Các bài viết mẫu Lớp 10 số 6 được chọn từ các cuộc thi học sinh giỏi văn học cấp quốc gia, đây là tài liệu tham khảo hữu ích giúp học sinh có nhiều ý tưởng mới cho bài viết của mình.
Bài viết mẫu số 6 Lớp 10 Đề 1: Thuyết minh về một tác phẩm văn học
Đề số 01: Thuyết minh về một tác phẩm văn học
Kế hoạch cụ thể
I. Khởi đầu:
- Tổng quan về tác phẩm (tác giả, thời gian, bối cảnh sáng tác, ý nghĩa cốt lõi).
II. Nội dung chính:
- Thông tin về tác giả của tác phẩm:
+ Tập trung vào các thông tin chính liên quan đến tác phẩm, như lý lịch tác giả...
+ Bối cảnh tác giả sáng tác tác phẩm.
- Giới thiệu về tác phẩm:
+ Thông tin về nơi tác phẩm thuộc, và thời điểm xuất bản liên kết với cuộc đời của tác giả.
+ Cấu trúc của tác phẩm và tóm tắt ngắn gọn nội dung.
+ Mô tả về các nhân vật trong tác phẩm (nếu có).
+ Tính cách và thông điệp mà tác giả muốn truyền đạt qua nhân vật.
+ Nội dung và ý nghĩa chính của tác phẩm.
+ Các chi tiết đặc biệt và hình ảnh đặc trưng thể hiện giá trị của tác phẩm.
+ Phong cách nghệ thuật trong tác phẩm.
+ Thông điệp mà tác giả muốn truyền đạt qua tác phẩm.
+ Cảm nhận và nhận thức của bạn khi tiếp xúc với tác phẩm đó.
III. Kết luận:
- Nhận xét và đánh giá về tác phẩm.
- Vị trí của tác phẩm trong ngữ văn.
Mẫu số 01 để tham khảo
Suốt lịch sử văn học Việt Nam đã sinh ra vô số tác phẩm, mỗi tác phẩm đều đặt dấu ấn sâu sắc trong lòng người dân Việt. Dễ dàng nhận thấy những trang văn đậm chất yêu nước, lịch sử hào hùng, trong đó có “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, được đánh giá là tác phẩm vĩ đại nhất, là tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.
Nguyễn Trãi được biết đến như một nhà lãnh đạo quân sự tài ba, nhà chính trị kiệt xuất và cũng là một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của văn học Việt Nam. Ông được tôn vinh là danh nhân văn hóa Thế giới. Trong cuộc sống, ông là người có công lớn trong việc đấu tranh giành độc lập cho đất nước, được vua Lê Lợi tôn trọng và sử dụng trong quá trình xây dựng đất nước. Để lại di sản văn học to lớn, trong đó có tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”.
Đây là bài cáo mà Nguyễn Trãi viết theo sự yêu cầu của vua Lê Thánh Tông, ban hành vào năm 1428. Ngay sau khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành chiến thắng, quân Minh phải rút quân về nước, Việt Nam giành lại được độc lập. Nhân dịp này, Lê Lợi, chỉ huy cuộc khởi nghĩa, yêu cầu Nguyễn Trãi, một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong cuộc chiến chống lại quân Minh, viết “Bình Ngô đại cáo” để thông báo cho cả nước biết tin vui.
Tác phẩm được viết theo thể cáo, xuất phát từ Trung Quốc, viết bằng chữ Hán, thuộc thể văn chính luận, nhằm thông báo chính sách, sự kiện quan trọng liên quan đến quốc gia, công bố trước mắt công chúng. Bài cáo có ý nghĩa vô cùng quan trọng, tuyên bố về việc đánh bại quân Minh, có bố cục chặt chẽ, viết theo lối biền ngẫu, sử dụng thể tứ lục và hình ảnh sinh động.
Cấu trúc của bài cáo có thể phân thành bốn phần.
Phần 1: Đề cập đến ý thức nhân nghĩa trong cuộc chiến và lòng kiêu hãnh về truyền thống bất khuất của dân tộc (từ đầu đến chứng cứ còn lại)
“Nhân nghĩa là gốc còn dân yên vui
Quân vì dân, tiễn hòa loại ác
Đất nước Đại Việt từ xưa
Là nơi tuôn trào văn minh cao
Non sông vẫn hiên ngang chia rẽ
Phong tục Bắc Nam khác biệt
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần góp công độc lập
Với Hán, Đường, Tống, Nguyên từng phương xâm lược”
Tác giả nhấn mạnh ý thức nhân nghĩa trong cuộc chiến, ý thức độc lập dân tộc. Nhân nghĩa và yên vui liên kết với nhau. Đây là tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Trãi, làm nền tảng cho cả bài cáo. Bằng cách diễn đạt kép kín: Đại Việt và Đại Cảo tồn tại song song qua nhiều thế hệ, cho thấy niềm tự hào với truyền thống mạnh mẽ của dân tộc.
Phần hai: Kể về tội ác của kẻ xâm lược, lợi dụng tình hình rối ren của đất nước để đưa quân sang xâm lược và gây ra bi kịch cho nhân dân (sau đó ai có thể nói rằng dân tộc chúng ta không chịu nổi).
'Dân ta bị đốt trên ngọn lửa địch tàn ác
Đưa con em xuống dưới hầm tai vạ'
Kẻ Minh hung ác, thường xuyên tàn sát, biến nhân dân thành nguồn dầu và thức ăn. Chúng thậm chí còn tổ chức các sự kiện nướng nhân dân vô tội như lễ hội. Chính sách thuế sai lầm khiến nước ta rơi vào hoàn cảnh khốn khó, sản xuất suy thoái, môi trường ô nhiễm, khiến người dân sống trong cảnh khổ cực. Tội ác của giặc Minh chồng chất, không thể tha thứ, cả thần linh và dân chúng đều không chịu nổi. Sự đau lòng và hận thù đã đẩy người dân Đại Việt lên đấu tranh.
Đoạn văn thứ ba là phần lớn nhất, như một bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nói về sự gian nan trong quá trình khởi nghĩa. Ban đầu, khởi nghĩa gặp nhiều khó khăn về vật dụng, quân sĩ, và nhân tài, nhưng tinh thần của quân đội không bao giờ suy giảm.
'Khi dân Lam Sơn mất hết lương thảo vài tuần
Khi quân Khôi Huyện không còn một đội quân'
Tuyệt vời
“Như sao sáng rực buổi sớm mai
Như lá rụng mùa thu về”
Nhờ vào lòng đoàn kết và sự lãnh đạo tài ba của Lê Lợi, quân Lam Sơn đã phát triển mạnh mẽ và giành chiến thắng ấn tượng. Mỗi trận đánh của quân Lam Sơn đều là một chiến thắng to lớn, làm kinh ngạc cả giặc. Trong khi đó, giặc Minh liên tiếp thất bại, mỗi lần thất bại đều đau đớn và nhục nhã. Các tướng quân giặc đều gặp kết cục bi thảm: một số treo cổ, một số quỳ gối xin tha thứ, và một số bị đoạt mạng.
Kết thúc bài cáo với bầu không khí hân hoan, khích lệ về chiến thắng vĩ đại của quân Lam Sơn. Cùng với đó là những lời ca ngợi về sự hòa bình, lòng yêu nước của dân tộc, mong muốn xây dựng một đất nước hòa bình, phồn thịnh và tự do.
Mẫu số 02 để tham khảo
“Khi Nguyễn Trãi viết thơ và đánh giặc
Nguyễn Du sáng tác Kiều, văn chương trở thành biểu tượng của đất nước...”
Câu thơ từ bài thơ của Tố Hữu, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này? đã thể hiện sự quý trọng về giá trị văn hóa của Truyện Kiều trong văn học Việt Nam. Truyện Kiều không chỉ là tài sản văn hóa của chúng ta, mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc...
Truyện Kiều, còn được biết đến với tên gọi Đoạn trường tân thanh, lấy cảm hứng từ những câu chuyện cổ xưa và thể hiện sự đau đớn của cuộc sống. Tên gọi này mang ý nghĩa sâu sắc về nỗi đau của con người khi phải đối diện với những khó khăn, thử thách.
Truyện Kiều, viết bằng chữ Nôm, đã ghi lại một phần quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam. Nguyễn Du đã mang lại sự mới mẻ cho tác phẩm, thể hiện sự sáng tạo và tâm hồn dân tộc Việt Nam thông qua nhân vật Thúy Kiều.
Nội dung chính của Truyện Kiều tập trung vào cuộc sống đầy gian nan của Thúy Kiều sau khi bị bán mình. Cuộc sống của Kiều đầy bi thảm nhưng cũng đong đầy lòng dũng cảm và hy vọng. Câu chuyện về tình yêu, đau khổ và hy vọng đã làm cho Truyện Kiều trở thành một kiệt tác văn học của dân tộc.
Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là một kiệt tác văn học nhờ vào giá trị tư tưởng và nghệ thuật mà nó mang lại cho văn học Trung Đại Việt Nam. Tác phẩm này tạo nên một bức tranh sống động về xã hội phong kiến thời kỳ suy thoái, nơi tiền bạc có thể mua được mọi thứ, từ công lý, đạo đức đến số phận con người. Truyện Kiều không ngừng phản ánh sức mạnh của tiền bạc và tội ác của kẻ thống trị.
Truyện Kiều kể về số phận của một cô gái tài sắc nhưng lại chịu đựng nhiều gian khổ và bi kịch. Thúy Kiều, với tấm lòng sắc son và khát khao sống, yêu và hạnh phúc, luôn được Nguyễn Du kể về với sự trân trọng và nâng niu. Tình yêu, khao khát tự do và công lý được thể hiện rõ qua cuộc đời đầy bi hận của Kiều.
Đoạn thơ “Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần” trong Truyện Kiều thể hiện sự đau đớn và tự do của con người trong xã hội phong kiến. Khao khát tình yêu tự do và công lý của Thúy Kiều được Nguyễn Du gửi gắm qua những câu chữ đầy ý nghĩa này.
Đọc Truyện Kiều, người đọc cảm thấy thương cảm với số phận của Kiều và hiểu rõ hơn về khát vọng của cô gái này về tình yêu tự do và công lý. Khao khát này được thể hiện qua những hành động và quyết định của Kiều trong cuộc sống.
Truyện Kiều không chỉ là tác phẩm văn học lớn mà còn là bức chân dung tinh thần của Nguyễn Du. Tác giả đã truyền đạt sâu sắc tình yêu thương con người và sự bi kịch của cuộc đời qua từng trang sách, từng câu chữ của tác phẩm này.
Trong tác phẩm Kiều, Nguyễn Du đã khéo léo xây dựng hệ thống nhân vật với hai tuyến thiện ác rõ ràng. Mỗi nhân vật đều có đặc điểm riêng và được phác thảo một cách sâu sắc, đủ để ghi nhớ trong lòng độc giả. Truyện Kiều là một tác phẩm hoàn hảo về mặt kỹ thuật và hiện thực, với ngôn từ sắc nét và đầy ý nghĩa.
Truyện Kiều đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn hóa và đời sống của người Việt. Nhiều khái niệm, từ ngữ xuất phát từ tác phẩm này đã trở nên phổ biến trong xã hội, ví dụ như 'lẩy Kiều', 'trò Kiều', 'vịnh Kiều', 'tranh Kiều', 'bói Kiều'... Một số nhân vật trong truyện cũng trở thành biểu tượng cho những đặc điểm tính cách nhất định.
Bài tham khảo mẫu 03
Những tác phẩm văn học như Lão Hạc của Nam Cao và Tắt Đèn của Ngô Tất Tố đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả. Mỗi lần đọc lại, tôi luôn phát hiện ra những điều mới mẻ và thú vị. Cảm xúc của tôi thay đổi từ sự căm phẫn đến tình yêu thương.
Lão Hạc là biểu tượng của lòng nhân đạo cao cả và tình yêu thương của Nam Cao đối với người lao động. Giống như nhiều tác giả khác thời đó, Nam Cao đã vẽ nên hình ảnh của người nông dân Việt Nam với những phẩm chất đáng quý: chăm chỉ, cần cù, yêu thương và hy sinh.
Cuộc đời của Lão Hạc chứa đựng nhiều cảm xúc phong phú và bi kịch. Lão đã hy sinh tất cả cho con cái mình mà không một lần nghĩ đến bản thân. Điều này khiến ta đau lòng và cảm phục trước tình yêu thương và sự hi sinh của ông.
Dù đã qua đời, nhưng Lão Hạc để lại cho chúng ta một tấm gương sáng về lòng tự trọng và lòng yêu thương gia đình. Ông đã giữ vững ngôi nhà và không làm phiền ai khi rời bỏ thế gian.
Trong Lão Hạc, không chỉ có Lão chịu khổ mà còn có những nhân vật khác như Binh Tư và ông giáo, họ cũng gặp phải nhiều khó khăn và thách thức trong cuộc sống vì nghèo đói. Tác phẩm nói lên sự khốn khó và mất mát của những người dân nghèo.
Tác phẩm Lão Hạc phản ánh niềm tin vào lòng tốt của con người và cũng đề xuất một lời kêu gọi cần thiết để cải thiện điều kiện sống của họ. Nó là một thông điệp về sự cần thiết phải bảo vệ nhân phẩm và giá trị của con người.
Lão Hạc giúp chúng ta nhìn lại quá khứ và trân trọng cuộc sống hiện tại hơn. Nó cũng nhấn mạnh rằng cuộc sống là một cuộc chiến đấu để bảo vệ nhân phẩm và tồn tại của con người.
Bài tham khảo mẫu 04
Nguyễn Dữ là một tác giả nổi tiếng trong văn học Trung Đại Việt Nam. Ông được biết đến với bộ truyện 'Truyền kỳ mạn lục', được đánh giá cao trong văn học dân tộc. Trong đó, 'Chuyện chức phán sự đền Tản Viên' là một tác phẩm nổi bật, tôn vinh lòng dũng cảm và trung thực của Ngô Tử Văn - một nhà trí thức Việt Nam.
'Chuyện chức phán sự đền Tản Viên' được viết bằng chữ Hán dưới dạng truyện kỳ. Đây là loại văn học phản ánh cuộc sống qua các yếu tố huyền bí. Truyện mô tả nhân vật và ma quỷ, thần thánh, với mối quan hệ phức tạp giữa chúng. Nó được sáng tác vào khoảng thế kỉ XVI, trong giai đoạn xã hội Việt Nam đang trải qua suy thoái và khủng hoảng.
Trong 'Chuyện chức phán sự đền Tản Viên', Ngô Tử Văn được miêu tả là một người kiên định, trung thực và dũng cảm. Hành động của anh ta, như đốt đền tà, thể hiện rõ tính cách quả cảm và chính trực.
Sự dũng cảm và trung thực của Ngô Tử Văn được thể hiện qua thái độ của anh ta đối mặt với hồn ma tướng giặc. Anh ta không sợ hãi trước những đe dọa và xảo quyệt của hồn ma, mà vẫn kiên nhẫn và tự tin đối diện với chúng.
Tính cách quyết đoán và trung thực của Ngô Soạn được thể hiện rõ khi bị kéo xuống địa ngục. Cảnh địa ngục đầy rẫy quỷ dữ, con sông xoáy sóng mạnh. Tử Văn bị quỷ dẫn đi nhanh chóng, bị phán quyết là kẻ 'tội ác sâu nặng, không được khoan giảm', bị thêm tội cứng đầu nhưng không sợ hãi, không chùn bước, kiên định đòi được xét xử công bằng, minh bạch. Trước sự uy nghiêm của Diêm vương, Tử Văn tranh luận với tên tướng giặc bằng lý lẽ kiên cường, bằng chứng không thể phủ nhận, giọng điệu mạnh mẽ và vững chãi. Anh ta đã bảo vệ lẽ phải đến cùng, không sợ chết, không thể bị khuất phục, quyết định đấu tranh cho công lý và sự chân thành. Kết quả, anh ta đã đánh bại hồn ma của tướng giặc, bảo vệ cuộc sống của mình, được thăng chức vào vị trí phán sự đền Tản Viên, chịu trách nhiệm bảo vệ công lý. Thành công của Ngô Tử Văn đã phá vỡ sự gian trái của tên tướng giặc, làm rõ nỗi oan khuất, phục hồi vị thế cho thần linh nước Việt, giải thoát cho nhân dân. Thông qua cuộc đấu tranh không ngừng, chống lại cái ác, Ngô Tử Văn đã trở thành biểu tượng của sự chân thành và can đảm, là người bảo vệ công lý của đất nước Việt Nam. Tác giả Nguyễn Dữ đã khẳng định niềm tin vào sự công bằng, thể hiện tinh thần tự hào dân tộc và quyết tâm đấu tranh không mệt mỏi với sự xấu xa và ác ôn.
Bài tham khảo mẫu 5
Trong văn chương, đặc biệt là trong văn học hiện đại phương Tây, đề tài về con người và vẻ đẹp của cuộc sống hàng ngày đã trở thành một chủ đề phổ biến và được nhiều tác giả khai thác ở nhiều góc độ khác nhau. Thạch Lam từng viết: 'Cái đẹp tồn tại khắp nơi trong vũ trụ, ẩn chứa ở mọi sự vật thông thường. Nhiệm vụ của nhà văn là khám phá cái đẹp tiềm ẩn ở những nơi không ai ngờ đến, tìm kiếm cái đẹp ẩn dấu trong sự tự nhiên, cho người khác một bài học và niềm vui thưởng thức.' Truyện ngắn 'Lặng lẽ Sa Pa' của Nguyễn Thành Long là một trong những tác phẩm như vậy, khám phá sâu sắc về cuộc sống lao động của những con người vô danh, vô danh, những người hy sinh một cách im lặng cho đất nước, cho xã hội để thực hiện lý tưởng sống cao đẹp trên đỉnh cao của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Nguyễn Thành Long, sinh năm 1925, mất năm 1991, quê ở huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, con của một gia đình viên chức nhỏ. Ngoài việc sử dụng tên thật trong sáng tác của mình, ông còn sử dụng các bút danh khác nhau như Lưu Quỳnh, Phan Minh Thảo. Nguyễn Thành Long là một trong những nhà văn trẻ tài năng đã trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, chủ yếu viết truyện ngắn và bút ký, và được coi là một trong những người viết truyện ngắn xuất sắc nhất giai đoạn 1960-1970. Đề tài chính trong tác phẩm của ông là cuộc sống hàng ngày, đặc biệt là các tác phẩm truyện ngắn của ông thường mang tính ký, và luôn phản ánh những vẻ đẹp của thiên nhiên và tâm hồn con người. Các tác phẩm tiêu biểu bao gồm Bát cơm cụ Hồ, Gió bấc gió nồm, Chuyện nhà chuyện xưởng, Những tiếng vỗ cánh, Giữa trong xanh,...
Truyện ngắn 'Lặng lẽ Sa Pa' là kết quả của chuyến đi thực tế của tác giả tại Lào Cai vào mùa hè năm 1970. Tác phẩm này được trích từ tập 'Giữa trong xanh' xuất bản năm 1972. Việc đảo ngược từ 'lặng lẽ' lên phía trước trong tiêu đề 'Lặng lẽ Sa Pa' nhấn mạnh chủ đề của tác phẩm, là sự khác biệt giữa sự yên bình, tĩnh lặng của Sa Pa, và cuộc sống sôi động của những người lao động, hy sinh im lặng cho đất nước, cho xã hội để thực hiện lý tưởng sống cao đẹp trên đỉnh cao của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Câu chuyện xoay quanh cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên giữa các hành khách trên chuyến xe đến Sa Pa với chàng trai trẻ làm việc ở đỉnh Yên Sơn. Điều này giúp tạo dựng bức tranh về cuộc sống lao động và sự hy sinh im lặng của những người nơi đây.
Tác phẩm tập trung vào vẻ đẹp thiên nhiên và trữ tình của Sa Pa. Mô tả chi tiết về vẻ đẹp của nơi này, từ con đường uốn cong, bầy bò lang ngoại, ánh nắng, cây thông, đến những đám mây phản chiếu ánh sáng một cách đặc biệt.
Tác phẩm đặc biệt chú ý đến vẻ đẹp của con người thông qua các nhân vật như anh thanh niên, bác họa sĩ, cô kỹ sư, bác lái xe, ông kỹ sư vườn rau, anh kỹ sư nghiên cứu bản đồ rét. Mỗi nhân vật mang trong mình những giá trị tinh thần và niềm đam mê đối với công việc và cuộc sống.
Cô kỹ sư là một trong những nhân vật đáng chú ý, biểu tượng cho sự hy sinh và lý tưởng cao đẹp về cuộc sống lao động phục vụ Tổ quốc, xã hội.
Nhân vật bác lái xe đóng vai trò quan trọng trong câu chuyện, mang lại sự sống động và vui vẻ. Các nhân vật khác như ông kỹ sư vườn rau, anh kỹ sư nghiên cứu bản đồ rét đều thể hiện sự hi sinh và đam mê với công việc.
Bài số 6 của học sinh lớp 10: Thuyết minh về một tác giả văn học
Bài 2: Thuyết minh về một nhà văn.
Cấu trúc ý chính
I. Khởi đầu:
- Giới thiệu tổng quan về tác giả để thuyết minh (tên, nguyên quán…)
II. Phần chính:
- Tiểu sử và sự nghiệp văn học
- Bối cảnh gia đình, học vấn, và quá trình phát triển
- Hành trình sáng tác, các tác phẩm nổi bật
- Phong cách viết:
+ Đặc điểm nổi bật của nội dung tác phẩm
+ Tính độc đáo về mặt nghệ thuật
III. Phần Kết:
- Xác nhận vị trí của tác giả đã được thuyết minh, phản ánh ý kiến, cảm nhận về cuộc đời, sự nghiệp văn chương của tác giả
Bài tham khảo mẫu 01
Trong quá khứ của Việt Nam, Nguyễn Trãi được coi là một nhân vật xuất sắc. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông như ánh sao Khuê không bao giờ tắt, chiếu sáng qua muôn đời sau này. Ông được mọi người xem như 'tinh hoa của dân tộc, khí phách của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của ông là bài hát yêu nước, tự hào của dân tộc”. Ông không chỉ là một nhà chính trị, quân sự, ngoại giao lỗi lạc, góp phần quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn là một tác giả tài năng với nhiều tác phẩm bất tử.
Nguyễn Trãi (1380–1442) được biết đến với hiệu ức Trai. Ông sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống văn hóa và yêu nước. Cha ông, Nguyễn Phi Khanh, là một học trò nghèo đã đỗ Thái học sinh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái của quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Nguyên quán của Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, nhưng ông được sinh ra tại Thăng Long trong nhà của ông ngoại và sau đó chuyển về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Từ khi còn nhỏ, Nguyễn Trãi đã phải đối mặt với nhiều biến cố khó khăn.
Ông đã mất mẹ khi mới 5 tuổi và không lâu sau đó, ông ngoại của mình cũng qua đời. Ông đã sống với cha tại quê hương của mình ở làng Nhị Khê. Cuộc đời của Nguyễn Trãi trải qua nhiều khó khăn và thách thức.
Năm 1400, khi Hồ Quý Ly lên ngôi vua, ông mở cửa khoa thi. Nguyễn Trãi tham gia và đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) ở tuổi 20. Hồ Quý Ly bổ nhiệm ông làm Ngự sử đài chánh chưởng. Cha của ông, Nguyễn Phi Khanh, cũng đỗ bảng nhãn từ năm 1374 và được Hồ Quý Ly bổ nhiệm giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1406, quân nhà Minh xâm lược nước ta. Nhà Hồ ra quân chống lại, nhưng bị thất bại. Hồ Quý Ly và con trai ông cùng một số quan tham gia chiến dịch bị bắt và đưa về Trung Quốc. Nguyễn Trãi, lắng nghe lời cha, quay trở lại để tham gia chiến đấu, giải cứu đất nước.
Ông vượt qua vòng vây của quân Minh ở Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông đã trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh - Bình Ngô sách 'hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà khéo nói đến việc đánh vào lòng người'.
Lê Lợi đánh giá cao chiến lược của Nguyễn Trãi. Và ông đã áp dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đó, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng thảo luận mưu kế đánh quân Minh.
Trong cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi thúc đẩy việc phải dựa vào dân để có thể đánh bại kẻ thù và cứu nước. Khi cuộc kháng chiến thành công, ông cũng nhận ra rằng cần phải quan tâm đến dân, mới có thể xây dựng được đất nước. Trong một lá thư biểu tạ ơn, ông được bổ nhiệm làm Gián nghị đại phu tri tam quân sư, đã viết: 'Chính vì muốn, việc của mình đã muốn: để tâm đến dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo'.
Luôn 'lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ', Nguyễn Trãi luôn sống một cuộc sống giản dị, tiết kiệm và liêm chính. Ngôi nhà ở Đông Kinh của ông chỉ là một căn nhà gỗ (góc thành Nam lều một gian). Khi ông quản lý công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, ngôi nhà của ông ở Côn Sơn 'bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi' (thơ của Nguyễn Mộng Tuân, bạn của Nguyễn Trãi). Năm 1442, án oan “Lệ chi viên” đột ngột giáng xuống gây thiệt hại lớn cho ông. Ông và gia đình phải chịu tội ác chu di tam tộc bi thảm nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Cho đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông đã cải tạo oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm kiếm con cháu còn sống và bổ nhiệm làm quan.
Ông đã để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị cho kho tàng văn học: về quân sự và chính trị có “Quân trung từ mệnh tập” bao gồm những lá thư mà ông viết trong quá trình giao thiệp với quân Minh. Những lá thư này là bằng chứng cụ thể chứng minh chiến lược ngoại giao và địch vận khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi, giúp quân Lam Sơn không mất nhiều máu mà vẫn chiến thắng được nhiều thành phố.
'Bình ngô đại cáo' được coi là một trong những tác phẩm văn học kỳ vĩ nhất trong lịch sử, tổng kết lại mười năm cuộc kháng chiến chống lại quân Minh và mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước... Trong lịch sử, có 'Lam Sơn thực lục' là một tài liệu ghi chép về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và ' Dư địa chí ' mô tả về địa lý của nước ta vào thời điểm đó. Trong văn học, Nguyễn Trãi đã để lại ' Ức trai thi tập”, “Quốc Âm thi tập'.
'Quốc Âm thi tập' được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự phát triển của thể loại thơ Tiếng Việt. Ông đứng đầu trong việc phát triển dòng thơ Nôm trong hàng ngàn tác phẩm, trong một thời đại rất đậm chất văn hóa chữ Hán.
Bài tham khảo mẫu 02
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
Đó là nỗi lòng của một con người mong muốn sự hòa hợp, hướng về tất cả, khi viết về nàng Tiểu Thanh tài năng nhưng không may mắn. Và dĩ nhiên, trong tâm trí của người đó, cũng có nỗi lo sợ không thể nhìn thấy, sợ bị quên lãng, sợ bị bỏ rơi, vì chính ông cũng là người tài năng nhưng cuộc sống lại không được thuận lợi. Người tài hoa đó chính là Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của văn học Việt Nam và thế giới.
Nguyễn Du (1765 - 1820), tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt danh Hồng Sơn lạp hộ hay Nam Hải điếu đồ, quê tại làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, mảnh đất giàu văn hóa và nhân văn, quê hương của nhiều bậc trí thức Việt Nam. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc, có truyền thống văn học. Cha ông là Nguyễn Nghiễm, tiến sĩ, làm quan đến chức Tể Tướng. Mẹ ông là bà Trần Thị Tần, con gái của một quan câu kế, quê ở Bắc Ninh ngày nay. Nguyễn Du bị ảnh hưởng bởi âm nhạc dịu dàng của quan họ quê mẹ, điều này cũng thể hiện trong tác phẩm của ông. Gia đình và quê hương là nguồn cảm hứng cho sự phát triển tài năng của Nguyễn Du.
Nguyễn Du lớn lên trong thời kỳ biến động của chế độ phong kiến. Cuộc tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn Lê - Trịnh - Nguyễn gây ra nhiều cuộc nội chiến. Giai cấp thống trị thối nát, quan tham tràn lan. Cuộc sống của nhân dân khốn khổ với thuế cao, luật lệ nghiêm khắc, cuộc gọi quân không thương tiếc làm tan nát gia đình. Nguyễn Du thấu hiểu nỗi đau của nhân dân, và ông thấy nhận thức của mình bị tác động mạnh mẽ bởi biến động lịch sử. Ông cảm thông với mọi người, bao gồm cả những kẻ bất hạnh, người tài hoa bị số phận ruồng rẫy. Biến động lịch sử làm thay đổi tư tưởng của Nguyễn Du, và ông trở nên bao dung hơn, phản đối chế độ phong kiến thối nát. Cảm xúc của ông được thể hiện trong thơ:
Bản thân Nguyễn Du là người thông minh, học rộng, biết nhiều. Sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, cả cha và anh của ông đều làm quan lớn dưới triều Nguyễn nên đến tận năm 11 tuổi, Nguyễn Du vẫn được sống trong giàu sang, phú quý. Đây là quãng thời gian Nguyễn Du được chứng kiến sự sa đọa của chúa Nguyễn, những cuộc tranh đua, giành giật chốn quan trường nên ông nhận thức rõ ràng về cuộc sống, lễ nghi của tầng lớp quý tộc đương thời. Nhận thức rõ ràng bao nhiêu ông lại càng thấy căm ghét nó bấy nhiêu. Thế nhưng sau quãng thời gian đó, cuộc đời Nguyễn Du thăng trầm, lên xuống theo sự biến động của dòng lịch sử. Năm 13 tuổi, Nguyễn Du mồ côi cả cha lẫn mẹ nên ông thấu hiểu nỗi đau đớn, lạc lõng của những đứa trẻ bơ vơ không cha, không mẹ. Đặc biệt quãng thời gian “mười năm gió bụi phong trần” (1776 - 1786) là thời gian Nguyễn Du lưu lạc, ăn nhờ ở đậu nơi quê vợ. Đây cũng là những năm tháng cùng cực, khổ sở, tủi nhục trong suốt cuộc đời của Nguyễn Du, đói không có cơm ăn, rét không có áo mặc. Ông tha hương, bơ vơ giữa cuộc đời đầy biến động. Những dòng tâm sự được ông viết trong thời gian này là sự dằn vặt, trăn trở của một con người nuôi chí lớn, khi nguyện ước chưa thành, khi chưa làm được gì rạng danh mà tóc đã bạc trắng:
“Mười năm trọn quê người nấn ná
Nương quê người tóc đã điểm sương”
Mặc dù gặp khó khăn, mười năm trải qua ở Bắc giúp Nguyễn Du tiếp xúc với đời sống của mọi người, từ người giàu đến người nghèo. Ông thấu hiểu và chia sẻ nỗi đau của tất cả, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ. Thời gian này giúp ông mở lòng và bao dung hơn, và là bước đệm để ông trở thành một nhà văn tinh thần.
Năm 1802, khi Nguyễn Ánh lên ngôi vua, Nguyễn Du được bổ nhiệm làm quan. Dù không hài lòng với chế độ phong kiến, ông vẫn nhận lời vì trách nhiệm. Ông được gửi sang Trung Quốc làm sứ giả cùng năm đó. Ở đây, Nguyễn Du suy tư và viết thơ Hán, ghi lại cuộc hành trình của mình. Năm 1820, ông được gửi sang lần 2 nhưng không kịp, ông đã qua đời tại Huế.
Trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Du nhấn mạnh tính nhân đạo, giá trị của con người, đặc biệt là phụ nữ và lao động. Ông viết thơ bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Với chữ Hán, ông để lại 3 tập thơ quý giá: Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Với chữ Nôm, Nguyễn Du sáng tác Đoạn trường tân thanh, Đọc Tiểu Thanh ký và vài bài văn tế. Mỗi tác phẩm đều thể hiện cảm xúc, suy tư về cuộc sống.
Nguyễn Du là một tác giả vĩ đại, người đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn hóa Việt Nam. Tác phẩm của ông về cả văn và thơ đều phản ánh sâu sắc về cuộc sống và tâm hồn con người. Qua bút pháp tinh tế và giàu cảm xúc, Nguyễn Du đã góp phần làm nên văn chương dân tộc.
Thơ văn của Nguyễn Du phản ánh chân thực cuộc sống của ông và xã hội bất công. Ông vẽ lên bức tranh phong kiến thối nát, nơi tiền bạc mua được mọi thứ. Ông khao khát một xã hội công bằng và nhân đạo. Bị ảnh hưởng sâu sắc bởi đạo Phật, trái tim của ông luôn hướng về con người.
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc với đóng góp cho văn học Việt Nam. Ông kết hợp hai thể thơ truyền thống một cách điêu luyện và sáng tạo. Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện sự giàu có của ngôn ngữ Việt.
Mẫu tham khảo 03
Cuộc đời của các nghệ sĩ luôn có những thăng trầm, nhưng tác phẩm của họ sẽ sống mãi với thời gian. Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc, dẫn dắt thơ ca qua mọi khó khăn.
Xuân Diệu, tên thật Ngô Xuân Diệu, sinh năm 1916 và qua đời năm 1985. Quê hương của ông ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần thơ của ông. Ông được giáo dục trong một môi trường văn hóa Pháp, vừa giữ được nét cổ điển văn hóa Việt Nam, vừa mang đậm phong cách phương Tây.
“Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine
Hai thi sĩ say men hồn”
Xuân Diệu phát triển sự nghiệp vào cuối thập kỷ 30 và đầu thập kỷ 40. Với tập thơ “Thơ thơ” và “Gửi hương cho gió”, ông được biết đến như một nhà thơ trữ tình lớn. Tham gia vào phong trào thơ Mới, ông là một trong những người dẫn đầu. Sự nghiệp của ông được đánh giá cao qua các tác phẩm văn học và truyền thông, và được vinh danh bằng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Về thơ của Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa miêu tả ba từ “tài năng, tinh tế, lịch lãm”. Thơ của ông chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn học phương Tây, đặc biệt là Pháp, từ cả nội dung đến hình thức thơ. Vì vậy, Xuân Diệu thường có những phát hiện độc đáo trong thơ của mình. Ông thường nhấn mạnh, thời gian không thể quay lại. Do đó, ông luôn tiếc nuối thời gian, tuổi trẻ đã qua. Có một nhà thơ đứng giữa mùa xuân mà lòng buồn bã:
Mùa xuân đến cũng là lúc xuân đi
Mùa xuân trẻ cũng là lúc xuân già
Không chỉ thời gian, ông còn tiếc nuối tuổi trẻ hơn tất cả. Với ông, sức sống trong tuổi trẻ là đẹp nhất, là ý nghĩa nhất. Khi tuổi trẻ qua đi, ý nghĩa của cuộc sống cũng tan biến:
Nói gì cho rõ ràng, xuân vẫn đến
Nếu tuổi trẻ không trở lại lần thứ hai
Quan điểm này chịu ảnh hưởng sâu sắc từ triết lý phương Tây: “Thời gian làm mòn cuộc sống của chúng ta”.
Khác biệt so với những nhà thơ đồng thời tránh né hiện thực, Xuân Diệu ấm áp với mảnh đất thế gian này, ông tìm thấy vẻ đẹp tươi mới nơi cuộc sống này. Thi sĩ ấy luôn khao khát sống để trải nghiệm vẻ đẹp của cuộc sống:
Ôm bóng tay như làm con rắn
Làm dây da quấn quýt bản thân mình
Không muốn rời đi, mãi mãi ở giữa cuộc sống hàng ngày
Biến thành rễ để hút sức sống từ lòng đất
Chỉ khi tiếp xúc với Xuân Diệu, chúng ta mới được thưởng thức cặp mắt nhìn cuộc sống với ánh sáng tươi mới như thế. Không chỉ yêu đời, nhà thơ này còn luôn ao ước đắm chìm trong tình yêu, mong muốn tìm thấy sự đáp trả. Đúng là không sai khi người ta gọi Xuân Diệu là “vua của thơ tình”:
Yêu, là chết một phần trong lòng
Vì khi yêu, có chắc được đáp lại?
Nói về tài năng sáng tạo trong thơ Xuân Diệu, ta không thể không nhắc đến những từ ngữ mới mẻ của ông. Bị ảnh hưởng từ văn hóa phương Tây, ông thường sử dụng các từ ngữ mới lạ như “Những luồng run rẩy rung rinh lá”. Thơ của ông thường là sự kết hợp mạnh mẽ giữa các giác quan “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào em”. Xuân Diệu thực sự đã mang đến cho thơ Việt một luồng gió mới, tươi sáng hơn.
Ngoài việc viết thơ, Xuân Diệu còn ghi dấu ấn trong truyện ngắn và phê bình như một vị cứu tinh. Tác phẩm truyện ngắn “Phấn thông vàng” của ông là minh chứng cho tài năng viết truyện ngắn tinh tế, sắc sảo. Mọi người cũng biết đến Xuân Diệu qua những tác phẩm như “Ba đại thi hào dân tộc”, “Tiếng thơ”, “Dao có mài mới sắc”,… Ông đã từng nhấn mạnh: “Nhà văn tồn tại trong tác phẩm. Nếu không có tác phẩm, nhà văn đó coi như đã qua đời”. Và thực sự, bằng thơ văn của mình, Xuân Diệu vượt qua cả thời gian và không gian.
Dù thời gian có trôi đi, nhưng mỗi người vẫn giữ một góc Xuân Diệu trong tâm hồn. Thi sĩ này đã chạm đến trái tim của người đọc một cách say đắm và mê hoặc!
Bài tham khảo mẫu 04
Nam Cao (1915 – 1951) được xem là một trong những nhà văn lớn nhất của văn học hiện đại Việt Nam. Công lao của ông đã vượt qua những thách thức của thời gian, và càng thử thách, ông lại càng tỏa sáng. Ngày càng xa xôi, tác phẩm của ông lại càng thể hiện sâu sắc ý nghĩa hiện thực, tư tưởng nhân văn và vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo.
Nam Cao được coi là một trong những tác giả lớn của phong trào văn học hiện thực phê phán 1930 -1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là người có ý thức sâu sắc nhất về quan điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán mạnh mẽ và triệt để tính chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi đó là điều “ánh trăng lừa dối”, đồng thời yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, và phải thể hiện được nỗi thống khổ của hàng triệu nhân dân lao động lầm than.
Trong thời kỳ trào lưu hiện thực chủ nghĩa đạt nhiều thành tựu, Nam Cao nhận thức rõ: “Văn chương chỉ chứa đựng được những người biết sâu sắc, biết khám phá, khơi gợi những nguồn chưa ai khai phá, và tạo ra những điều chưa từng có” (Đời thừa). Ông đã tìm được hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Trong khi các tác giả khác tập trung vào phản ánh trực tiếp xã hội, Nam Cao lại chú trọng vào xung đột nội tâm của nhân vật. Các tác phẩm của ông thể hiện sâu sắc vấn đề con người và cuộc sống hàng ngày, đặt ra câu hỏi về tương lai của dân tộc và nhân loại.
Nam Cao là nhà văn hiện thực tâm lý. Quan niệm về con người của ông rất quan trọng. Trong Sống mòn, ông viết: “Sống là cảm giác và tư tưởng. Hành động là một phần, nhưng cảm giác và tư tưởng mới sinh ra hành động”. Quan điểm này đã ảnh hưởng đến phong cách viết của ông, với sự chú ý đặc biệt đến tâm trí của con người và tương tác phức tạp giữa nó và thế giới bên ngoài.
Nam Cao coi việc phản ánh chân thực tư tưởng, nội tâm của nhân vật là quan trọng nhất. Trong tác phẩm của ông, sự phát triển tâm lý thường được ưu tiên hơn sự kiện ngoại cảnh. Ông tập trung vào việc khám phá tâm trí của nhân vật, giúp họ bộc lộ nhân cách và cảm xúc của mình.
Tâm hồn con người là trung tâm của bi kịch và bi hài kịch trong sáng tác của Nam Cao. Ông sử dụng phương pháp tâm lý học để phản ánh và phân tích xung đột tư tưởng và ý tưởng của nhân vật. Việc khám phá tâm trí con người là trọng tâm của việc miêu tả của ông.
Nam Cao tập trung vào khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn con người. Qua việc phân tích tâm lý, ông mở ra một cửa sổ mới để hiểu về xã hội. Tâm lý nhân vật trở thành yếu tố quan trọng trong việc phản ánh và phê phán xã hội.
Nam Cao khẳng định rằng chủ nghĩa nhân đạo là nền tảng của tác phẩm chân thực và giá trị. Ông vượt lên trên giới hạn của thời gian và không gian để thể hiện sự đau đớn, lòng thương và tình bác ái trong mỗi tác phẩm của mình.
Nam Cao luôn bộc lộ tấm lòng của một con người thương yêu và đau đớn trong mỗi trang văn. Ông yêu thương những người bị đời đẩy vào khốn khổ, không có điều kiện để phát triển tiềm năng của mình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, một nhân vật có ảnh hưởng lớn trong lịch sử và văn hóa Việt Nam, được biết đến với tư cách đạo đức và tài năng văn chương. Ông được coi là nhà tiên tri số một trong lịch sử nước ta.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ban đầu tên là Nguyễn Văn Đạt, sinh năm 1491, là một nhà thơ và triết gia nổi tiếng của thời kỳ Nam - Bắc triều. Ông được coi là người đầu tiên nhắc đến hai chữ 'Việt Nam' một cách ý thức nhất trong văn tự của mình.
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ban đầu có tên là Nguyễn Văn Đạt, sinh năm 1491 dưới triều Lê Thánh Tông. Ông được biết đến với tài thơ văn và tư cách đạo đức, cũng như là một nhà tiên tri hàng đầu của lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra ở làng An Tử Hạ, Tiên Minh, Nam Sách, Hải Dương. Dù hai phụ huynh thuộc hai phủ khác nhau, nhưng cây đa ở giữa làng rõ thấy, chỉ bởi con sông Hàn nối liền hai bờ. Bà Nhữ Thị Thục, mẹ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, có lẽ đã tiên đoán về sự suy tàn của triều Lê sơ và muốn dạy con trai làm vua. Tuy nhiên, điều này không phù hợp với ý muốn của ông Nguyễn Văn Định.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được giáo dục trong một gia đình có học thức. Ảnh hưởng lớn nhất trong việc hình thành nhân cách và tài năng của ông là từ phụ huynh ngoại. Ông đã học hành chăm chỉ và trở thành học trò xuất sắc nhất của thầy Lương Đắc Bằng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm trưởng thành trong thời kỳ loạn lạc của triều Lê sơ. Mặc dù có nhiều cơ hội để tham gia kỳ đại khoa, nhưng ông đã bỏ qua nhiều lần để tránh cuộc sống giống như thầy mình. Ông chỉ quyết định tham gia và đỗ đạt khi đã 45 tuổi, sau khi triều Mạc ổn định.
Sau hai năm rời chức, vào năm Giáp Thìn (1544), vua Mạc phong ông làm Trình Tuyền Hầu, sau đó làm Thượng thư bộ Lại, Thái phó, và tước Trình Quốc Công. Dân gian thường gọi ông là Trạng Trình. Một số nghiên cứu cho rằng tên Trình Tuyền không xuất phát từ họ của ông mà từ tên địa danh Trung Am.
Trong khoảng gần hai chục năm, từ 53 tuổi đến 73 tuổi, Nguyễn Bỉnh Khiêm dù không ở thủ đô nhưng vẫn được vua Mạc tôn kính như một quan trọng. Ông tham gia nhiều cuộc họp quốc sự và được coi như một cố vấn cho vua Mạc trong các quyết định trọng đại.
Trong thời gian sống ở quê nhà, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xây dựng nhiều công trình như am Bạch Vân, quán Trung Tân, cầu Nghinh Phong, Trường Xuân và mở trường dạy học gần sông Tuyết. Do đó, ông được môn sinh gọi là 'Tuyết Giang phu tử'.
Ngày 28 tháng 11 năm Ất Dậu, niên hiệu Đoan Thái nguyên niên (1585), Nguyễn Bỉnh Khiêm qua đời ở tuổi 95. Trước khi mất, ông đã viết thư khuyên vua Mạc và được vua trọng thị. Vua Mạc cũng đã xây đền thờ và ghi tên ông là 'Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ'.
Theo bản Phả ký, Nguyễn Bỉnh Khiêm có ba vợ và 12 con, trong đó có 7 con trai. Sau khi nhà Mạc suy yếu, con cháu ông đều phải đổi tên đổi họ để tránh sự trả thù của nhà Lê-Trịnh. Một chi họ đã di cư sang vùng Trường Yên và đổi từ họ Nguyễn sang họ Giang.
Nếu Nguyễn Trãi đã nhiều lần đọc 'Pháp Bảo đàn kinh', thì Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết bài 'Độc Phật kinh hữu cảm' và chịu ảnh hưởng của Phật giáo trong cuộc đời và sáng tác.
Nguyễn Du đã viết 'Ngã độc Kim Cương thiên biến kinh' thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có bài 'Độc Phật kinh hữu cảm'. Ông cũng đã chịu ảnh hưởng của Phật giáo khá nhiều trong cuộc đời và sáng tác.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho có cái nhìn sâu sắc về thời đại và học hỏi được nhiều từ Lương Đắc Bằng, và được các học trò gọi là Tuyết Giang Phu Tử.
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết những câu tương tự Đỗ Phủ, Nguyễn Trãi nhưng vẫn thấy cuộc đời không lạc quan. Ông đã dâng sớ chống tham nhũng và tích cực xây dựng chùa, mở trường học.
Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi chùa Phổ Minh, ông đã sánh Pháp giới của nhà Phật với quan niệm Trời của Nho gia. Điều này chứng tỏ ông đã nhận thức được tư tưởng 'Nhất thế chư pháp vô phi Phật pháp' và hy vọng ở lòng yêu thương rộng lớn.
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là một trong những nhà văn hóa vĩ đại của dân tộc. Ông là một chính trị gia đáng kính trọng, một triết gia hiền lành, một nhà tiên tri... Nhưng ông cũng là một nhà văn lớn với những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học dân tộc. Tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm đa dạng, bao gồm cả thơ chữ Hán và chữ Nôm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một nhà thơ vĩ đại của thế kỷ XVI mà còn để lại dấu ấn sâu sắc trong đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển của văn học dân tộc. Thơ của ông, đặc biệt là thơ chữ Hán, đã có ảnh hưởng lớn và vẫn còn được trân trọng đến ngày nay.
Về thơ chữ Nôm, Nguyễn Bỉnh Khiêm để lại một bộ thơ quý giá với khoảng 180 bài thơ. Thơ của ông thường tuân theo thể luật Đường và Đường luật xen lục ngôn, nhưng ông thường không đặt tiêu đề cụ thể cho từng bài thơ.
Trong phả ký của Vũ Khâm Lân, di sản thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được mô tả như 'giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà ẩn chứa nhiều ý vị... như gió mát trăng thanh, còn sống mãi trong lòng người'. Đánh giá từ PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh (Viện Văn học) cũng nhấn mạnh về sự đóng góp vĩ đại của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong văn học Việt Nam.
Theo PGS.TS. Trần Thị Băng Thanh, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những nhà thơ viết nhiều nhất trong năm thế kỷ đầu tiên của văn học Việt Nam.
Về số lượng, Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất. Tuy nhiên, điều quan trọng không chỉ là số lượng mà còn là phong cách riêng biệt của ông. Ông tuân theo nguyên tắc thẩm mỹ 'thơ ngôn chí' một cách triệt để và sáng tạo mạnh mẽ, khiến cho thơ của ông đậm chất triết lý, gần gũi và dễ tiếp nhận.
Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh dấu bước đầu cho một hình thức tư duy mới trong văn học Việt Nam thời trung đại. Đó là tư duy thế sự, thể hiện qua sự hiện thực và phát hiện đáng kể trong thơ của ông.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là người tiếp nối và bổ sung cho nền thơ ca dân tộc, khiến thơ trở thành một công cụ hữu ích, phản ánh hiện thực và tâm trạng một cách sâu sắc, với cái nhìn triết lý và những chiêm nghiệm cá nhân của ông.
Ngoài di sản văn học, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn để lại nhiều bài văn bia nổi tiếng như Trung Tân quán bi ký, Thạch khánh ký... Những bia đá này không chỉ có giá trị lịch sử mà còn chứa đựng nhiều giá trị về tư tưởng và nhân sinh quan của ông.
Trong dân gian, vẫn lưu truyền nhiều câu sấm Trạng, là một hiện tượng văn học đáng để tìm hiểu và xác minh thêm.
Bài viết thứ 6 môn văn lớp 10 đề 3: Thuyết minh về một thể loại văn học
Mẫu bài tham khảo số 1
Thể thơ lục bát, một trong hai thể loại thơ chính của Việt Nam (kèm theo là song thất lục bát), đã được truyền bá và phát triển qua hàng trăm năm. Thơ lục bát không chỉ là một phần quan trọng của văn hóa dân gian mà còn là thể loại thơ được các nhà thơ hiện đại tiếp thu, hoàn thiện và vẫn giữ vững vị thế quan trọng trong văn học Việt Nam ngày nay. Thể thơ này đơn giản trong quy luật, thường được sử dụng để diễn đạt các cảm xúc khác nhau trong tâm hồn con người.
Thể thơ lục bát có nguồn gốc lâu đời, là một phần không thể thiếu của văn hóa dân tộc Việt Nam. Thơ lục bát thường bao gồm các câu từ hai trở lên, mỗi cặp câu thường bao gồm một câu sáu chữ và một câu tám chữ. Luật về thanh và vần là hai yếu tố quan trọng giúp cho thơ lục bát trở nên hài hoà và ăn ý.
Luật thanh trong thơ lục bát: Thơ lục bát tuân theo quy tắc cụ thể về luật thanh, giúp cho câu thơ trở nên hài hoà và đồng đều.
Câu lục: Theo thứ tự các tiếng thứ hai, thứ tư, và thứ sáu lần lượt là Bằng (B) - Trắc (T) - Bằng (B). Câu bát: Theo thứ tự các tiếng thứ hai, thứ tư, thứ sáu, và thứ tám là B - T - B - B
Ví dụ như:
“Nửa đêm về huyện Nghi Xuân (B - T - B)
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều” (B - T - B - B)
(Tác giả: Tố Hữu)
Về phối thanh, chỉ có yêu cầu rằng các tiếng thứ tư phải là trắc, các tiếng thứ hai, thứ sáu, và thứ tám phải là bằng, nhưng trong câu tám các tiếng thứ sáu và thứ tám phải khác loại thanh, nếu trước là dấu huyền thì sau phải là không dấu hoặc ngược lại:
“Một cây mọc chẳng thành rừng
Ba cây mọc lại tạo nên núi cao”
Tuy vậy, đôi khi có thể linh hoạt với tiếng thứ hai của câu lục hoặc câu bát, biến nó thành tiếng trắc. Hoặc là giữ nguyên câu lục và biến đổi câu bát theo thứ tự T - B - T - B. Những dòng thơ như vậy được gọi là biến thể của lục bát.
Ví dụ:
“Có xúc thì xúc nước trong (T - T - B)
Đừng xúc nước đục đau lòng còn” (T - T - B - B)
Hoặc:
“Con cò dạo bờ sông dài
Gánh gạo chăm sóc chồng con cười tươi” (T - B - T - B)
Cách gieo vần trong thơ lục bát: Thơ lục bát có phương thức gieo vần khác biệt so với các thể thơ khác. Thường được gieo vần trên nhiều câu thơ chứ không chỉ một câu, điều này tạo ra sự linh hoạt trong vần của thơ lục bát. Thường thì vần trong thơ lục bát được gieo theo cách; tiếng cuối của câu lục phải hòa vần với tiếng thứ sáu của câu bát, tiếng thứ sáu của câu bát lại hòa vần với tiếng của câu lục tiếp theo; và cứ như vậy cho đến hết bài lục bát:
“Trăm năm trong cuộc đời ta
Chữ tài chữ mệnh là ghét nhau
Trải qua bao khó dễ đau thương
Nhìn thấy mà lòng cảm thấy đau đớn”
Ngoài vần chân ở hai câu 6 và 8, còn có vần lưng trong câu tám. Tiểu đối trong thơ lục bát: Là sự phối hợp giữa thanh âm của hai tiếng thứ 6 (hoặc thứ 4) của câu bát với tiếng thứ 8 của câu đó. Nếu tiếng này mang thanh huyền thì tiếng kia phải là thanh ngang và ngược lại.
Ví dụ:
“Đau đớn thay số phận đàn bà
Nghe lời, mệnh phận, ai cũng chung
Ngoài vấn đề về thanh còn vấn đề về ý nghĩa:
Khuôn mặt mới, lòng cũ rất quen”
(Bích câu kỳ ngộ)
Cách ngắt nhịp trong thơ lục bát: Thường thì thơ lục bát sử dụng ngắt nhịp chẵn, như là 2/2/2 hoặc 4/4 để diễn đạt những tình cảm về tình yêu, nỗi buồn…
“Người yêu/ơi hỡi/ người yêu
Đi đâu/mà để/buồn vì cô đơn”
Thỉnh thoảng, để nhấn mạnh, người ta chuyển sang sử dụng nhịp lẻ như là nhịp 3/3: Chồng tôi, vợ anh, Làm sao trả nổi mối nợ này. Khi cần diễn đạt những khó khăn, trở ngại, mạnh mẽ, đột ngột hay tâm trạng không ổn định, có thể chuyển sang sử dụng nhịp lẻ 3/3, 1/5, 3/5... Thể thơ lục bát với cách gieo vần, phối thanh và ngắt nhịp đơn giản nhưng đa dạng, linh hoạt, làm phong phú thêm và đa dạng hóa khả năng biểu đạt. Hơn 90% lời ca dao được sáng tác theo thể lục bát, theo thống kê của các nhà nghiên cứu.
Tính từ cấu trúc ngữ nghĩa, thấy thể thơ lục bát vẫn là thể thơ sạch, chỉnh chu với quy định về vần, nhịp, số tiếng mỗi dòng, vai trò của mỗi câu. Dù có khi câu lục lan sang câu bát, câu lục và câu bát kéo dài, thậm chí thay đổi phối thanh, gieo vần... gọi là lục bát biến thể. Biến đổi đó phản ánh sự phong phú, đa dạng của cảm xúc, phá vỡ khuôn hình thông thường. Mặc dù vậy, âm luật, cách gieo vần của lục bát vẫn giữ nguyên, là đặc điểm nhận biết nó.
Ngoài lục bát truyền thống, còn có lục bát biến thể, không giới hạn từ sáu đến tám tiếng mà có sự thay đổi về âm tiết, vị trí hiệp vần... Hiện tượng này là vấn đề đáng chú ý trong ca dao, chẳng hạn có lục bát biến thể tăng, giảm số tiếng.
Về nội dung, thể thơ lục bát diễn đạt nhiều tâm trạng phức tạp của nhân vật trữ tình. Người dân thường sử dụng thể thơ này để thể hiện tâm trạng, nỗi lòng trong cuộc sống, tình yêu, gia đình, làng xóm, lao động, thiên nhiên... Lục bát phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc, là hình thức thơ hòa mình với nhịp sống của người Việt Nam. Ca dao, tiếng nói dân tộc được truyền tải qua lục bát. Điều này phản ánh sự giàu có về tinh thần của người dân, và đã là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà thơ. Truyện thơ vĩ đại như Truyện Kiều, Lục Vân Tiên thể hiện bằng lục bát. Các nhà thơ hiện đại như Nguyễn Duy, Tố Hữu cũng đã thành công khi sử dụng lục bát.
Như vậy, lục bát đóng vai trò quan trọng trong văn học dân tộc Việt Nam.
Bài làm tham khảo mẫu 2
Trong văn học phong phú của Việt Nam, hình thức thơ đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra những tác phẩm văn học độc đáo. Thể thơ không chỉ là cầu nối để truyền đạt nội dung mà còn là phương tiện để truyền tải tinh thần, quan điểm của tác giả tới người đọc. Thể thơ lục bát, một trong những thể thơ đậm chất dân tộc của Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong văn học.
Mặc dù văn học Việt Nam không có lịch sử dài như văn học Trung Hoa, nhưng qua các thế hệ, người Việt luôn biết cách tiếp thu và tạo ra những tác phẩm phản ánh bản sắc văn hóa của dân tộc. Sự tiếp thu này không phải là việc sao chép mà là sáng tạo, phản ánh bản lĩnh dân tộc Việt Nam.
Trong văn học, người Việt không chỉ tiếp thu từ văn hóa Trung Hoa mà còn sáng tạo ra những thể thơ phản ánh đặc điểm riêng của dân tộc như thể thơ Song thất lục bát và thể thơ Lục bát. Thể thơ Lục bát đã trở nên rất phổ biến và được nhiều nhà văn lựa chọn làm chất liệu để sáng tác văn chương.
Thể thơ lục bát gồm hai phần là câu lục và câu bát, thường mở đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Số câu trong một bài thơ lục bát không bị giới hạn như các thể thơ khác. Ví dụ, một bài thơ lục bát có thể bao gồm hai hoặc bốn câu như sau:
“Anh ra đi lòng nhớ quê
Nhớ cà dầm, nhớ rau muống phơi sương
Nhớ ai dãi nắng, nhớ sương
Nhớ ai tát nước dưới đường hôm ấy”
Cũng có thể kéo dài thành hàng ngàn câu thơ, điển hình nhất là kiệt tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du (gồm 3253 câu, trong đó có 1627 câu lục và 1627 câu bát). Số câu thơ phụ thuộc vào nội dung và ý đồ của nhà văn.
Về cách gieo vần, thơ Lục bát không bị giới hạn bởi những luật lệ nghiêm ngặt như thể thơ Đường luật, nhưng vẫn phải đảm bảo những yếu tố cơ bản. Cụ thể, câu cuối của câu lục phải vần với câu thứ sáu của câu bát, và câu cuối của câu bát phải hiệp vần với câu cuối của câu lục.
“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn'
Những câu thơ trên thể hiện được tình cảm thiết tha, gắn bó của nhà thơ Tố Hữu với chiến khu Việt Bắc. Nhưng ở đây ta quan tâm đến cách gieo vần của bốn câu thơ này. Câu cuối của câu lục kết thúc bằng từ “ta”, câu thứ tám của câu bát được hiệp vần bằng từ “tha”. Tương tự, câu cuối của câu bát kết thúc bằng vần “ông”, câu cuối của câu lục được hiệp vần bằng từ “không”.
Về thanh điệu của bài thơ Lục bát, chữ thứ hai và chữ thứ sáu của câu bát đều là vần bằng, nhưng yêu cầu đặt ra ở đây là chúng không được cùng một thanh. Nếu chữ thứ sáu có thanh không dấu, thì chữ thứ tám phải thuộc thanh trầm bình. Ví dụ như trong bài ca dao sau:
“Trong đầm sen hồng hào
Sen xanh nở bông trắng nhỏ vàng
Bông vàng, lá xanh nở đầy
Nhìn bùn, không thấy mùi tanh”
Như vậy, ta có thể nhìn nhận tổng quan về định nghĩa và các đặc điểm cơ bản của một bài thơ lục bát. Điều này giúp hiểu rõ hơn về quá trình sáng tạo tác phẩm văn chương của các nhà thơ, đòi hỏi sự tài năng và sự nhạy bén trong tư duy.
Bài làm tham khảo mẫu 3
Truyện ngắn là một loại hình văn học nhỏ gọn nhưng rất quan trọng.
Truyện ngắn tập trung vào một phần cuộc sống, một sự kiện, một hành động hay một trạng thái nhất định của nhân vật, thể hiện một khía cạnh của tính cách hoặc một mặt của xã hội. Trong truyện ngắn “Tôi đi học” của Thanh Tịnh, câu chuyện kể về sự chuyển từ thế giới gia đình sang thế giới nhà trường của một đứa trẻ. Trong “Chiếc lá cuối cùng” của O’ Hen-ri, có câu chuyện về sự hy sinh và tình người. Trong “Lão Hạc” của Nam Cao, câu chuyện về cuộc sống cuối cùng của một người nông dân già nghèo.
Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một không gian, thời gian ngắn. Nó không nói về toàn bộ cuộc đời mà chỉ chọn những khoảnh khắc để thể hiện. Tôi đi học tập trung vào buổi tựu trường đầu tiên, Lão Hạc tập trung vào cuộc sống cuối đời của nhân vật, và Chiếc lá cuối cùng tập trung vào những ngày Giôn-xi ốm nằm trong căn phòng nhỏ.
Kết cấu của truyện ngắn thường sử dụng sự đối chiếu, tương phản để làm nổi bật chủ đề. Ví dụ như sự đối chiếu giữa tình mẹ con và tình bạn trong tâm trạng của đứa trẻ (Tôi đi học); giữa cuộc sống nghèo khổ và cái chết đau đớn (Lão Hạc); giữa sự trở về và sự ra đi (Chiếc lá cuối cùng).
Những đặc điểm trên giúp truyện ngắn có dung lượng ngắn gọn. Tuy nhiên, điều này không làm giảm đi ý nghĩa của chúng. Ví dụ như Lão Hạc hay Chiếc lá cuối cùng vẫn đề cập đến những vấn đề lớn trong cuộc đời.
Truyện ngắn là một thể loại văn học hiện đại, đã và đang đóng góp không ít vào văn học Việt Nam thế kỷ XX, XXI và sau này.
Bài làm tham khảo mẫu 4
Truyện ngắn là một trong những thể loại văn học quan trọng, được nhiều người yêu thích. Khi tìm hiểu về nó, chúng ta có thể nhận ra những đặc điểm độc đáo để phân biệt với các thể loại khác.
Trong định nghĩa đơn giản, truyện ngắn là một loại văn học kể bằng văn xuôi, có dung lượng ngắn, súc tích hơn tiểu thuyết. Thường chỉ từ vài dòng đến vài chục trang, truyện ngắn luôn tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định.
Về hình thức, truyện ngắn có dung lượng và số trang viết ít. Thường tập trung vào một tình huống, một chủ đề. Không gian và thời gian trong truyện ngắn cũng hạn chế hơn so với tiểu thuyết. Truyện ngắn thường tạo ra một sự kích thích trong người đọc với cái nút đóng mở nhanh chóng, khiến họ hết băn khoăn.
Về lịch sử, truyện ngắn đã từng được xem là tiểu thuyết đoản thiên. Tại phương Tây, thể loại này xuất hiện từ thế kỷ 19 và phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 20. Ở Việt Nam, người ta thường dùng từ truyện ngắn để chỉ 'tiểu thuyết đoản thiên'.
Mỗi tác phẩm truyện ngắn mang theo một thông điệp sâu sắc của tác giả. Có nhiều tác phẩm nổi tiếng như Tôi đi học (Thanh Tịnh), Lão Hạc (Nam Cao), Chiếc lá cuối cùng (O.Henry)...
Tóm lại, truyện ngắn là một thể loại văn học quan trọng không chỉ của văn học Việt Nam mà còn của văn học thế giới.
Bài làm tham khảo mẫu 5
Thơ Đường luật là một thể thơ có nguồn gốc từ Trung Quốc, đã phát triển mạnh mẽ ở quê hương và lan rộng sang các khu vực khác, trong đó có Việt Nam. Thơ Đường luật có nhiều loại, nhưng thất ngôn bát cú được xem là thể loại chuẩn nhất, tiêu biểu trong thơ trung đại.
Đường luật là một loại thơ có từ đời Đường (618 - 907) ở Trung Quốc. Thơ thất ngôn bát cú Đường luật gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ. Về cách gieo vần, các chữ cuối của các câu 1, 2, 4, 6, 8 hiệp vần với nhau. Ví dụ như trong bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan, quy tắc này được thể hiện rõ ràng:
“Bước qua đèo Ngang, bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại, trời non nước
Một mảnh tình riêng, ta với ta”
Các từ hiệp vần như: tà, hoa, nhà, gia, ta. Điều này giúp bài thơ có sự nhịp nhàng, không quá khô cứng như một thể thơ niêm luật. Có sự đối giữa câu 3 và câu 4, câu 5 và câu 6 (tức bốn câu giữa), tạo ra sự tương phản, đồng thời cũng thể hiện sự tương đương trong cách sử dụng từ, rất rõ ràng qua bài thơ Qua Đèo Ngang:
“Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia”
“Lom khom” so với “lác đác”, “dưới núi” so với “bên sông”, “nhớ nước” so với “thương nhà”…. Các phép đối rất rõ ràng, kể cả về chữ và âm. Hoặc trong bài thơ “Thương vợ” của Tú Xương:
“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”
Sự đối giữa các câu cân xứng và rất rõ như “lặn lội” so với “eo sèo”, “quãng vắng” so với “buổi đò đông”… Trong thơ Đường, nếu câu 3 không đối với câu 4, câu 5 không đối với câu 6 thì gọi là “thất đối”.
Thể loại thơ này có các quy luật rõ ràng, đặc biệt là nguyên tắc niêm. Các câu niêm với nhau khi chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, tạo ra bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Thường một bài thơ thất ngôn bát cú được niêm: câu 1 niêm với câu 8;câu 2 niêm với câu 3;câu 4 niêm với câu 5;câu 6 niêm với câu 7.
Đây là một thể loại thơ phổ biến trong văn học Trung đại của Việt Nam. Nhiều bài thơ nổi tiếng được sáng tác theo thể loại này đã thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhà thơ.
................
Mời các bạn tải file tài liệu để xem thêm nội dung chi tiết