
Tổng hợp hơn 100 cách mở bài Viếng lăng Bác hay nhất, kèm theo dàn ý chi tiết và các mẫu văn Viếng lăng Bác để học sinh tham khảo viết bài phân tích, cảm nhận bài thơ Viếng lăng Bác một cách chất lượng hơn.
Tuyển chọn 50 cách mở bài Viếng lăng Bác (hay, ngắn gọn)
Mở bài Viếng lăng Bác - mẫu 1
'Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.'
Nỗi mong đợi và hy vọng của nhân dân miền Nam khiến họ khao khát được gặp Bác đã tan biến mãi mãi! Bác đã ra đi vĩnh viễn để lại nỗi nhớ trong lòng mọi con người Nam Bộ. Viễn Phương - một nhà thơ trẻ miền Nam - may mắn được đến thăm lăng Bác. Anh ấy đại diện cho tất cả những người con miền Nam để thể hiện tình cảm của họ khi đối diện với người cha già của dân tộc. Với cảm xúc sâu sắc, Viễn Phương viết bài thơ 'Viếng lăng Bác'. Đây thực sự là một bài thơ đầy xúc động, gợi lại trong lòng chúng ta những cảm xúc sâu thẳm nhất.
Phần mở đầu Viếng lăng Bác - mẫu 2
Phần mở đầu Viếng lăng Bác - mẫu 3
Phần mở đầu Viếng lăng Bác - mẫu 4
Phần mở đầu Viếng lăng Bác - mẫu 5
Phần mở đầu Viếng lăng Bác - mẫu 6
Phần mở đầu Viếng lăng Bác - mẫu 7
Phần mở đầu Viếng lăng Bác - mẫu 8
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 9
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 10
Viễn Phương là một nhà văn hiện diện sớm nhất của trí thức văn học giải phóng miền Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông tập trung viết về những đề tài xoay quanh vị lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác vào năm 1976, trong thời gian đất nước thống nhất và lăng Bác được xây dựng, tác giả có cơ hội thăm lăng Bác. Bài thơ là biểu hiện của cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác, khi bước vào trong lăng và cảm nhận những điều mà tác giả mong muốn khi rời đi.
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 11
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 12
Nói về nhà thơ Viễn Phương, là nhắc đến một tài năng với tâm hồn của một thi sĩ nhẹ nhàng, bi tráng, và sâu lắng. Thơ của ông chạm đến lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ đơn giản nhưng sâu sắc. Bài thơ Viếng lăng Bác cũng như vậy, qua tình cảm chân thành và giản dị của một người con miền Nam, Viễn Phương đã tạo ra những câu thơ chứa đựng lòng thành kính và xúc động khi được thăm lăng Bác.
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 13
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 14
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 15
Trong số các bài thơ viết về Bác sau khi Người ra đi, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một tác phẩm nổi bật. Bài thơ này truyền đạt niềm kính trọng, sự tiếc nuối và lòng biết ơn vô hạn của nhà thơ đối với vị lãnh tụ bằng những cảm xúc chân thành, sâu sắc và thiết tha.
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 16
“Bác đã ra đi, tiếc thay Bác ơi!
Mùa thu tràn đầy nắng vàng rơi”
(Tố Hữu)
Có thể nói việc ra đi của vị lãnh tụ vĩ đại là một mất mát lớn với toàn bộ nhân dân Việt Nam. Có nhiều bài thơ thể hiện sự thương tiếc và xúc động trước sự ra đi của Bác. Mặc dù Viễn Phương chỉ có cơ hội thăm lăng Bác một năm sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, nhưng ông không thể kìm nén được những cảm xúc của mình. Sự tiếc nuối, nhớ mong đó được tác giả thể hiện qua bài thơ “Viếng lăng Bác”.
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 17
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 18
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 19
Việc Bác ra đi là một mất mát lớn cho cả dân tộc và nhân loại Việt Nam. Đã có nhiều tác phẩm văn và thơ viết về Bác, về sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người, và “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất về Người - vị cha già của dân tộc. Bằng ngôn từ giản dị nhưng đong đầy cảm xúc, Viễn Phương đã diễn đạt một cách tinh tế và sâu lắng nỗi lòng của người con miền Nam khi lần đầu tiên được thăm lăng Bác, niềm kính trọng và trân trọng trước công lao to lớn, cũng như sự tiếc nuối trước sự ra đi của Bác. Đó cũng là những tình cảm chung của hàng triệu con người Việt Nam.
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 20
Một năm sau khi đất nước được giải phóng, nhà thơ Viễn Phương may mắn là một trong những người con miền Nam đầu tiên được thăm lăng Bác. Đứng trước lăng Bác, nhà thơ không thể kìm nén được những cảm xúc xúc động và nghẹn ngào, và bài thơ “Viếng lăng Bác” cũng được sáng tác dưới sự ấn tượng mạnh mẽ của những cảm xúc đó. Viễn Phương viết bài thơ này với tình yêu, kính trọng, niềm tự hào và cả sự xót xa của một người con dành cho vị cha già của dân tộc. Tình cảm đó cũng được thể hiện qua những lời nguyện cầu và hy vọng đẹp đẽ ở cuối bài.
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 21
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 22
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 23
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 24
Bắt đầu Viếng lăng Bác - mẫu 25
Dàn ý Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác (mẫu 1)
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác phẩm và tác giả của bài thơ Viếng lăng Bác
Bài thơ này thể hiện lòng kính trọng và xúc động của nhà thơ khi đến viếng lăng Bác.
Bài thơ truyền đạt một giọng văn trang trọng, đầy tha thiết để thể hiện tình yêu thương và lòng biết ơn đối với Bác
II. Phần thân bài
1. Cảm xúc khi đứng trước lăng
- Tình cảm chân thành, giản dị của tác giả Viễn Phương cũng là biểu hiện của lòng đau đáu thương nhớ Bác của người con miền Nam nói chung
“Con từ miền Nam đến viếng lăng Bác”
Câu thơ này thể hiện tâm trạng xúc động của một người từ chiến trường miền Nam, sau bao năm mong mỏi, bây giờ được viếng lăng Bác
Sử dụng đại từ xưng hô “con” để tạo ra một tâm trạng gần gũi, thân thiết, ấm áp, diễn đạt tâm trạng của người con khi đến viếng cha sau nhiều năm mong mỏi
Cách diễn đạt nhẹ nhàng, tránh xa cũng như việc sử dụng từ “thăm” để giảm nhẹ nỗi đau mất mát, cũng là cách diễn đạt tình cảm gần gũi của tác giả.
- Hình ảnh hàng tre là biểu tượng đa nghĩa:
Với tính chất biểu tượng, hình ảnh “hàng tre” gợi lên những liên tưởng quen thuộc về làng quê, đất nước đã trở thành biểu tượng của dân tộc
Cây tre biểu thị sự kiêng trì, tính chất, và tâm hồn mạnh mẽ, thẳng thắn của người Việt Nam.
Từ “Ôi” biểu thị niềm kính ngưỡng, thể hiện niềm tự hào về phẩm chất mạnh mẽ, kiên cường của dân tộc chúng ta.
2. Sự nhớ mong của tác giả khi đứng trước lăng Bác
- Ở dòng thơ thứ hai, tác giả tạo ra một sự kết hợp giữa hình ảnh hiển nhiên rạng rỡ của mặt trời và hình ảnh của Người, một sự kết hợp giữa thực tế và biểu tượng:
- Tác giả sử dụng hình ảnh mặt trời để miêu tả Bác, người mang lại sự sống, ánh sáng, và hạnh phúc cho dân tộc.
- Hình ảnh dòng người đi trong lòng tiếc thương và tưởng nhớ thể hiện sự xúc động và lòng kính trọng của nhân dân khi đến viếng lăng.
- Hình ảnh 'kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân' biểu hiện sự hoàn thiện và đẹp đẽ của sự kết hợp:
Hình ảnh đoàn người vào viếng Bác thể hiện sự thực tế, đồng thời là biểu tượng sáng tạo của nhà thơ: cuộc sống của dân tộc nở hoa dưới ánh sáng cách mạng của Bác.
Bảy mươi chín mùa xuân: là biểu tượng cho tuổi đời của Bác, sự hiến dâng của Bác cho sự phát triển của dân tộc.
- Sự biết ơn sâu sắc chuyển dần sang sự xúc động khi tác giả nhìn thấy Bác:
Bác nằm trong giấc ngủ yên bình
Giữa ánh trăng nhẹ nhàng dịu dàng
Ánh sáng trong lăng kích thích trí tưởng tượng: “vầng trăng dịu dàng”.
Thơ của Bác thường gắn liền với hình ảnh ánh trăng, “vầng trăng” gợi lên cảm xúc sâu sắc và nhấn mạnh tính thanh cao của Người.
Trong Bác, sự vĩ đại và sự đơn giản hòa quyện với nhau.
- Nhà thơ xúc động, đau đớn trước sự ra đi vĩnh viễn của Người:
Trời xanh mãi còn, tim cứ đau nhói
Bởi vì nghe nhói trong lòng
Mặc dù Người đã ra đi, nhưng sự ra đi ấy hòa quyện với thiên nhiên, với hình ảnh của quê hương, giống như Tố Hữu đã viết “Bác sống như trời đất của chúng ta”.
Nỗi lòng “nghe nhói trong tim” của tác giả là sự đau đớn sâu thẳm trong tâm hồn khi đứng trước lăng Bác, đó là sự rung động chân thành của nhà thơ.
3. Cảm xúc khi rời lăng của nhà thơ
- Sự chia ly đầy tiếc nuối, đầy nước mắt của tác giả:
Khi trở về miền Nam, lòng như trào nước mắt: như là một lời tạm biệt đặc biệt, diễn đạt tình cảm sâu lắng, giản dị.
Cảm xúc lên cao với lòng lưu luyến, tiếc nuối, không muốn rời xa.
Ước nguyện chân thành là được hóa thân thành “chim”, cây tre”, “đóa hoa” để gần gũi Bác.
Từ “muốn làm” thể hiện một cách trực tiếp và gián tiếp sự lưu luyến của nhà thơ.
- Hình ảnh cây tre kết thúc bài thơ một cách tinh tế, cây tre hiền hậu được nhân hóa với phẩm chất hiền lành của con người.
- “Cây tre hiền lành” là biểu tượng của phẩm chất trung hiếu của người Việt Nam, mạnh mẽ, không khuất phục, đồng thời là cam kết sống trách nhiệm với sứ mệnh của Người.
III. Kết bài
- Bài thơ Viếng lăng Bác gây xúc động sâu trong lòng người đọc, thể hiện lòng trung thành, xúc động của nhân dân Việt Nam với con đường cách mạng mà Bác đã dẫn dắt.
- Với giọng điệu trang trọng và tha thiết, hình ảnh ẩn dụ sâu sắc và lôi cuốn, ngôn ngữ bình dị, giàu ý nghĩa.
Phân tích Viếng lăng Bác - mẫu 1
Con ở miền Nam đến thăm lăng Bác
Mỗi ngày, mặt trời lặn qua lăng Bác
Thấy một mặt trời đỏ trong lăng
Mỗi ngày, dòng người đi với lòng thương nhớ
Kết thành tràng hoa, dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Viễn Phương đã rất tài tình khi sử dụng từ “Dâng”, nó mang theo nhiều tình cảm, tình nghĩa. Việc sử dụng “bảy mươi chín mùa xuân” thay vì “bảy chín tuổi” cũng là một cách diễn đạt tinh tế, thơ mộng.
Ở khổ thơ thứ ba, tác giả tả Bác như đang ngủ yên bình dưới ánh trăng dịu dàng. Viễn Phương biểu hiện sự đau đớn, xúc động khi thấy Bác nằm yên. Câu thơ “mà sao nghe nhói ở trong tim” chứa đựng sự đau đớn, tiếc nuối sâu sắc. Lối viết của tác giả đầy hàm súc, đầy ấn tượng, để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Khổ thơ cuối thể hiện cảm xúc lưu luyến, buồn thương của nhà thơ. Viễn Phương mong muốn được hóa thân thành “con chim hót”, đóa hoa tỏa hương hoặc cây tre trung hiếu mới để đền ơn Người. Đây là những cảm xúc sâu lắng, hình ảnh đẹp và độc đáo, thể hiện tinh thần Nam Bộ. Có thể nói đây là những khổ thơ xuất sắc nhất trong bài Viếng lăng Bác.
Phân tích Viếng lăng Bác - mẫu 2
Suốt bài thơ, mạch cảm xúc rưng rưng, xúc động không nguôi khi đối diện với một anh hùng dân tộc. Bài thơ mở đầu như một tiếng reo vui:
Con ở miền Nam tới viếng lăng Bác
Đã thấy hàng tre bát ngát trong sương mù
Ôi! Hàng tre xanh rờn rợn Việt Nam
Bão táp, mưa sa, hàng tre đứng thẳng hàng
Khung cảnh trước mắt khi nhà thơ đến đây là hàng tre “bát ngát”. Tre gắn liền với đất nước, tượng trưng cho sức mạnh, kiên cường của dân tộc. Dù bão táp, mưa sa, hàng tre vẫn vươn cao, kiên cường như tinh thần quật cường của dân tộc.
Mỗi ngày, mặt trời lặn qua lăng
Một mặt trời đỏ rực trong lăng
Hàng ngày, dòng người về trong niềm nhớ thương
Tràng hoa dâng lên, bảy mươi chín mùa xuân
Bác yên nằm giấc ngủ bình yên trong lăng
Dưới ánh trăng dịu dàng rọi sáng
Biết rằng trời xanh mãi mãi
Nhưng lòng lại đau nhói sâu thẳm
Bác vẫn nằm ở đây, giữa thủ đô rực nắng, giữa hàng triệu trái tim dân tộc hướng về Người. Nét “dịu hiền” trên khuôn mặt Người là biểu tượng cho điều cao đẹp, thanh khiết nhất của một cuộc đời. Mặc cho nỗi đau còn đó, mất mát còn đó, đất nước luôn nhớ về Người. Có lẽ trong khổ thơ cuối cùng, người đọc sẽ cảm thấy rung động trước lời ước nguyện của Viễn Phương:
Mai về miền Nam trào dâng nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa thơm hương đây
Muốn làm cây tre trung hiếu ở đây.
Phân tích Viếng lăng Bác - mẫu 3
Rất nhiều nhà thơ đã sáng tác về Người, về lăng Người. “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một bài thơ ngắn đầy cảm động, thể hiện tấm lòng của dân tộc miền Nam dành cho Người. Đầu bài thơ, tác giả tự giới thiệu: 'Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác'. Những lời thơ giản dị chứa đựng nhiều cảm xúc. Trong cuộc sống, Người luôn nhớ đến miền Nam. Nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
Bác nhớ miền Nam, lòng nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, lòng mong Cha
(Bác ơi)
Lời thơ chính là lời của một người con miền Nam đến thăm lăng Bác, nơi người Cha già của dân tộc nghỉ ngơi. Tình cảm trong bài thơ chính là tình cảm của người con xa quê, nỗi nhớ thương đã âm ấm trong lòng suốt bao nhiêu thời gian, chỉ chờ ngày gặp lại bóng dáng thân yêu là trào dâng, xuyến xao. Từ xa, nhà thơ khi nhìn thấy hàng tre quanh lăng, đã tràn ngập trong lòng bao cảm xúc:
Thấy trong sương hàng tre rợp bóng
Ôi hàng tre xanh muôn thuở Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Nhà thơ chắc chắn đã đến sớm để xếp hàng vào viếng, khi sương sớm vẫn phủ quanh lăng. Theo con đường dẫn tới lăng, hàng tre bát ngát nổi lên. Bát ngát của tre và bát ngát của sương. Nhà thơ ghi lại một hình ảnh quen thuộc đã in sâu vào tiềm thức từ lâu: “hàng tre xanh xanh Việt Nam / Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”.
Khổ thứ hai mô tả cảm xúc khi thấy đoàn người xếp hàng vào lăng. Đoàn người dài vô tận, di chuyển chậm chạp. Trên đường, sương vẫn còn phủ, trong khi mặt trời đã lên cao. Mặt trời trên lăng gợi lên một liên kết mới:
Ngày ngày mặt trời ló dạng trên lăng
Thấy mặt trời trong lăng đỏ ửng
So sánh Bác với mặt trời đã quen thuộc, nhưng so sánh mặt trời trên lăng và mặt trời trong lăng là một ý tưởng mới lạ, sáng tạo, chưa từng có. Mặt trời “rực đỏ” gợi lên hình ảnh của trái tim, trái tim đầy nhiệt huyết, trung thành, yêu nước và yêu dân. Nhìn thấy dòng người vào viếng, nhà thơ lại nhớ đến vòng hoa:
Hàng ngày dòng người đi với lòng thương nhớ
Kết hàng tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Dường như mọi người không chỉ đến viếng một người đã ra đi, một thi hài, mà còn đến viếng một cuộc đời đã trải qua bảy mươi chín mùa xuân, hiến dâng bao nhiêu hoa trái. Tác giả không chỉ sử dụng liên tưởng sâu sắc mà còn lựa chọn từ ngữ tinh tế, đầy tình cảm để diễn đạt.
Câu từ “ngày ngày” được lặp lại hai lần tạo ra cảm giác thời gian vô tận, vĩnh viễn, không ngừng, như tấm lòng của nhân dân không bao giờ nguôi nhớ Bác.
Khổ thơ thứ ba mô tả cảm xúc khi bước vào lăng. Đây là nơi của sự yên bình, trang nghiêm, nơi mà cuộc sống nghỉ ngơi đời đời. Câu thơ viết rất chân thực và lãng mạn:
Bác yên nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Khung cảnh yên tĩnh, êm đềm, dưới ánh trăng sáng dịu hiền, gợi lên hình ảnh của giấc ngủ ban đêm. Nhà thơ không muốn thừa nhận rằng đó là giấc ngủ vĩnh viễn, ngủ giữa ban ngày, nhưng cũng không thể phủ nhận sự thật rằng người đã vĩnh viễn ra đi:
Vẫn hiểu rằng trời xanh sẽ mãi mãi
Mà cảm nhận được nhói đau trong lòng
Dù biết rằng Bác sống mãi như bầu trời xanh, nhưng không thể giấu đi được nỗi đau mất mát, khiến tim đau nhói. Câu thơ vang lên như tiếng khóc chua xót. Khổ thơ cuối cùng là biểu hiện của cảm xúc trước khi rời đi:
Muốn hóa thành con chim hót vang quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa thơm phức đây đó
Muốn làm cây tre trung hiếu bên này
Nghĩ đến việc trở về miền Nam ngày mai, nỗi buồn rưng rức làm rơi lệ. Không phải là giọt lệ lăn dài, mà là những giọt nước mắt trào ra, biểu hiện cho một cảm xúc mạnh mẽ. Tình thương xót như nén trong lòng, sinh ra vô số ước mơ. Muốn hóa thành con chim hót vang quanh lăng Bác, để mang lại niềm vui, sự nhẹ nhõm bên người đã hy sinh tất cả cho đất nước. Muốn trở thành đóa hoa thơm phức vùng lăng, một hơi thở thực tế nhưng lại mơ mộng như “đâu đó”, thoang thoảng.
Muốn trở thành cây tre trung hiếu bên lăng. Mọi ước mơ đều hướng về một điểm, mong được gần Bác mãi mãi, như muốn mang lại sự vui vẻ, giảm bớt nỗi cô đơn của những người đã dâng cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, giải phóng dân tộc, một người đã dành tình yêu thương cho mọi tầng lớp nhân dân và đặc biệt là đồng bào miền Nam ruột thịt trong suốt cuộc đời.
Bài thơ mô tả một ngày đến thăm lăng Bác, từ sáng đến trưa, rồi đến chiều. Nhưng thời gian trong sự nhớ thương là vĩnh viễn của vũ trụ, của tâm hồn. Cả bài thơ bốn khổ, mỗi khổ đều tràn đầy niềm nhớ và xót xa vô hạn. Bốn khổ thơ, mỗi khổ đều chứa đựng ẩn dụ, những ẩn dụ tinh tế và trang nhã, thể hiện sự cao quý của tình cảm từ cuộc sống hàng ngày lên tầm cao quý.
Tình cảm dành cho Bác chỉ có thể là tình cảm cao quý, nâng cao tinh thần con người. Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Hồ Chủ tịch, vị lãnh tụ vĩ đại, được dân tộc kính yêu.
Phân tích Viếng lăng Bác - mẫu 4
Nói về Viễn Phương, Mai Văn Tạo đã từng nhận xét: “Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gò bó, cầu kỳ, kênh kiệu, khoa trương. Hình ảnh nào trong cuộc sống anh cũng tìm thấy chất thơ. Không cần đến “Tiếng tù và trong sương đêm”, “Hoa lục bình trôi man mác tím, bông lau bát ngát nắng chiều” hay “Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước”…
Một chiếc lá cô đơn trong rừng hoang anh cũng được anh đưa vào đó, giữa thực và hư, rất thơ nhưng thực, rất thực nhưng thơ”. Thực sự, những tác phẩm của Viễn Phương đã thể hiện điều đó rất rõ. Ông có nhiều bài thơ hay nhưng nổi bật nhất phải kể đến Viếng lăng Bác.
Bài thơ được xuất bản trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978 với những dòng cảm xúc chân thành, sâu sắc, lòng biết ơn của nhà thơ cũng như toàn thể đồng bào miền Nam, của nhân dân toàn quốc dành cho người cha vĩ đại của dân tộc. Bởi vì điều đó, bài thơ cũng được xem như một lời tri ân thành kính dâng lên Người. Đầu tiên, có thể thấy ở khổ thơ đầu là biểu hiện của niềm tự hào, niềm xúc động khi được đến thăm lăng Bác để thỏa lòng của thi nhân:
Con từ miền Nam đến thăm lăng Bác
Thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh của Việt Nam
Bão táp, mưa sa, hàng tre đứng thẳng hàng
Như một đứa con quay về thăm cha già yêu quý sau nhiều ngày xa cách. Với từ “thăm” - một cách giấu diếm, tác giả cố nén lại trong lòng cảm xúc đau thương mất mát của dân tộc và để nói với lòng mình: Bác vẫn sống mãi trong lòng dân, sống mãi “như trời đất của ta”, trong “từng ngọn lúa mỗi nhành hoa” (Tố Hữu).
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” hiện ra trong sương mờ buổi sớm trên con đường đến thăm Bác, đó là hình ảnh của quê hương thân thương, yên bình, gần gũi luôn ở bên Người. Một câu cảm thán tác giả dùng để diễn đạt cảm giác ngỡ ngàng về hình ảnh hàng tre:
Ôi! Hàng tre xanh xanh của Việt Nam
Đó là biểu tượng tuyệt vời cho dân Việt Nam, là biểu tượng cho sự kiên trung, bền bỉ của dân tộc Việt Nam vượt qua “bão táp mưa sa” - biểu hiện của mọi khó khăn, gian khổ. Mỗi cây tre như một người Việt Nam kiên cường, vững vàng, quay trở lại kính cẩn nghiêng mình trước tinh thần của Bác. Ba hình ảnh đã tạo nên một không gian tưởng niệm độc đáo, đầy ý nghĩa: Lăng Bác hiện ra như một làng quê yên bình với những con người đơn giản, gần gũi.
Mỗi ngày mặt trời lặn qua lăng
Thấy mặt trời trong lăng rực đỏ
Mỗi ngày dòng người đi trong tương nhớ
Đặt tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Những người đó là biểu tượng tiêu biểu cho sự đoàn kết, đại diện cho đa dạng văn hóa và dân tộc trên khắp Tổ quốc tụ họp tại đây. Họ hình thành một bức tranh sống động như một “tràng hoa” - biểu tượng tinh túy của sự tốt đẹp nhất trong thiên nhiên và con người Việt Nam, dâng lên Bác, dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân”.
Phép hoán dụ này, cũng là một cách diễn đạt trang trọng để nói về ý nghĩa sâu sắc: bảy mươi chín năm cuộc đời của Bác như bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, một cuộc sống ý nghĩa và đẹp đẽ. Bác đã mang lại cho chúng ta một mùa xuân vĩnh cửu, mùa xuân của độc lập và hạnh phúc. Với tâm trạng và suy nghĩ riêng của mình, lời thơ của Y Phương đã chạm vào trái tim của tất cả chúng ta khi nghĩ về Bác:
Vì sao lòng đất nặng lòng biết ơn
Dòng cảm xúc của tác giả tiếp tục lan tỏa với những dòng cảm xúc tiếc thương vô hạn, dù cố giấu nhưng vẫn đủ sức chạm đến trái tim của hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ yên bình
Giữa vầng trăng sáng nhẹ nhàng
Vẫn biết trời xanh mãi mãi
Nhưng lòng nghe nhói như thắt trong tim.
Vẫn là phép nói giảm, tác giả như muốn tránh đi sự thật phũ phàng: Bác đã ra đi. Hai câu thơ như một bức tranh thực sự: Bác nằm yên trên giường, ánh đèn hồng chiếu sáng làm cho gương mặt Bác trở nên ấm áp và sáng tỏ như ánh trăng.
“Trời xanh” và “ánh trăng” không chỉ là hình ảnh thực tế mà còn là biểu tượng của sự bền vững và vĩnh cửu của tự nhiên. Kết hợp với từ “vẫn biết - nhưng lòng”, tác giả muốn nhấn mạnh sự tồn tại của Bác trong lòng dân tộc nhưng cũng thừa nhận sự mất mát trong tim:
Từ “nghe nhói” là biểu hiện của cảm xúc sâu thẳm nhất, là nỗi đau đớn tột cùng của tác giả khi nhận ra sự thật rằng Bác đã ra đi. Đó là nỗi đau lớn đến nỗi tác giả không thể nào kìm nén được.
Mai trở về miền Nam, nước mắt trào dâng
Ước ao làm con chim hót quanh lăng Bác
Ước ao làm đoá hoa toả hương khắp nơi
Ước ao làm cây tre trung hiếu ở đây
Những dòng thơ đầy nghẹn ngào, sâu lắng, thể hiện sự nhớ thương một cách trực tiếp, “nước mắt trào dâng” không chỉ là cảm xúc của tác giả mà còn là biểu hiện của biết bao trái tim khác khi phải rời xa nơi linh thiêng. Bằng cách tả lại những mong ước chân thành, sâu sắc, tác giả gợi lên hình ảnh tượng trưng của thiên nhiên: làm chim hót vang quanh lăng Bác, làm hoa tỏa hương khắp nơi, làm cây tre ở đây trung hiếu, tôn nghiêm như người lính canh giữ giấc ngủ yên bình cho Người.
Đó không chỉ là hình ảnh tinh tế của thiên nhiên mà còn là biểu hiện của sức sống con người, sự kính trọng được dành cho Bác. Sự khiêm nhường, bình dị, ước ao của nhà thơ cũng là ước ao của chúng ta: Mỗi người đều mong muốn được ở bên Bác, làm điều gì đó, cho dù nhỏ bé, để làm vui lòng Người.
Cùng với tất cả những tác phẩm ca ngợi về Hồ Chủ tịch, bài thơ Viếng lăng Bác đã gợi lại những cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc suốt bốn mươi năm qua, với thành công về nội dung và nghệ thuật. Ngôn ngữ thơ đơn giản, mộc mạc, mang dấu ấn của Nam Bộ, hình ảnh thơ chân thực mở ra nhiều ý tưởng, hình ảnh tưởng tượng.
Với ý nghĩa đó, bài thơ thực sự trở thành biểu tượng kính trọng của nhà thơ cũng như của toàn dân, được dâng lên Bác. Ngoài ra, Viễn Phương cũng góp phần lớn vào sự kiện ca ngợi lãnh tụ. Một bài thơ xuất sắc, mang đầy tình cảm, in sâu vào lòng người đọc.
Cùng với nhiều bài thơ khác ca ngợi Bác, Viếng lăng Bác của Viễn Phương vẫn mãi là tượng đi cùng thời gian. Bài thơ đã khơi dậy trong ta niềm kiêng nể, lòng biết ơn bất tận đối với vị cha già vĩ đại của dân tộc.