yêu sâu đậm đối với làng chợ Dầu của mình. Tin đồn về việc làng theo giặc đã khiến ông trải qua những cảm xúc phức tạp, từ niềm vui ban đầu đến nỗi thất vọng và buồn bã sau đó.
Ông Hai chịu đựng sự đau khổ và bất lực khi phải đối mặt với sự phản bội của làng. Tuy nhiên, sau cùng, ông nhận ra rằng tất cả mọi người trong làng vẫn trung thành với tinh thần kháng chiến, và ông tự hỏi liệu mình đã đánh giá họ đúng không.
Cuối cùng, ông Hai nhận ra rằng tinh thần kháng chiến và lòng yêu nước vượt trội hơn mọi khía cạnh khác của cuộc sống. Trong hoàn cảnh khó khăn, lòng yêu nước là điều quan trọng nhất, và phản bội là điều không thể chấp nhận được.
Nhưng ông cũng nhận ra rằng không ai hoàn hảo, và tất cả mọi người đều có thể đối mặt với sự phản bội trong cuộc sống. Việc quan trọng là học từ kinh nghiệm và tiếp tục tiến lên với lòng dũng cảm và đức tin vào tương lai.
Khi nghe tin làng bị giặc tấn công, ông trở nên lo lắng và sợ hãi. Ông không dám rời khỏi nhà, chỉ ẩn mình trong gian nhà nhỏ để nghe tin tức về tình hình chiến trường. Mỗi tiếng nói, mỗi bước chân của người qua lại đều khiến ông hoang mang lo sợ, lo ngại về tương lai của làng.
Ông cảm thấy xấu hổ và đau lòng khi phải rời bỏ nhà cửa vì lệnh trục xuất tất cả người làng khỏi khu vực. Ông không biết nên đi đâu, cũng không thể quay lại làng vì sợ bị xem là bỏ cuộc chiến, bỏ lẽ phải. Sự đau đớn và tuyệt vọng tràn ngập trong ông khi phải xa lìa làng quê, nơi gắn bó với tuổi thơ và tuổi trẻ của mình.
Trong tâm trí ông Hai, cuộc đấu tranh nội tâm giữa tình yêu làng quê và lòng dũng cảm chống giặc diễn ra dữ dội. Ông nhận ra rằng, dù làng quê đã bị thất thế, nhưng lòng yêu nước vẫn hiện hữu mãi trong trái tim mình. Ông chọn con đường đứng về phía cách mạng, dù đau lòng phải xa cách với quê hương.
Cuộc trò chuyện giữa ông và con trai là dấu hiệu rõ ràng nhất của tình cảm sâu nặng của ông dành cho đất nước và cách mạng. Ông chia sẻ cùng con những gánh nặng và nỗi đau của mình, từ đó, ông thấu hiểu rõ hơn về ý nghĩa của sự hy sinh và trung thành với cách mạng.
Nếu không nhận được tin tức tích cực, ông Hai sẽ chìm đắm trong nỗi đau và tuyệt vọng về mất mát của làng quê. Khi biết làng đã cải chính và không theo giặc, ông cảm thấy như được sống lại. Niềm vui tràn ngập trong ông, khiến ông quên hết đi nỗi buồn và khó khăn trước đó.
Ông không hề tiếc nuối khi nhà của mình bị đốt cháy, vì ông hiểu rằng đó là sự hy sinh cần thiết để chứng minh lòng trung thành và dũng cảm của làng quê với cách mạng. Sự kiện đó càng làm cho tình yêu quê hương và lòng dũng cảm chống giặc của ông Hai trở nên rõ ràng và mãnh liệt hơn.
Hành động của ông khi vui mừng và tự hào khoe với mọi người về tin tức làng không theo giặc thể hiện rõ sự kiên định và lòng tin của ông vào chiến thắng của cách mạng. Dù mất đi căn nhà, nhưng ông không hề hối tiếc vì ông hiểu rằng đó là một phần nhỏ của sự đóng góp của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Tính sáng tạo độc đáo của Kim Lân trong nghệ thuật tạo tình huống thật sự hấp dẫn và đầy kịch tính, khiến người đọc cảm thấy căng thẳng với các thách thức tâm lý của nhân vật, từ đó hé lộ sâu sắc về cuộc sống bên trong, tình cảm và tư tưởng của họ. Tác giả đã mô tả tâm lý nhân vật một cách sâu sắc, tinh tế và cụ thể, tạo nên một thế giới nội tâm phong phú với các suy nghĩ, hành vi và ngôn ngữ.
Đặc biệt, nhà văn đã mô tả rất chân thực và ấn tượng về sự ám ảnh trong tâm trí của nhân vật. Điều này cho thấy Kim Lân có hiểu biết sâu sắc về con người và những đặc điểm tâm lí cốt lõi của người nông dân Việt Nam sau thời kỳ lũy tre làng. Qua tác phẩm, độc giả cũng cảm nhận được ngôn ngữ đặc sắc của truyện, đặc biệt là ngôn ngữ của nhân vật ông Hai, phản ánh rõ bản chất của người nông dân trong cuộc sống hàng ngày.
Cách diễn đạt và ngôn từ của nhân vật thể hiện sự nhất quán trong sắc thái và ngữ điệu, lấy ông Hai làm góc nhìn chính, dù vẫn sử dụng lối truyền đạt ở ngôi thứ ba. Ngôn ngữ của nhân vật ông Hai vừa có đặc điểm chung của người nông dân, lại vừa thể hiện rõ cá tính của nhân vật, tạo ra một bức tranh sinh động, chân thực và gần gũi.
Tóm lại, 'Làng' của Kim Lân là một tác phẩm truyện ngắn độc đáo, khám phá một chủ đề phổ biến và sâu sắc trong lòng người trong thời kỳ kháng chiến: tình yêu đất nước và quê hương; trong đó, nhân vật ông Hai là biểu tượng cho tâm trạng và tình cảm của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ cách mạng.
Qua tác phẩm này, chúng ta thấy được tài năng độc đáo trong việc xây dựng tình huống, hình tượng nhân vật có tính biểu tượng với một thế giới nội tâm phong phú, phức tạp và sống động; ngôn ngữ truyện mộc mạc, giản dị và gần gũi với cuộc sống hàng ngày, kết hợp giữa lời kể và đối thoại một cách hài hòa... tất cả đã tạo ra một tác phẩm truyện ngắn độc đáo và hấp dẫn.
Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 8
Nhà văn Kim Lân, tên thật Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở làng Chợ Dầu, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông chủ yếu viết truyện ngắn và có tác phẩm được đăng trên báo từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Với sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống nông thôn, Kim Lân thường chơi chơi xổ số tài về cuộc sống và tâm trạng của người nông dân nghèo trong thời kỳ phong kiến và thực dân.
Truyện ngắn Làng được tác giả sáng tác vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được in trên tạp chí Văn nghệ năm 1948. Tình yêu đối với làng quê và lòng yêu nước, tinh thần chiến đấu của người nông dân được tác giả thể hiện một cách chân thực, sâu sắc và cảm động qua nhân vật ông Hai. Cốt truyện không tập trung vào các chi tiết và sự kiện bên ngoài mà nhấn mạnh vào sự phát triển tâm lý, từ đó làm nổi bật tính cách của nhân vật và chủ đề của tác phẩm.
Bối cảnh của truyện là những năm đầu của cuộc kháng chiến. Theo lệnh của uỷ ban xã, ông Hai và người dân làng phải tản cư để tránh những trận đánh lớn với quân giặc. Xa làng, ông nhớ về cảnh làng, nhớ về những người dân, và mong muốn trở về thăm quê nhà. Một ngày, khi ra phố huyện, ông nghe đám người mới đến nói rằng dân làng Chợ Dầu đã lên giặc, ông cảm thấy rất buồn.
Tuy nhiên, sau đó ông suy nghĩ lại và nhận ra có thể là một sự hiểu lầm. Khi kiểm tra từng người trong làng, ông thấy mọi người đều quyết tâm chiến đấu với quân giặc. Trong lúc ông Hai đang lo lắng, bà chủ nhà lại muốn đuổi ông đi vì ông là dân làng Chợ Dầu 'phản động'. Ông cảm thấy buồn và xấu hổ hơn. Bây giờ, nếu quay về làng thì có nghĩa là ông theo giặc, còn ở lại thì không được. Khi ông Hai cảm thấy tuyệt vọng, chủ tịch làng Chợ Dầu đến và thông báo rằng làng đã cải chính và chiến thắng. Ông Hai rất vui, và mỗi khi đi đâu ông đều kể về làng Chợ Dầu, như thể ông vừa cùng người dân làng đánh bại giặc.
Ở phần đầu của truyện, tác giả mô tả rằng mỗi khi nói về làng Chợ Dầu, ông Hai luôn rất hào hứng và nhiệt tình. Ông kể về làng mình với niềm đam mê, nhấn mạnh vào những điều đặc biệt như nhà ngói liền kề, đường làng được lát đá xanh, và những cụ già vẫn nỗ lực lao động. Ông rất tự hào về làng Chợ Dầu và thường tỏ ra khoe khoang về nó. Theo ông, mọi thứ ở làng Chợ Dầu đều vượt trội hơn so với các vùng khác.
Trong khi cuộc kháng chiến chống Pháp diễn ra, cuộc sống của gia đình ông Hai có nhiều thay đổi, nhưng niềm tự hào về làng Chợ Dầu vẫn không giảm đi. Trong thời gian tản cư, ông thường kể về làng Chợ Dầu với mọi người, nhấn mạnh vào những công trình và sự đoàn kết của người dân. Ông rất tự hào về phong trào kháng chiến sôi nổi của làng Chợ Dầu và đã tích cực tham gia vào các hoạt động xây dựng làng và kháng chiến.
Ở đoạn trích này, tình yêu của ông Hai dành cho làng quê được thể hiện một cách cảm động trong những ngày buộc phải tản cư. Mọi niềm vui và nỗi buồn của ông đều liên quan đến số phận của làng Chợ Dầu.
Ông luôn nhớ về làng của mình và những ngày làm việc cùng với bà con, cùng nhau xây dựng đường, xẻ hào, và lập rào kháng chiến. Ông quá nhớ làng của mình.
Khi cô con gái lớn từ quán trở về, ông Hai giao việc nhà cho con và vội vã đi ra phòng thông tin, sau đó leo lên huyện để nghe tin tức về cuộc kháng chiến.
Tác giả đưa nhân vật vào tình huống căng thẳng để làm nổi bật tính cách và tình cảm sâu sắc của ông Hai đối với làng quê và nước nhà. Tình huống đó là tin đồn làng Chợ Dầu đã khuất phục trước giặc, mà chính ông nghe được từ những người mới tản cư lên.
Khi nghe tin đột ngột đó, ông Hai shock, đứng im lặng: Cổ ông cứ co ro lại, da mặt tái nhợt. Ông im lặng, dường như không thở được... Sau khi bình tĩnh lại một phần, ông vẫn cảm thấy nghi ngờ, nhưng sau đó những người tản cư đã kể chi tiết, khẳng định sự thật, khiến ông không thể không tin.
Ông cảm thấy đau lòng vì làng Chợ Dầu yêu quý của ông đã quay lưng với cuộc kháng chiến. Không chịu được sự nhục nhã, ông giả vờ đi ra chỗ khác. Từ đó, cái tin ám ảnh ấy trở thành một nỗi ám ảnh không dứt. Nghe thấy bà con chửi bới những người làng Chợ Dầu trở thành Việt gian, ông cúi đầu đi. Về nhà, ông nằm lăn ra giường. Nhìn đàn con, ông Hai thấy đau lòng. Nước mắt ông tuôn trào. Liệu chúng nó cũng là những đứa trẻ làng, nhưng sao chúng nó lại bị xem thường, bị coi nhẹ nhàng như vậy?
Đau lòng và xấu hổ, ông Hai luôn căng thẳng và lo sợ người ta nói về làng Chợ Dầu bên ngoài. Có khi quá phẫn nộ, ông nắm chặt đôi bàn tay, nghiến răng nguyền rủa: Chúng nó ăn cơm này, ăn thứ gì vào miệng mà lại làm người Việt gian bán nước để bị xúi dại như thế này.
Trong mấy ngày sau đó, ông Hai không dám ra ngoài, chỉ ở nhà và lắng nghe tình hình bên ngoài: Khi có đám đông tụ tập, ông cũng chú ý, khi có tiếng cười xa xa, ông cũng lo sợ. Luôn luôn nghi ngờ người ta đang nhắc đến “vấn đề ấy”. Khi nghe tiếng Tây, Việt gian, hay cam-nhông... ông lặng lẽ rút lui vào góc nhỏ nhà, giữ im lặng. Thôi thì lại bắt đầu rắc rối ấy rồi!
Tác giả đã mô tả rất chi tiết cảm giác ám ảnh biến thành sự sợ hãi thường xuyên cùng với nỗi đau lòng và sự xấu hổ của ông Hai trước thông tin làng mình theo giặc.
Ông già yêu thương làng quê mình một cách sâu sắc nhưng lại rất tức giận khi nghe tin làng nhà đầu hàng cho kẻ thù. Sự trái ngược trong tình cảm này đã gây ra một cuộc đối đầu nội tâm dữ dội trong ông Hai. Ông quyết định theo đuổi cảm xúc của mình: Yêu thương làng quê là điều tự nhiên, nhưng khi làng nhà đầu hàng, ông phải đánh đuổi sự phản bội đó. Tình yêu quê hương lớn hơn đã áp đặt lên tình yêu cho làng quê. Mặc dù đã có quyết định như vậy, ông Hai vẫn không thể ngừng yêu quê hương của mình; điều này khiến ông cảm thấy đau đớn và hối tiếc hơn.
Ông Hai ngày càng bị đẩy vào tình thế khó khăn, tuyệt vọng khi bà chủ nhà ở nơi tản cư muốn đuổi ông và gia đình đi. Ông không biết phải làm sao nữa. Không ai muốn tiếp nhận dân từ làng đã đầu hàng, nhưng cũng không thể trở về vì trở về là làm nô lệ cho kẻ thù. Sự trái ngược trong tình hình và tâm trạng nội tâm của nhân vật đã đạt đến mức cao nhất, cần phải giải quyết ngay.
Có lẽ lần đầu tiên trong đời, ông Hai cảm thấy tức giận với làng quê của mình. Ông không thể chia sẻ với ai khác, chỉ có thể trút bớt nỗi lòng cho đứa con nhỏ để giảm bớt nỗi đau. Đây là đoạn trích thể hiện một cách thật và cảm động tâm trạng của ông Hai:
Ông cụ ôm thằng con út lên lòng, vỗ nhẹ vào lưng nó, nhẹ nhàng hỏi:
- Ô con ơi! Thầy hỏi con biết không, con là ai đây?
- Con là con của thầy mà, thầy ạ.
- Vậy nhà con ở đâu thế?
- Làng Chợ Dầu là quê hương của gia đình chúng ta.
- Con có muốn quay về làng Chợ Dầu không?
Đứa bé gõ gót vào ngực cha và trả lời nhỏ nhẹ:
- Dạ, có ạ.
Ông cụ ôm chặt đứa bé vào lòng, sau một lúc ông lại hỏi:
- À, thầy hỏi con biết không. Con ủng hộ ai?
Đứa bé giơ tay lên, mạnh mẽ và quyết định:
Dòng nước mắt trên khuôn mặt ông già lăn dài, chảy xuống hai má. Ông thì thầm nói:
- Ừ, đúng vậy, con ủng hộ Cụ Hồ.
Những ngày qua, ông lão thường ngồi lặng lẽ trong góc nhỏ của nhà, khi buồn bã không biết chia sẻ với ai, ông lại thì thầm cùng con nhỏ. Ông nói như vậy như muốn mở lòng ra, như muốn giãi bày tâm trạng của mình, để lòng được thanh thản hơn.
Anh em cùng đồng chí chăm sóc cho gia đình chúng ta.
Ông lão nhấc lên tinh thần của Cụ Hồ, làm gương cho gia đình chúng ta.
Lòng kiên trì của gia đình chúng ta cũng như thế, chẳng bao giờ chịu khuất phục. Dù chết đi chăng nữa, cũng không bao giờ khuất phục. Mỗi lần nói ra những lời như thế, một phần nỗi đau trong lòng ông cũng được giải tỏa đi.
Thấu hiểu qua những chia sẻ với đứa con nhỏ, ông lão thực chất đang tự nhủ với chính mình, đang trút bớt gánh nặng tâm hồn của mình. Đồng thời, ta cũng thấy được tình yêu sâu sắc của ông Hai dành cho làng Chợ Dầu. Ông muốn con nhỏ nhớ rằng: Nhà ta ở làng Chợ Dầu, trung thành với kháng chiến, với cách mạng, với Cụ Hồ. Tình cảm ấy thật sự vững chắc và thiêng liêng.
Cách mạng và kháng chiến đã thức tỉnh lòng yêu nước của người nông dân, kết hợp với tình yêu quê hương thành một tình cảm rộng lớn nhất. Tác giả đặt nhân vật vào tình huống căng thẳng để thể hiện sâu sắc tình yêu quê hương, tình yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng chợ Dầu bị kẻ thù phản bội: 'Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây'. Tin tức đột ngột khiến ông Hai choáng váng, tâm trạng trở nên khó tả. Ông cảm thấy xấu hổ vì làng chợ Dầu yêu quý của mình bị phản bội, biến thành nguồn gốc của sự xấu xa. Từ đó, ông Hai sống trong nỗi lo sợ và ám ảnh, tưởng chừng mọi người đều nói xấu về làng chợ Dầu... Tình yêu nước vượt trội hơn tình yêu quê hương, nhưng ông vẫn không thể bỏ rơi tình cảm đối với làng chợ Dầu, làn da đau đớn ngày càng gia tăng. Cuộc xung đột nội tâm ở ông Hai là kết quả của hai tình cảm đối lập này.
Vì cảm xúc đau lòng này, ông Hai chỉ có thể chia sẻ với đứa con nhỏ: 'Nhà ta ở làng chợ Dầu', 'ủng hộ Cụ Hồ nhé con!' Những lời tâm sự thực chất là ông tự nhủ với chính mình, khẳng định tình yêu sâu đậm với làng chợ Dầu và lòng trung thành với cách mạng, biểu tượng là Cụ Hồ. Tình yêu nước của ông Hai được thể hiện rõ khi nghe tin làng bị tàn phá, không bị phản bội. Lo lắng và xấu hổ tan biến, thay vào đó là niềm vui lớn khi ông nói: 'Tây nó đốt nhà tôi rồi ông chủ ạ. Đốt nhẵn!'. Niềm vui này là biểu hiện đau đớn và cảm động về tinh thần yêu nước và cách mạng của ông Hai, cũng là của những người nông dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Với họ, quan trọng nhất là Tổ quốc, họ sẵn sàng hy sinh mọi thứ cho Tổ quốc dù đó là tính mạng hay tài sản. Tình yêu nước trong cuộc kháng chiến thời bấy giờ là vô cùng cao cả.
Kim Lân thành công trong việc xây dựng tâm lý nhân vật, tạo ra các tình huống căng thẳng để thách thức tâm trạng và tính cách của nhân vật. Việc đặt truyện vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp thể hiện giá trị của nó. Thông qua nhân vật ông Hai, tác giả diễn đạt một cách tự nhiên, linh hoạt, làm cho truyện trở nên sinh động, hấp dẫn hơn.
Tóm lại, 'Làng' của Kim Lân là một tác phẩm xuất sắc khai thác một tình cảm phổ biến trong con người thời kháng chiến: Tình yêu quê hương, đất nước. Đây là tình cảm chung của cộng đồng, nhưng thành công của Kim Lân là biểu hiện tình cảm, tâm trạng đó qua một con người cụ thể, trở thành nét tâm lí sâu sắc của nhân vật ông Hai. Đây là tình yêu nước, tình yêu cách mạng của ông Hai trong truyện, cũng là của nhân dân thời kháng chiến. Truyện giúp chúng ta hiểu, yêu mến và ngưỡng mộ những người nông dân bình dị, có tấm lòng yêu nước cao cả như vậy.
Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 10
Quê hương là tinh tú ngọt ngào
Cho con trèo lên hái mỗi ngày
Quê hương là dòng sông nhỏ
Con trở về ngập tràn hạnh phúc.
(Quê hương – Đỗ Trung Quân)
Trong lòng mỗi người, quê hương là nơi thân thương và bình dị nhất. Tình yêu quê hương luôn là chủ đề quan trọng trong văn học. Truyện ngắn Làng của Kim Lân cũng không nằm ngoài vòng đó. Được viết trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (1948), truyện đã tạo dựng nhân vật ông Hai – một người nông dân chăm chỉ, yêu làng và yêu kháng chiến.
Ông Hai yêu cái làng chợ Dầu của mình đến mức tha thiết và sâu sắc. Ông khoe về làng mình một cách nồng nhiệt, không quan tâm đến sự chú ý của người nghe. Ông tự hào về những ngôi nhà ngói sát nhau, đường lát đá xanh mướt, và đường đi không dính bùn khi trời mưa. Mỗi năm, tháng 5 ngày 10, làng phơi rơm và thóc tốt nhất, không một hạt bẩn nào quấn lấy thóc.
Ông cũng tự hào về nguồn gốc lịch sử của làng mình và những công trình mà làng đã xây dựng. Tuy nhiên, sau thành công của cách mạng, ông nhận ra những sai lầm của mình và thay đổi cách nhìn về làng. Ông bắt đầu khoe những hoạt động của làng trong cuộc cách mạng, như buổi tập quân sự với cụ già mang gậy đi tập. Ông cũng tự hào về những công trình xây dựng như hố, ụ, hào,...
Khi giặc xâm nhập làng, ông buộc phải rời xa nơi thân thương mang theo nỗi nhớ. Việc đó khiến ông cảm thấy đau lòng và lo lắng. Cuộc đời và số phận của ông Hai liên kết mật thiết với biến cố của làng.
Tự hào và lòng yêu thương nơi 'chôn rau cắt rốn” trở thành một truyền thống và tinh thần chung của những người nông dân hiện nay. Tình yêu quê hương của họ có thể xuất phát từ những điều đơn giản như cây đa, giếng nước, hay sân đình... và nâng cao lên thành tình yêu đối với đất nước. Nhớ lại câu nói của nhà văn I-li-a Ê-ren-bua: 'Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu tổ quốc'.
Tình yêu của ông Hai đối với làng được thể hiện rõ qua những ngày ông phải tản cư. Ông luôn nhớ về làng, yêu đường làng, ngõ xóm, nhà ngói, sân gạch. Ông yêu tất cả những điều gần gũi và độc đáo của làng. Ông yêu những khoảnh khắc hạnh phúc được cùng anh em làm việc, xây dựng. Từ tình yêu cháy bỏng đó, ông đến với Cách mạng mà không hề biết từ khi nào.
Ông tham gia tản cư vì đó cũng là cách tham gia vào kháng chiến. Ở vùng tản cư, ông luôn theo dõi tin tức của làng, thường xuyên đến phòng thông tin để nghe đọc báo. Ông rất vui mừng khi nghe những tin tức tích cực về cuộc kháng chiến, và luôn tự hào khi kể về tinh thần của làng. Sau Cách mạng tháng Tám, ông cảm thấy thay đổi trong cách nhìn về làng và tổ quốc.
Tuy nhiên, niềm vui chưa kịp bày tỏ thì ông Hai bất ngờ nhận được tin làng Chợ Dầu bị coi là Việt gian theo phương Tây. Tin này khiến ông chấn động và đau đớn. Ông trở nên bất an và lo lắng, không dám ra ngoài. Ông cảm thấy mất mát và tổn thương khi nhìn nhận sự thật đó. Từ đó, ông phải đối diện với nhiều nghĩa vụ thanh minh và giải thích.
Cảm giác bàng hoàng của ông Hai trước tin tức đó thể hiện sự đau đớn và sốc. Ông trở nên bất an và khó chịu, không thể giấu được cảm xúc của mình. Mỗi ngày, ông sống trong nỗi buồn và hoài nghi về sự thật của tin đồn. Ông tự hỏi liệu có phải là sự thật hay không, và luôn lo lắng về hậu quả của những thông tin đó.
Tình huống đó gây ra nhiều cảm xúc trong ông Hai. Ông trải qua những cung bậc cảm xúc từ bàng hoàng, đau đớn đến lo lắng và hoài nghi. Ông cảm thấy tổn thương và mất niềm tin khi phải đối mặt với sự thật đắng cay. Cảm xúc của ông là một hỗn hợp giữa sự lo lắng, bất an và hy vọng vào sự lường trí và công bằng.
Sự thật không phải lúc nào cũng dễ chấp nhận. Ông Hai phải đối mặt với sự đau đớn và khó khăn của cuộc sống, nhưng cũng hy vọng vào sự khôn ngoan và công bằng để vượt qua những thách thức. Ông cảm thấy phải làm gì đó để giải quyết tình huống, và hy vọng vào sự ủng hộ và hiểu biết từ người khác.
Ông đối mặt với tình hình khó khăn khi biết rằng ở vùng tản cư không ai chấp nhận những người làng Chợ Dầu nữa. Ông quyết định cao đẹp: 'Làng vẫn trong lòng nhưng khi làng theo Tây thì phải đối đầu'. Đó là hành động cao cả của ông Hai - một người dân yêu nước. Cuối cùng, ông chọn theo đuổi lý tưởng cách mạng của Cụ Hồ, thể hiện sự kết hợp giữa tình yêu làng và tình yêu nước. Điều này là một bước tiến mới trong suy nghĩ và tình cảm của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi.
Khi tin đồn làng ông bị coi là Việt gian theo phương Tây bị chỉnh sửa, ông cảm thấy vô cùng hạnh phúc và sung sướng. Ông tự hào kể về làng, thậm chí là về ngôi nhà của mình bị đốt cháy bởi Tây. Ông mô tả chi tiết về trận đánh với Tây, tình hình của làng và sự đóng góp của mình trong cuộc chiến.
Ông Hai đã trải qua một sự thay đổi rõ rệt trong tâm trạng của mình từ trạng thái đau đớn đến hạnh phúc khi tin tức về làng bị coi là Việt gian được sửa đổi. Sự thay đổi này phản ánh cách mà con người thích nghi với sự biến đổi của hoàn cảnh. Sự mất mát và đau đớn đã chuyển sang niềm vui và hạnh phúc. Điều này là một ví dụ điển hình về tác động của môi trường đến tâm trạng và cảm xúc của con người.
Quê hương luôn là một hình ảnh không thể phai mờ trong thơ ca. Nhà văn I-li-a Ê-ren-bua từng viết: 'Tình yêu với làng quê là tình yêu với đất nước'. Kim Lân đã truyền đạt thông điệp này thông qua câu chuyện sâu sắc và nội tâm về nhân vật ông Hai. Ông Hai trở thành biểu tượng cho tình yêu đất nước của người nông dân Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi.
Phân tích truyện ngắn Làng – mẫu 11
Truyện ngắn Làng của Kim Lân được viết vào giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp và được đăng trên báo Văn nghệ năm 1948. Truyện tập trung vào tình yêu quê hương và lòng yêu nước, thể hiện qua nhân vật ông Hai - một nông dân phải xa làng để tản cư. Đây là biểu hiện rõ nét của tình yêu đất nước trong thời kỳ kháng chiến.
Truyện Làng làm sâu sắc vào tình cảm đồng đều và phổ biến trong thời kỳ kháng chiến: tình yêu quê hương và đất nước. Kim Lân đã thành công trong việc diễn đạt cảm xúc và tâm trạng của nhân vật ông Hai, từ đó phản ánh một cách rõ ràng tình yêu của người nông dân dành cho quê hương và đất nước. Đây là một tác phẩm văn học có tính nhân văn cao và ảnh hưởng sâu rộng trong văn học Việt Nam.
Giống như những người nông dân khác trong thời kỳ kháng chiến, ông Hai, với một tình cảm đặc biệt, yêu quý làng quê, nơi ông sinh ra và lớn lên - làng Chợ Dầu. Ông luôn đam mê kể về làng, tự hào về nó ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tình cảm này được thể hiện một cách nồng nhiệt khi ông phải rời xa làng đi tìm sự sống.
Khi nói về làng quê, ông Hai luôn tỏ ra hứng khởi và hào hứng, ánh mắt của ông tỏa sáng. Mỗi lần ông kể chuyện về làng, kể cả những lần trước đó, ông luôn kết thúc bằng phần nói về làng.
Thái độ của ông Hai đối với làng quê được thể hiện rõ ràng trong việc tự hào. Những lời tự hào của ông đa dạng, từ việc hãnh diện đến việc giảng giải, từ việc biết nhiều đến việc nói suốt. Ông khoe làng quê với phòng thông tin rộng lớn nhất khu vực, trạm phát thanh cao bằng cây tre cao gọi toàn làng nghe. Ông tự hào về ngôi nhà gạch của làng, với những con đường lát đá xanh.
Ông Hai cũng tự hào về vị trí quan trọng của mình trong làng. Ông cảm thấy vui mừng khi làng có một vị tổng đốc như ông. Ông rất tự hào về việc đó. Khu dinh cơ cụ Thượng làng của ông đẹp không kém lăng cụ Thiếu Hà Đông. Sau cách mạng, ông Hai có những suy nghĩ mới về việc tự hào về làng quê.
Không chỉ tự hào về thành tựu của làng, ông Hai còn nhớ đến những khó khăn mà làng và nhân dân của làng phải đối mặt. Khi nói về làng quê, ông nhắc đến những ngày cách mạng, những buổi tập quân sự, những công trình hạ tầng của làng. Đôi khi, ông ngậm ngùi nhớ lại những kỷ niệm đầy xúc động.
Biểu hiện và tình cảm tự hào của ông Hai đến từ tình yêu sâu đậm dành cho làng quê. Ông tự hào và nói về làng để giữ kỷ niệm về nơi ông sinh sống, nơi mà ông đã tham gia vào phong trào cách mạng để giúp quê hương.
Với tình yêu mãnh liệt dành cho làng Chợ Dầu, ông Hai không bao giờ muốn rời xa làng vào những lúc khó khăn. Ông luôn nghĩ: Tôi đã sống ở đây từ khi còn nhỏ, ông cha của tôi đã sống ở đây từ bao đời nay. Bất cứ khó khăn nào, đều là việc của chúng ta cùng nhau chia sẻ. Ông Hai phải đối mặt với nhiều khó khăn trong hoàn cảnh hiện tại.
Ông không tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến ở làng, mà phải tạm thời rời khỏi làng để tìm sự an toàn. Dù xa làng, ông Hai luôn mang trong lòng sự nhớ nhà, sự nhớ về làng. Mỗi khoảnh khắc, mỗi ngày, ông không ngừng nghĩ về làng. Nỗi nhớ về làng luôn hiện hữu trong tâm trí ông. Mọi kỷ niệm và cảm xúc đều liên quan đến những hoạt động kháng chiến như hát hò, đào hào, khuân đá. Tình yêu dành cho làng quê của ông Hai đã phát triển, được bồi dưỡng bởi tình yêu mới - tình yêu dành cho cuộc kháng chiến. Ông Hai không chỉ là một dân làng ở Chợ Dầu, mà còn là một chiến sĩ của phong trào kháng chiến của làng.
Nhà văn Kim Lân đã miêu tả một tình cảm, một truyền thống tâm hồn quen thuộc của người nông dân - tình cảm gắn bó với làng quê, tự hào về quê hương. Cảm xúc tự hào này được ca dao diễn đạt:
Anh đi nhớ quê hương
Nhớ mùi rau muống, mùi cà dầm tương
Nhớ những người gặp gỡ dưới nắng, dưới sương
Nhớ những giọt nước chảy trên đường ngày xưa.
Cách mạng và cuộc kháng chiến đã đánh thức tình yêu đất nước trong lòng người nông dân. Ở ông Hai, tình yêu với làng quê không thể tách rời khỏi tình yêu với tổ quốc. Như nhà văn I-li- a Ê ren bua đã nói: '... lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu làng quê cũng chính là lòng yêu đất nước.' Mỗi người đọc có thể hiểu sâu sắc hơn về tình yêu dành cho làng quê và đất nước của ông Hai - người nông dân cách mạng.
Tác giả đã đưa ông Hai vào một tình huống căng thẳng. Đó là tin đồn làng Chợ Dầu sẽ theo phe giặc, mà ông nghe được từ những người tị nạn qua làng ông. Với một người luôn tự hào và yêu quý làng như ông Hai, việc nghe tin ấy không thể không làm ông đau lòng. Ông Hai choáng váng, cổ ông tê cứng, và ông lặng lẽ rời đi như không còn khả năng thở.
Từ đó, cái tin dữ ấy đã chiếm trọn tâm trí ông Hai, trở thành nỗi ám ảnh không nguôi trong lòng ông. Khi ra ngoài đường, ông cúi đầu và đi một cách mất mát, còn khi về nhà, ông nằm trên sàn và khóc không ngừng. Ông lo lắng, trăn trở, và không thể ngủ được. Mấy ngày sau đó, ông Hai chỉ ở nhà và lo lắng, không dám ra ngoài.
Ông Hai lo sợ làng sẽ bị Việt gian đánh phá. Nhưng ông không thể quay lại làng vì sợ bị coi là bỏ cuộc kháng chiến, bỏ bê nguyên tắc của cụ Hồ. Dù ông yêu quý làng, nhưng nếu làng chọn theo phe Tây, ông sẽ tức giận. Tấm lòng yêu nước của ông chỉ có ông hiểu, không thể chia sẻ cùng ai.
Tuy nhiên, điều làm ta cảm động hơn là tâm trạng của ông Hai khi biết làng Chợ Dầu không theo phe giặc. Bản mặt buồn rầu hàng ngày bỗng trở nên tươi sáng khi ông gọi con trai ra để chia sẻ niềm vui. Ông hạnh phúc và tự hào, và ông không nghĩ đến sự tiếc nuối hay buồn bã về ngôi nhà của mình bị giặc phá hủy.
Niềm hạnh phúc vì làng không bị giặc xâm lược, không có kẻ phản bội đã làm sạch hết nỗi đau và bế tắc trong tâm trí ông Hai. Lúc này, ông Hai trở lại việc kể chuyện về làng với mọi người với sự rõ ràng và tỉ mỉ như là ông vừa trải qua một trận chiến mới. Ông Hai là biểu tượng của người nông dân bình thường nhưng giàu lòng yêu nước. Một mẫu người đáng quý của dân tộc Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Pháp.
Bên cạnh thành công về nội dung, truyện Làng của Kim Lân còn thành công về mặt nghệ thuật. Cốt truyện được xây dựng theo diễn biến tâm lý có sức thuyết phục và ý nghĩa sâu sắc về tình cảm quê hương của một người dân kháng chiến.
Ngôn ngữ của nhân vật được miêu tả một cách tự nhiên, gần gũi với dân dã. Tác giả tài tình khi mô tả tâm lý nhân vật, xây dựng tình huống truyện độc đáo, tạo nên sự hấp dẫn và xúc động về tình yêu quê hương của ông Hai, cũng như về nghệ thuật kể chuyện tinh tế của Kim Lân.
Khi đọc tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân, chúng ta được để lại ấn tượng tốt về hình ảnh của ông Hai - một người nông dân đậm chất làm và khoe. Ông Hai luôn gắn bó chặt chẽ với làng quê, với tinh thần kháng chiến và lòng yêu nước, một lòng theo Cụ Hồ. Đồng thời, chúng ta cũng cảm nhận được sự sáng tạo trong việc xây dựng tình huống của nhà văn Kim Lân, người có tài viết về nông dân và làng quê.