
Nguyễn Việt Hà là mẫu nhà văn không nên bị gò bó vào những quan niệm hay lý thuyết cụ thể. Quan trọng là cách ông thể hiện và dung hòa chúng trong nghệ thuật tiểu thuyết. Đoàn Cầm Thi từng nhận định “tiểu thuyết Nguyễn Việt Hà là một lò thử nghiệm văn phong khổng lồ”. Đến Tuyệt không dấu vết, văn phong đó đã thành tựu ở phiên bản hoàn thiện nhất, một thứ ngôn ngữ tiểu thuyết được cá nhân hóa, điển hình hóa, trở thành bạch thoại của thị dân Hà Nội. Nguyễn Việt Hà vừa là cá nhân trong cộng đồng, vừa là “nhà ngữ pháp” vạch ra cấu trúc ngôn ngữ ấy. Cuộc khảo thí ngôn ngữ này đặt ông vào vị trí đặc biệt trong văn học Việt Nam đương đại.
Câu chuyện trong Tuyệt không dấu vết vẫn diễn ra giữa lòng Phố, giữa cái Hà Nội trầm mặc “sóng lớp phế hưng” - với những đặc điểm quen thuộc xuất hiện trong các tác phẩm của Nguyễn Việt Hà. Theo ngôn ngữ sách giáo khoa, Phố là một chủ thể trữ tình, một “sợi chỉ đỏ xuyên suốt” kiến tạo nên sinh quyển tiểu thuyết của anh. Tuy nhiên, trong Tuyệt không dấu vết, Phố dường như bị xóa mờ đi ranh giới của một đời sống đô thị cụ thể, để dễ dàng lùi vào hậu cảnh, phục vụ cho hiệu ứng “trinh thám-kiếm hiệp” mà tác giả muốn tạo dựng. Ngay từ những dòng đầu tiên, không-thời gian ấy đã mang đầy dấu vết ngụy tạo: “Phố nửa như đang Thu, nửa như đang Xuân, nên chắc là mùa Đông. Người đi trên phố nửa quê nửa tỉnh nửa cao bồi, rất hiếm cao thủ. Gió lạnh hoang mang mưa, trời rét như cắt da cắt thịt. Ngày xưa, cũng chưa xưa lắm, người ta lãng mạn gọi là rét ngọt. Ngày nay tàn bạo hơn, gọi là rét hại. Ngày xưa người ta chống rét bằng cách cầm tay nhau, cùng lắm là hôn nhau. Còn bây giờ, nhà nghỉ đã nhiều hơn quán rượu”. Thông qua biểu dụ “giang hồ”, lại là một thứ “giang hồ thời mạt”, Phố bỗng hoang đường đến thế. Nhưng chẳng lạ lẫm gì, người đọc sẽ nhận ra ngay những dấu hiệu quen thuộc của một đời sống thành thị, nơi mà “Thập loại chúng sinh luôn tự nghĩ đang mang đủ loại trọng bệnh, chen nhau tới cửa Phật. Có bệnh đến từ đắc thời, có bệnh đến từ thất thế. Rồi ngoại tình, rồi vỡ tình, rồi thất tình. Có ung thư muộn giai đoạn cuối, có mới làm quan giai đoạn đầu, cửa chùa từ bi rộng mở chữa tất”. Dày đặc tâm linh nhưng thiếu vắng đức tin, đó là căn bệnh của “thời mạt”. Và khi không biết bám víu vào đâu, “má mì cũng giống như quan chức, rất khó hạ cánh an toàn” và các “sồn sồn thiếu phụ” cũng nườm nượp đốn ngộ “ưng vô sở trụ” chẳng khác Huệ Năng Lục tổ. Ngỡ tưởng đây là “buổi hoàng hôn của các thánh thần”, nhưng thật ra, “VTV rụt rè đưa tin về một đạo lạ ở Đắc Nông. Càng gần doomsday thì càng nhiều tôn giáo tân kỳ. Có những đạo trưởng bắt tín đồ mua chum, úp mặt hét vào đó để xả bớt tham sân si. Có cái lạ là đa phần đạo sư đều là đàn bà”. Nietzsche chắc cũng phải bật cười khi nhìn vào sự hoang mang trống rỗng ở các nhân vật của Nguyễn Việt Hà. Trong cái vòng kim cô lộn xộn của những chân lý mập mờ, văn phong của Nguyễn Việt Hà phát huy hết tiềm năng của lối viết “dĩ ảo vi thực”. Chủ ý đưa ra hình thức mới lạ rõ ràng đã đắc dụng, giúp ông tổ chức chất liệu đời sống theo nguyên lý “nửa hư nửa thực”.
- Nguyễn Việt Hà không chủ định tạo dựng một thứ như “huyền thoại phố phường” nhưng các câu chuyện được kể tự nó đã mang tính huyền thoại. Như một thói quen thăm dò thời đại, các tiểu thuyết trước của ông luôn song hành một mạch truyện lịch sử. Ở đây, mạch lịch sử ấy được kéo về gần như đồng hiện trong mạch đương đại. Những “người muôn năm cũ” của một thời giang hồ tráng khí được tái hiện qua loạt hồi tưởng của các nhân vật thuộc nhiều thế hệ. Đáng kể nhất và mang tính biểu tượng thời đại, là văn sĩ Đức Trọng - ông nội của Thám tử - một nhà văn “chuyên viết truyện trinh thám lẫn kiếm hiệp, lứa đàn em của Phạm Cao Củng”, “từng làm báo cùng Vũ Bằng, Ngọc Giao”, có giao hảo với “một nhà thơ hom hem, có tên trong tập khảo luận lừng danh của Hoài Chân - Hoài Thanh”. Ông là “cha đẻ” của nhân vật thám tử Michel Phát Kỳ từ thời Pháp thuộc và giờ đây, người cháu đích tôn - Nguyễn Ngọc Tuấn sẽ tiếp tục nối nghiệp, viết nên cuộc đời mình thành một thám tử. Dễ thấy, “Tuấn còn được tử tế sống, còn minh mẫn biết uống whisky, hoàn toàn là nhờ ông nội”. Cảm hứng lịch sử được duy trì trong những mạch ngầm như vậy, không cần tách biệt rạch ròi, vừa đủ để giữ cho Tuyệt không dấu vết một làn sương hư ảo cần thiết.
Từ đây, quá trình điều tra vô hình biến thành một cuộc thăm dò tiềm thức của chính Thám tử. Theo lý suy nghĩ thông thường, thám tử đương nhiên phải là kiểu nhân vật tỉnh táo, mẫn tiệp nhất. Vậy một vụ án sẽ đi tới đâu khi căn cước của chính người phá án cũng bị nghi ngờ? Nhân vật Tuấn thám tử ở đây cũng không hoang đường hơn Sherlock Holmes của Conan Doyle, Sở Lưu Hương của Cổ Long, hay thậm chí là Hoàng là Nhã trong Cơ hội của Chúa. Điểm khác biệt chỉ xuất hiện khi Nguyễn Việt Hà đặt nhân vật của mình vào một trạng thái tinh thần hoàn toàn khác. Thám tử Tuấn là người không bao giờ mơ, nhưng cuối cùng có vẻ như anh ta cũng đang trong một giấc mơ, và trong giấc mơ ấy lại mơ mình đang mơ tiếp một giấc mơ khác... Nỗ lực “bơi ngược dòng” để tìm đến một thực tại chắc chắn của nhân vật Thám tử khiến người đọc không thể không liên hệ đến dự án triết học của Descartes thế kỷ XVII - đi tìm một điểm tựa duy lý vững chắc cho suy tưởng của con người - một vấn đề nhận thức luận (epistimology) bản lề trong triết học phương Tây hiện đại. Nôm na hơn, nó thường được minh họa bằng điển tích “Trang Chu mộng hồ điệp” trong sách Trang tử: “Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu”. Đó cũng chính là băn khoăn căn bản về một thực tại “u u minh minh” đeo bám vào cốt truyện: “Thực tại bản lai vốn là ảo hay là thật, hay chỉ là một giấc mộng lớn”.
Trong bối cảnh mê man này, sự tương phản với những ảo ảnh mơ màng của các nhân vật Thám tử - Lãng tử - Thiếu phụ lại là sự tỉnh táo bất thường ở Bách (và đâu đó cũng ở nhân vật đệ tử Tuấn Anh) - người bạn thân thiết lâu năm của Thám tử. Bách - sĩ quan an ninh, xuất hiện lạnh lùng chớp nhoáng qua những cuộc gặp. Người đọc cũng không biết gì thêm về hành tung của nhân vật này ngoài việc nhận thấy cuối cùng, mối quan tâm ở anh ta là chiếc cặp Samsonite chứa “sinh mệnh chính trị của biết bao nhiêu người cao quý” - một vấn đề chuyên môn thôi. Sắc sảo tỉnh táo là thế, không ngạc nhiên khi Bách chính là người “giải ảo”, mở ra lối thoát cho những chập chờn nghi hoặc liên miên không hồi kết. Nhưng cũng theo một cách hoang đường, anh ta dùng công đọc hết Thành duy thức luận - hệ thống siêu hình học cơ bản của Phật giáo, lấy đề tài là toàn thể kinh nghiệm của Tâm Thức con người - để “vạch mặt” người bạn thám tử của mình: “...Không phải là Freud đâu, chính những đại sư tông Duy Thức mà cậu vô cùng thích đã phân tích như thế. ‘Lãng tử’ chỉ là bản phô tô đầy lỗi phóng chiếu từ tâm thức đã bị tẩu hỏa nhập ma của một người thích diễn vai thám tử”. Cùng với đó, hai cô nhà báo “số 7”, tiểu thư “số 9” “đều là bệnh nhân tâm thần phân liệt”. Tới đây, một câu hỏi rốt ráo phải được đặt ra: “Cứ cho là thám tử đã bịa ra Lãng tử, vậy ai đã bịa ra Thám tử”? Có lẽ để giải đáp câu hỏi này, ở hồi thứ hai mươi, hồi cuối cùng của tiểu thuyết (“Tứ cú”), Nguyễn Việt Hà đã để cho Thám tử lần đầu tiên xuất hiện với tư cách một chủ thể xưng “Tôi”. Tất nhiên, theo phương pháp luận hoài nghi của Descartes (“nguyên lý thứ nhất”), dù hoang đường mộng mị tới đâu thì cái “Tôi” biết suy tư luôn tiền giả định sự tồn tại của chính nó (“…Và khi tôi quan sát thấy rằng sự thật này: tôi đang suy nghĩ, do đó tôi tồn tại, là hoàn toàn chắc chắn, và đầy đủ bằng chứng hiển nhiên tới mức không có cơ sở nào để nghi ngờ… Chẳng phải đắn đo, tôi chấp nhận nó như nguyên lý đầu tiên của thứ triết học mà tôi đang nghiên cứu” - Discourse on the Method of Rightly Conducting One’s Reason and of Seeking Truth in the Sciences, Oxford University Press, Part IV, p.28, - a new translation of Ian Maclean (2006)). Việc xác lập một cái “Tôi” chắc chắn cho nhân vật Thám tử ở “phút 90” có thể là khởi điểm của một cuộc “lội ngược dòng” nữa, hay nói cách khác, một manh mối quan trọng giúp xoay chuyển “vụ án” này theo những chiều diễn dịch khác nhau. Và thẩm quyền của độc giả tiểu thuyết là được tự do trong những liên tưởng như vậy.
Hà Nội, mùa hè 2023 - một mùa hè nóng hoang đường
Ng.h.Đăng, biên tập viên