Tên đầy đủ | Valencia Club de Fútbol, S.A.D. |
---|---|
Biệt danh | Los Ches (Những người bạn) Els Taronges (Những quả cam) Murciélago (Bầy dơi) |
Tên ngắn gọn | VCF, VAL |
Thành lập | 18 tháng 3 năm 1919; 105 năm trước với tên Valencia Foot-ball Club |
Sân | Mestalla |
Sức chứa | 49.430 |
Chủ sở hữu | Peter Lim |
Chủ tịch | Layhoon Chan |
Huấn luyện viên trưởng | Rubén Baraja |
Giải đấu | La Liga |
2022–23 | La Liga, thứ 16 trên 20 |
Trang web | Trang web của câu lạc bộ |
Valencia Club de Fútbol (tiếng Tây Ban Nha: [baˈlenθja ˈkluβ ðe ˈfuðβol], tiếng Valencia: València Club de Futbol [vaˈlensia ˈklub de fubˈbɔl]), thường được gọi là Valencia CF hoặc đơn giản là Valencia, là một câu lạc bộ bóng đá tại Valencia. Họ thi đấu ở La Liga. Valencia đã giành 6 chức vô địch La Liga, 8 Cúp Nhà vua và 2 Siêu cúp Tây Ban Nha. Tại châu Âu, họ có 2 danh hiệu Inter-Cities Fairs Cup, 1 Cúp UEFA, 1 UEFA Cup Winners' Cup, 2 Siêu cúp châu Âu và 1 UEFA Intertoto Cup. Họ cũng vào 2 trận chung kết UEFA Champions League liên tiếp, thua Real Madrid năm 2000 và Bayern Munich năm 2001.
Valencia được thành lập năm 1919 và chơi trên sân nhà Mestalla với 49.500 chỗ ngồi từ năm 1923.
Lịch sử
Câu lạc bộ ra đời năm 1919 với chủ tịch đầu tiên là Octavio Augusto Milego Díaz, được chọn qua việc tung đồng xu. Trận đấu chính thức đầu tiên của họ diễn ra vào ngày 21 tháng 3 năm 1919, thua Valencia Gimnástico với tỉ số 0-1.
Valencia CF chuyển đến sân vận động Mestalla vào năm 1923, trước đó chơi tại khu đất Algirós. Trận đấu đầu tiên tại Mestalla gặp Castellón Castalia kết thúc với tỷ số hòa 0-0. Trong trận đấu lại vào ngày hôm sau, Valencia thắng 1-0. Năm 1923, Valencia CF vô địch vùng và lần đầu tiên tham dự cúp Nhà vua.
Thành công đầu tiên
Nội chiến Tây Ban Nha (1936-1939) đã làm gián đoạn bước tiến của Valencia. Đến năm 1941, họ mới giành danh hiệu đầu tiên là cúp Nhà vua sau khi thắng RCD Espanyol. Mùa giải 1941-1942, Valencia CF lần đầu vô địch Tây Ban Nha. Mặc dù cúp Nhà vua danh giá hơn La Liga thời đó, câu lạc bộ vẫn giữ phong độ và vô địch La Liga các mùa 1943-1944 và 1946-1947.
Thập niên 50, Valencia không đạt được các danh hiệu lớn như thập niên trước dù câu lạc bộ vẫn phát triển. Việc cơ cấu lại dẫn đến mở rộng sân Mestalla lên 45.000 chỗ. Đội hình gồm nhiều ngôi sao Tây Ban Nha và quốc tế như Antonio Puchades và Faas Wilkes. Mùa giải 1952-1953, Valencia về nhì tại La Liga và mùa sau đó thắng Cúp Nhà vua.
Thành công ở châu Âu
Vào những năm đầu thập niên 60, trong khi thành tích trong nước của Valencia CF không nổi bật, họ đã đoạt được cúp UEFA. Mùa giải 1961-1962, Valencia hạ gục FC Barcelona trong trận chung kết với tổng tỉ số 7-3 sau 2 lượt trận. Mùa giải tiếp theo 1962-1963, họ tiếp tục đánh bại Dinamo Zagreb của Croatia với tổng tỉ số 4-1. Valencia lần thứ 3 liên tiếp vào chung kết cúp C2 mùa giải 1963-1964, nhưng lần này họ thua Real Zaragoza 1-2.
Cựu cầu thủ hai lần giành quả bóng vàng châu Âu Alfredo Di Stéfano được mời làm
huấn luyện viên trưởng của Valencia vào năm 1970. Ngay lập tức, ông mang về chức vô địch Tây Ban Nha lần thứ 4 cho câu lạc bộ. Danh hiệu này giúp Valencia lần đầu tham dự cúp C1, giải đấu dành cho các nhà vô địch quốc gia châu Âu. Mùa giải 1971-1972, Valencia vào đến vòng 3 trước khi thua đội vô địch Hungary, Újpest TE. Những cầu thủ nổi bật thập niên 70 gồm tiền vệ Áo Kurt Jara, tiền đạo Hà Lan Johnny Rep và đặc biệt là tiền đạo Mario Kempes, người giành vua phá lưới La Liga hai mùa liên tiếp 1976-1977 và 1977-1978. Valencia lại đoạt cúp nhà vua mùa giải 1978-1979. Mùa giải sau, họ đoạt cúp C2 đầu tiên khi đánh bại Arsenal FC trong trận chung kết, Kempes là người góp công lớn.
Thăng hạng và xuống hạng
Năm 1982, Miljan Miljanic được chỉ định làm huấn luyện viên trưởng. Sau một mùa giải thất vọng, Valencia đứng thứ 17 và có nguy cơ xuống hạng khi còn 7 vòng đấu. Koldo Aguirre thay thế Miljanic và Valencia may mắn trụ hạng với vừa đủ điểm. Hai mùa giải 1983-1984 và 1984-1985, câu lạc bộ lâm vào cảnh nợ nần. Cuối cùng, Valencia xếp cuối bảng và xuống hạng mùa giải 1985-1986. Đội bóng tan rã vì vấn đề nội bộ, không trả đủ lương và tinh thần rệu rã. Valencia xuống hạng lần đầu sau 55 năm ở giải đấu hàng đầu Tây Ban Nha.
Arturo Tuzón đã trở thành tân chủ tịch của câu lạc bộ, giúp Valencia CF trở lại La Liga. Alfredo Di Stéfano trở lại làm huấn luyện viên vào năm 1986, và trong mùa giải đó, Valencia giành quyền lên hạng. Di Stéfano giữ chức huấn luyện viên đến mùa giải 1987-1988, khi Valencia kết thúc ở vị trí thứ 14 tại La Liga. Tiền đạo người Bulgari Luboslav Penev gia nhập câu lạc bộ vào năm 1989, với tham vọng giúp câu lạc bộ đứng vững ở La Liga. Guus Hiddink được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng vào mùa giải 1991-1992, và câu lạc bộ kết thúc ở vị trí thứ 4, đồng thời vào tứ kết cúp nhà vua. Năm 1992, Valencia CF trở thành công ty cổ phần thể thao và Hiddink giữ vai trò huấn luyện viên đến năm 1993.
Huấn luyện viên Brazil Carlos Alberto Parreira, sau khi vô địch World Cup 1994 với đội tuyển Brasil, trở thành huấn luyện viên của Valencia năm 1994. Parreira nhanh chóng ký hợp đồng với thủ môn đội tuyển Tây Ban Nha Adoni Zubizarreta và tiền đạo Nga Oleg Salenko, cùng với Predrag Mijatovic. Nhưng kết quả không tốt của câu lạc bộ dẫn đến việc Parreira bị thay thế bởi huấn luyện viên José Manuel Rielo. Dù được dẫn dắt bởi các huấn luyện viên hàng đầu như Luis Aragonés hay Jorge Valdano, cùng với các ngôi sao quốc tế như Romário, Claudio López và Ariel Ortega, thành công vẫn lảng tránh câu lạc bộ.
Trở lại đấu trường châu Âu
Huấn luyện viên Italia Claudio Ranieri đã kết thúc 19 năm khát danh hiệu của câu lạc bộ bằng chiến thắng ở cúp Nhà vua năm 1999. Sau đó, ông được thay thế bởi Héctor Cúper, người ngay lập tức giúp Valencia vào chung kết cúp C1 lần đầu tiên mùa giải 1999-2000, nhưng thua Real Madrid CF 0-3. Mùa giải sau, Valencia tiếp tục vào chung kết cúp C1 lần thứ hai liên tiếp, nhưng lại thua Bayern Munich sau loạt sút penalty may rủi.
Héctor Cúper rời câu lạc bộ năm 2001 và Rafael Benítez lên làm huấn luyện viên trưởng. Trong mùa giải đầu tiên 2001-2002, Benítez đã dẫn dắt Valencia vô địch La Liga lần đầu tiên sau 31 năm. Hai mùa giải sau, Benítez giúp câu lạc bộ đoạt cú đúp khi vô địch La Liga lần thứ 2 trong 3 năm và giành cúp UEFA thứ 3 trong lịch sử câu lạc bộ.
Danh sách các đời chủ tịch
- 1919-1922: Jorge
- 1922: Francisco Vidal Muñoz
- 1922-1924: Ramón Leonarte Ribera
- 1924-1925: Pablo Verdeguer Comes
- 1925-1929: Facundo Pascual Quilis
- 1929-1932: Juan Giménez Cánovas
- 1932-1933: Manuel García del Moral
- 1933-1935: Adolfo Royo Soriano
- 1935-1936: Francisco Almenar Quinzá
- 1939-1940: Alfredo Giménez Buesa
- 1940-1959: Luis Casanova Giner
- 1959-1961: Vicente Iborra Gil
- 1961-1973: Julio de Miguel y Martínez de Bujanda
- 1973-1975: Francisco Ros Casares
- 1976-1983: José Ramos Costa
- 1983-1986: Vicente Tormo Alfonso
- 1986-1993: Arturo Tuzón Gil
- 1993-1994: Melchor Hoyos Pérez
- 1994-1997: Francisco Roig Alfonso
- 1997-2001: Pedro Cortés García
- 2001-2004: Jaime Ortí Ruiz
- 2004-2007: Juan Bautista Soler
- 2007-2008: Agustin Moreira
- 2008: Juan Villalonga
- 2009-nay: Manuel Llorente
Các thành tích đạt được
Danh hiệu La Liga6 lần- 1942, 1944, 1947, 1971, 2002, 2004
- 1941, 1949, 1954, 1967, 1979, 1999, 2008, 2019
- 1949, 1999
- Á quân: 2000, 2001
- 1980
- 1962, 1963, 2004
- 1980, 2004
- 1998
Cầu thủ bóng đá
Danh sách đội hình hiện tại
- Thông tin tính đến ngày 31/1/2024
Chú thích: Quốc kỳ chỉ định cho các đội tuyển quốc gia theo quy định của FIFA. Các cầu thủ có thể mang nhiều quốc tịch ngoài quy định của FIFA.
|
|
Đội dự phòng
Chú thích: Quốc kỳ được chỉ định cho các đội tuyển quốc gia theo quy định của FIFA. Các cầu thủ có thể có nhiều quốc tịch ngoài quy định của FIFA.
|
|
Cho mượn tạm thời
Chú ý: Quốc kỳ chỉ áp dụng cho đội tuyển quốc gia theo quy định của FIFA. Các cầu thủ có thể sở hữu nhiều quốc tịch ngoài FIFA.
|
Nhóm huấn luyện
Đội ngũ kỹ thuật hiện tại | |||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Chức vụ | Nhân viên | ||||||||||||||||
Giám đốc kỹ thuật | Miguel Ángel Corona | ||||||||||||||||
HLV trưởng | Rubén Baraja | ||||||||||||||||
Trợ lý HLV trưởng | Toni Seligrat | ||||||||||||||||
HLV kỹ thuật | Carlos Marchena | ||||||||||||||||
Nhà phân tích hiệu suất | Fran Lapiedra | ||||||||||||||||
Huấn luyện viên thủ môn | José Manuel Ochotorena | ||||||||||||||||
Nhà vật lý trị liệu | Carlos Horacio González González José Luis Estellés Mario Jarque Álex Castillo Pascual Castell | ||||||||||||||||
Physical readapter | Jordi Sorlí | ||||||||||||||||
Nhà phân tích tuyển dụng | Juan Monar | ||||||||||||||||
Trưởng dịch vụ y tế | Pedro López Mateu | ||||||||||||||||
Bác sĩ câu lạc bộ | Pascual Casany Juan Aliaga Antonio Maestro | ||||||||||||||||
Đại diện | Paco Camarasa |
Cập nhật gần nhất: tháng 2/2023
Nguồn: Valencia CF
Liên kết bên ngoài
- Trang web chính thức
Bóng đá Tây Ban Nha |
---|
Giải bóng đá vô địch quốc gia Tây Ban Nha |
---|