Ưu điểm của sự lai là thuật ngữ chỉ về hiện tượng cơ thể lai (thường là thế hệ đầu sau bố mẹ) thể hiện các phẩm chất ưu tú, vượt trội hơn so với bố mẹ như sức sống cao hơn, tăng trưởng nhanh chóng, phát triển mạnh mẽ, khả năng chống bệnh tốt, sản xuất cao, và khả năng thích nghi tốt. Ưu điểm của sự lai thể hiện rõ nhất trong lai giữa các giống, lai giữa các dòng và đặc biệt là trong lai giữa các dòng khác nhau. Tuy nhiên, ưu điểm của sự lai thường giảm dần qua các thế hệ sau do sự không phù hợp giảm dần.
Để tạo ra ưu điểm của sự lai trong giống vật nuôi, phương pháp chủ yếu là sử dụng lai kinh tế để tạo ra giống thương phẩm. Đối với cây trồng, để tạo ra ưu điểm của sự lai, phương pháp chủ yếu là sử dụng lai giữa các dòng bằng cách tạo hai dòng tự thụ phấn và cho chúng giao phấn với nhau. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi trong ngô, đã tạo ra nhiều giống ngô lai có năng suất cao hơn từ 25-30% so với giống gốc như giống ngô Bai-oxide (Bioseed) 9698.
Nguyên nhân và phương pháp thực hiện ưu điểm của sự lai
Ưu điểm của sự lai được giải thích bằng giả thuyết siêu trội, theo đó khi có sự khác biệt về nhiều cặp gen khác nhau thì con lai có những đặc điểm vượt trội so với bố mẹ, kể cả các đặc điểm trội của bố mẹ, do trong cơ thể lai có sự tương tác giữa hai alen khác nhau cùng một locus dẫn đến hiệu quả bổ trợ, mở rộng phạm vi biểu hiện của các đặc điểm. Các nhà nghiên cứu giống thường duy trì các dòng bố mẹ và tạo ra các giống lai có ưu thế lai làm thương phẩm.
Để tạo ra ưu thế lai, người ta thực hiện lai khác dòng theo các bước như tạo ra các dòng thuần chủng khác nhau bằng cách thụ phấn tự nhiên trong 5-7 thế hệ, sau đó lai các dòng thuần chủng với nhau để tìm ra tổ hợp lai có ưu thế lai cao. Tiến hành lai thuần và lai ngược để tìm ra tổ hợp lai mang ưu thế, do ưu thế của lai cũng phụ thuộc vào tính chất di truyền của tế bào. Trong một số trường hợp, con lai khác dòng không có ưu thế nhưng nếu lai con lai này với dòng thứ ba thì đời con lại có thể có ưu thế lai.
Trên giống bò
Ở Israel, đã thành công trong việc nuôi bò Holstein thuần. Năng suất sữa của bò Holstein tại Israel hiện nay là cao nhất thế giới, đạt 10500 kg/305 ngày (so với Hà Lan khoảng 7900 kg). Vào những năm 1920-1930, Israel nhập khẩu bò đực Friesian từ Hà Lan và Đức để cải tạo giống bò địa phương. Năm 1947, họ nhập khẩu bò đực Holstein từ Canada cùng với con bò đực sinh ra từ chúng để tiến hành gieo tinh nhân tạo. Từ năm 1950 đến 1962, họ nhập khẩu cả bò đực và bò cái Holstein từ Mỹ. Từ năm 1963, hầu như tất cả bò cái được gieo tinh với bò đực Holstein sinh ra tại Israel được gọi là giống bò địa phương. Từ năm 1955, họ bắt đầu đánh giá năng suất sữa của giống bò đực qua đời. Ngày nay, giống bò địa phương không còn nữa, sau 60 năm phát triển giống bò sữa trong điều kiện nhiệt đới, Israel đã thành công trong việc tạo ra giống bò Holstein thích nghi với điều kiện nóng.
Ở Việt Nam, đã sử dụng bò đực hoặc tinh trùng của bò đực Holstein Friesian (viết tắt là HF hay bò Hà Lan, hay bò đen trắng) để lai giống với bò cái Sind tạo ra con lai đời 1 có 1/2 máu bò HF, gọi là F1 HF. Điểm nổi bật của con lai F1 HF này là năng suất sữa có thể đạt 2500-3000 kg/chu kỳ 300 ngày, sinh sản tốt, thích nghi rộng với nhiều vùng khí hậu nóng ẩm, dễ chăm sóc, yêu cầu kĩ thuật và quản lý thấp. Sau đó, một lần nữa sử dụng tinh trùng Hà Lan để lai với cái F1 HF để tạo ra con lai có 3/4 máu bò HF gọi là F2 HF, tuy nhiên, bò F2 chưa đáp ứng được kỳ vọng. Nhìn chung, Việt Nam đã tạo ra đàn bò lai 3 máu sản xuất sữa (bò Vàng Việt Nam, bò Red Sindhi và bò Holstein Friesian). Con lai F1 và F2 HF được nuôi rộng rãi ở các vùng nóng (Miền Đông Nam Bộ) và đóng góp đến 90% tổng sản lượng sữa trong nước. Hiện nay, sản xuất sữa không còn bị hạn chế vào đàn bò thuần HF số lượng nhỏ và chỉ có thể nuôi ở vùng cao nguyên.
Trên giống lợn
Trên khắp thế giới
Trên toàn cầu, việc sử dụng các dòng đực lai cuối cùng là phổ biến, với các tổ hợp đảm bảo ưu thế lai cao và giảm chi phí sản xuất con giống. Hiện nay, các dòng đực lai tổng hợp cuối cùng được áp dụng rộng rãi trên thế giới nhờ ưu thế lai cao và hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên, sự sử dụng của hệ thống lai thương mại có thể khác nhau tuỳ thuộc vào nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng ở từng quốc gia.
- Ở khu vực Bắc Mỹ, dòng đực P76 là một trong những dòng đực lai tổng hợp cuối cùng đầu tiên trên thế giới, được lai tạo bởi công ty Penarlan - Canada vào năm 1972. Đây là dòng đực tổng hợp đã được lai tạo và lựa chọn kỹ lưỡng trong nhiều năm dựa trên các gen Yorkshire và Duroc. Đặc điểm nổi bật của dòng đực lai này bao gồm tốc độ tăng trưởng nhanh, tỷ lệ thịt cao và diện tích thăn lớn, công ty Penarlan tiếp tục phát triển dòng đực lai tổng hợp mới có tên là Huron (Duroc x Yorkshire) cho thị trường Bắc Mỹ và Nhật Bản chủ yếu dựa trên tỷ lệ mỡ giòn cao
- Ở châu Âu, công ty đã phát triển một số dòng đực cuối cùng cho các hệ thống lai thương phẩm ở các quốc gia châu Âu dựa trên các giống thuần hoặc lai giữa các giống Large White, Landrace và Pietrain. Trong số đó, nổi bật là các dòng như TEMPO (LargeWhite thuần), TYPOR (lai giữa Pietrain và LargeWhite) và TOP PIE (Pietrain thuần). Dòng đực TEMPO (LargeWhite thuần) cho con có tính đồng nhất cao, lợn con khỏe mạnh, số lượng con cai sữa tăng, sức đề kháng bệnh cao và chất lượng thịt cao. Dòng TYPOR có tốc độ sinh trưởng nhanh, tỷ lệ thịt xẻ cao, cơ bắp phát triển mạnh mẽ và chi phí về thức ăn thấp
thấp. Trong khi đó, dòng TOP PIE đáp ứng các yêu cầu về chất lượng thịt cao, thịt xẻ và cơ bắp nhiều, chất lượng thịt cực cao, tiêu tốn thức ăn thấp. Công ty Rattlerow Seghers Holding (Bỉ) đã chọn tạo dòng đực Pietrain trắng (khoảng 90% máu Pietrain và 10% máu LargeWhite) từ năm 1989 và đã sử dụng chúng như dòng đực cuối cùng trong hệ thống lai thương phẩm.
Ở Việt Nam, xu hướng nuôi giống heo ngoại đang thay thế các giống heo nội, đặc biệt là ở các trại chăn nuôi lớn với công nghệ hiện đại.
Lợn lai giữa giống heo nội và heo ngoại đang trở thành xu hướng phổ biến trong sản xuất lợn thịt, mang lại sản phẩm đồng đều và chất lượng cao.
Sản xuất lợn thịt lai 3 hoặc 4 giống đang ngày càng phát triển toàn cầu, khai thác tối đa ưu thế lai về sinh sản và sinh trưởng.
Lợn thịt lai từ giống mẹ Landrace và Yorkshire với bố là Duroc đạt tiêu chuẩn cao về tốc độ tăng trưởng và chất lượng thịt.
Ứng dụng mô hình nuôi lợn nái VCN21, VCN22 với công nghệ tiên tiến giúp nâng cao năng suất và chất lượng thịt, đáp ứng nhu cầu thị trường hiện nay.
Hai dòng lợn nái này được lai tạo từ các giống lợn ngoại như Yorkshire, Landrace, Meishan, Duroc, Pietrain nên chúng mang máu lợn ngoại toàn diện. Về ngoại hình, chúng có hình dạng hướng nạc-mỡ, thân thể vừa phải, trán rộng, tai to mỏng, lông màu trắng, thể chất khỏe mạnh và thích nghi tốt với khí hậu Việt Nam. Đàn lợn thương phẩm sinh ra tiêu thụ ít thức ăn (dưới 2,5 kg), tăng trọng nhanh (trên 750g/ngày), kháng bệnh tốt, nạc cao (trên 60%), mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi.
Dòng VCN22 có nguồn gen từ dòng mẹ L95 (Meishan tổng hợp) nên có tuổi phối giống và tuổi đẻ lứa đầu sớm hơn so với dòng VCN21 mang gen từ dòng mẹ L06 (Landrace). Năng suất sinh sản của hai dòng lợn nái VCN21, VCN22 ở lứa 1 cho thấy VCN22 sinh con nhiều hơn VCN21. Mức tiêu thụ thức ăn của VCN21 giảm hơn VCN22.
Đánh giá về sinh trưởng của lợn thương phẩm từ VCN21, VCN22 phối với đực Pi4 cho kết quả khả quan. VCN21 đạt khối lượng 99,4 kg sau 166 ngày, tăng trọng 765,15g/ngày. VCN22 đạt khối lượng 94,37 kg sau 164 ngày, tăng trọng 728,35g/ngày. Lợn VCN21 có khả năng sinh trưởng cao hơn VCN22.
Trên giống gà
Sử dụng gà chọi phối với gà mái TP1 để tạo giống lai chọi có khả năng phát triển tốt, chất lượng thịt đáp ứng nhu cầu thị trường, hiệu quả kinh tế cao. Gà TP thích hợp với khí hậu Việt Nam, tiêu thụ thức ăn ít, đẻ đều, năng suất cao và phù hợp với các hộ nông dân nuôi trang trại và gia đình.
Các giống gà lông màu hiện nay tại Việt Nam bao gồm TP1, TP2, TP3, TP4 cho thịt và HA1, HA2 cho trứng.
- Gà trống TP4: Lông màu nâu, mào đỏ, chân vàng. Ở tuổi 56 ngày, gà đạt 2,2-2,3 kg. Gà trống TP4 đạt 2,2 - 3,1 kg/con sau 20 tuần, năng suất trứng 160-165 quả/năm.
- Gà mái TP1: Lông màu vàng nhạt xám, năng suất trứng 175-178 quả/mái/năm. Gà mái TP1 đạt 2,2 - 2,9 kg/con sau 20 tuần, năng suất trứng 177-180 quả/năm.
- Gà mái TP2: Lông màu vàng xám, năng suất trứng 170-172 quả/mái/năm.
- Gà mái TP3: Lông màu nâu xám, năng suất trứng 179-183 quả/mái/năm.
Cả bốn dòng gà thịt đã ổn định về kiểu dáng. Tỷ lệ sống: Gà con từ 0 - 8 tuần đạt 96,04-97,65%, gà dò hậu bị đạt 95,38-96,32% cho trống và 97,21-97,86% cho mái. Công thức lai nuôi thương phẩm 2 máu TP43, TP42, TP41; gà thương phẩm 3 máu TP412, TP421 đem lại hiệu quả sản xuất.
Lai giữa TP4 x TP3, TP4 x TP1 và TP4 x TP2 tạo ra gà thương phẩm: Lông màu vàng, nâu vàng có vằn đen, chân, mỏ, da vàng. Đặc tính ngoại hình: gà lai thương phẩm có lông màu vàng, nâu đốm đen, mào đơn, chân, mỏ, da vàng. Tỷ lệ nuôi sống của gà lai ở 9 tuần tuổi đạt 98%.
Khả năng sinh trưởng của gà lai 3 máu TP412 đạt 2.420,33g và TP421 đạt 2.438,67g, cao hơn so với gà TP4 (2.453,33g) và gà TP12, TP21, ưu thế lai về khối lượng cơ thể so với trung bình bố mẹ lên đến 4,08%. Tiêu tốn thức ăn: Đến 9 tuần tuổi, gà lai TP412 tiêu tốn 2,38 kg thức ăn/kg tăng khối lượng cơ thể, gà lai TP421 tiêu tốn 2,37 kg, thấp hơn gà TP12, TP21, ưu thế lai so với trung bình bố mẹ là -2,47%.
Gà lông màu TP rất được ưa chuộng vì trứng dễ tiêu thụ, gà phát triển khỏe mạnh, dễ chăm sóc và có tỷ lệ đẻ trứng cao. Gà nuôi tập trung sử dụng khẩu phần thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh, tiêu tốn thức ăn khoảng 2,6 kg/10 trứng.
Gà lông màu TP thương phẩm có khối lượng cơ thể ở 9 tuần tuổi đạt 2,3 kg. Gà TP4 và TP1 là những dòng gà mới với nhiều ưu điểm: kháng bệnh tốt, thích nghi với nhiều vùng sinh thái, chịu nóng tốt và có thịt thơm ngon.
- Chú thích