Mytour giới thiệu mẫu văn lớp 12: Biểu tượng quốc gia trong thơ Việt Bắc và Đất Nước đã được chúng tôi tìm kiếm và đăng tải tại đây.
Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điềm đều là nhà thơ chiến sĩ, hai bài thơ Việt Bắc và Đất nước đều miêu tả một quốc gia Việt Nam vĩ đại. Dưới đây là các ý chính và mẫu văn lớp 12: Biểu tượng quốc gia trong thơ Việt Bắc và Đất Nước, kính mời quý vị cùng tham khảo và tải về tại đây.

Các ý chính chi tiết về biểu tượng quốc gia trong Việt Bắc và Đất Nước
I. Khai mạc:
'Việt Nam ơi! Ta yêu ngươi'. Đó không chỉ là từ của một bài hát, mà còn là tiếng lòng của hàng triệu con tim Việt Nam đầy yêu thương quê hương. Với tình yêu quê hương chân thành, thiêng liêng, sâu sắc ấy, qua những nét vẽ bằng bút, qua các phong cách nghệ thuật khác nhau, các nhà thơ - những chiến sĩ đã tạo nên những hình ảnh chung và những gam màu đa dạng và hấp dẫn về Tổ quốc. Qua bài thơ 'Đất nước' (trong tập 'Mặt đường khát vọng' của Nguyễn Khoa Điềm) và 'Việt Bắc' của Tố Hữu, ta cũng có thể thấy điều đó rõ ràng.
II. Nội dung chính:
B. Điểm tương đồng
1. Đầu tiên là cảm hứng về tư thế Độc lập - Tự do của một Việt Nam mới, tư thế của những người con tự hào là chủ nhân của đất nước mình.
- Trên chiến trường kháng chiến, nhìn thấy tinh thần của toàn dân ra trận, giọng thơ của Tố Hữu rộn ràng, tự hào thốt lên:
' Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Mỗi đêm reo vang như là lòng đất rung'
- Và giữa những ngày đấu tranh với Mỹ và chiến thắng lừng lẫy, Nguyễn Khoa Điềm cũng tiếp tục khẳng định sứ mệnh đó bằng những cảm xúc tràn đầy niềm tin:
'Đất nước này thuộc về nhân dân
Đất nước của nhân dân, Đất nước của câu chuyện dân gian và thần thoại'
2. Sự cảm hứng về Đất nước của nhân dân, nơi mà nhân dân làm nên Đất nước, là một trong những nguồn cảm hứng nổi bật được thể hiện trong hai bài thơ này cụ thể, và trong thơ ca hiện đại nói chung.
- Đối với Tố Hữu, đó là những 'Em gái hái măng' những 'người đan nón chuốt từng sợi giăng....' là 'những bà mẹ nắng cháy lưng, địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô', rộng hơn nữa là những 'dân công đỏ đuốc từng đoàn', những binh đoàn bộ đội 'Quân đi điệp trùng trùng' tiếp bước ra trận để quyết làm nên “ Một Điện Biên lừng lẫy địa cầu'
- Đối với Nguyễn Khoa Điềm, đó là những con người bình dị vô danh 'Có biết bao người con gái, con trai; Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi; Họ sống và chết; giản dị và bình tâm; Không ai nhớ mặt đặt tên...' .Chính những con người ấy là nhân dân vô tận đã tạo dựng và gìn giữ đất nước trải qua mọi thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm, mà còn là người sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ nối tiếp nhau:
' Họ giữ và truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng
...Họ gánh tên làng tên xã trong mỗi chuyến di dân'
3. Sự tham gia của toàn dân ta vào cuộc chiến ngày nay đã sử dụng triệt để sức mạnh của quá khứ: '40 thế kỷ cũng ra trận'. Vì vậy, khuynh hướng suy ngẫm về quá khứ, tự hào về truyền thống bất khuất, anh hùng cũng là một nguồn cảm hứng được thể hiện rõ ràng trong hai bài thơ này.
- Trên con đường 'Ta đi tới' bước tiếp con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước, Tố Hữu đã cùng đồng bào Việt Bắc nhắc nhở nhau bằng những lời tri ân thiết tha'
'Mười lăm năm đó ai có quên
Quê hương Cách mạng xây dựng nên Cộng hoà'
'...Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn'
Trong chương 'Đất nước', Nguyễn Khoa Điềm cũng đã viết:
'Hàng năm ăn uống ở đâu làm việc ở đâu
Cũng biết cúi đầu kính nhớ ngày giỗ Tổ'
4. Thông qua tấm lòng yêu thương mãnh liệt và niềm tự hào rực rỡ của các nhà thơ cách mạng, hình ảnh đất nước hiện ra trong ánh nắng vàng rực rỡ của lịch sử, với vẻ đẹp vừa hùng vĩ, vừa phong phú, in sâu dấu ấn của một dân tộc có một nền văn minh trải qua 4.000 năm lịch sử.
Đối với Tố Hữu, đó là: 'Rừng xanh hoa chuối đỏ rực', 'Ngày xuân tỏa sắc trắng rừng', 'Ve kêu trong rừng lá vàng rơi', 'Rừng thu với trăng rơi bình yên'... còn trong lời thơ của Nguyễn Khoa Điềm, đó là 'Núi Vọng Phu', 'Hòn Trống Mái', 'Núi Non Nghiêm' là những phong cảnh của Hạ Long, Cửu Long, Đất Tổ Hùng Vương...
5. Cảm hứng lãng mạn, hướng tới chiến thắng và tương lai rạng ngời cũng là một nguồn cảm hứng nổi bật được thể hiện khá rõ nét trong cả hai bài thơ.
Trong khoảnh khắc chia ly 'Nghẹn ngào trong lòng, rối bời bước đi', Tố Hữu đã cảm nhận được những bước đi của Đất nước hướng về một tương lai tươi sáng với không khí hân hoan...:
' Nghìn đêm sương dày trùm phủ
Đèn pha soi sáng như bình minh sắp đến
- Ngày mai sẽ rực rỡ với những thảo nguyên mênh mông
Tàu đi qua đèo, mạng lưới rải ra bốn phương'
Trong chương 'Đất nước', Nguyễn Khoa Điềm cũng đã viết những câu thơ lãng mạn, bay bổng, đầy cảm hứng:
'Ngày mai con chúng ta lớn lên
Con sẽ mang Tổ quốc đi xa
Đến những ngày mơ mộng'
B. Những điểm khác biệt đặc sắc của mỗi nhà thơ
Bởi sự đa dạng về phong cách, cá tính sáng tạo, các nhà thơ đã khám phá và tìm tòi riêng của họ, tạo nên vẻ đẹp phong phú và đa dạng cho đất nước, tươi đẹp và cuốn hút.
1. 'Việt Bắc' của Tố Hữu hoàn thành vào tháng 10 - 1954, khi trung ương Đảng và Chính phủ rời bỏ 'Thủ đô gió ngàn' về 'Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình'. Bài thơ này trở thành một kỷ niệm sâu sắc về thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng cũng rất hào hùng và vui tươi. Bằng lối thơ lục bát ngọt ngào, qua cuộc đối thoại tưởng tượng giữa người ở và người đi như một cách tiễn biệt trìu mến và lưu luyến, thông qua cách xưng hô Mình - Ta thể hiện sự gắn bó mạnh mẽ và tình đoàn kết sâu sắc, bài thơ 'Việt Bắc' tái hiện một cách sống động hình ảnh của Tổ quốc trong những ngày kháng chiến ở khu vực Việt Bắc, với con người và thiên nhiên hùng vĩ và rực rỡ mà cùng với con người đã tạo ra bản hòa nhạc 'Điện Biên lừng lẫy toàn cầu'. Bản chất chính của bài thơ là sự chân thành và sâu sắc của tình cảm dân tộc, đầy màu sắc và vô cùng giàu có. Qua đó, cảnh vật và con người kháng chiến hiện ra lấp lánh, tươi sáng và đầy ý nghĩa yêu thương:
'Rừng xanh hoa chuối đỏ rực rỡ
... Nhớ về tiếng hát trung thành và tình yêu vĩnh cửu'
2. 'Đất Nước' của Nguyễn Khoa Điềm là một phần trong bản Trường ca 'Mặt đường khát vọng' (9 phần) rực rỡ nhiệt huyết của tuổi trẻ, sinh viên đối diện với vận mệnh khó khăn của Tổ quốc, xuất bản lần đầu vào năm 1974 là một trong những đoạn thơ nổi tiếng về đề tài đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Sử dụng văn hóa dân gian phong phú cùng với những hình ảnh hàng ngày như 'miếng trầu', 'hạt gạo', 'hòn than', 'cái kèo, cái cột'..., kết hợp với lối tư duy bình luận hiện đại giàu trí tuệ, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một tư tưởng mới mẻ: 'Đất nước của Nhân dân, của truyền thống ca dao'. Tác giả đã mô tả hình ảnh Tổ quốc qua các phương diện không gian địa lý, chiều dài lịch sử và tâm hồn cốt cách dân tộc. Do đó, Đất nước được biểu hiện thông qua những điều bình dị, đơn giản hàng ngày: 'gừng cay muối mặn', 'nơi tắm', 'nơi hẹn hò', đến những vẻ vĩ vĩnh hằng: rừng biển bao la 'Đất là nơi chim bay về', 'Nước là nơi Rồng trú ngụ'. Từ đó, ông đã khám phá ra những ý tưởng sâu sắc và độc đáo:
'Và khắp nơi trên ruộng đồng, đồi núi
Không mang hình dáng, ước mơ, cách sống của ông bà ta...'
Và
'Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm, ở mọi nơi ta cũng thấy
Những cuộc sống đã hòa mình vào núi sông ta...'
II. Kết luận:
Những điểm chung và khác biệt như đã phân tích ở trên làm cho hình tượng Đất Nước trong thơ trở nên phong phú và đa dạng hơn. Hai tác giả đã đóng góp hai bông hoa tươi sáng trong vườn thơ dân tộc. Ngày nay, khi được thưởng thức hai bông hoa ấy, chúng ta không chỉ tự hào về quá khứ hào hùng của Đất Nước, mà còn yêu mến Đất Nước này hơn, để góp phần nhỏ bé của mình làm cho Đất Nước ta mãi mãi là: 'Đất Nước của Nhân dân, của truyền thống ca dao'
Hình tượng của Đất Nước trong thơ
Đất Nước là một đề tài quen thuộc trong văn chương. Tuy nhiên, không vì thế mà nó trở nên đơn điệu và nhàm chán. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi hoàn cảnh khác nhau, cũng như mỗi phong cách của một tác giả lại có cách thể hiện khác nhau về Đất Nước. Để làm phong phú thêm cho mảng đề tài này, chúng ta không thể không nhắc đến 'Việt Bắc' của Tố Hữu và trích đoạn từ 'Đất Nước' trong trường ca 'Mặt đường khát vọng' của Nguyễn Khoa Điềm
Trong bài thơ của mình, Nguyễn Khoa Điềm mở đầu với câu: 'Khi ta lớn lên, Đất Nước đã ở đây từ lâu'. Chúng ta không biết Đất Nước đã tồn tại từ khi nào, nhưng qua văn chương cổ, ta thấy hình ảnh Đất Nước từ những cảnh thiên nhiên tươi đẹp:
Gió thổi lá trúc lay động
Âm thanh của chuông Trấn Vũ, tiếng gà gáy ở Thọ Xương
Sương mù mơ hồ phủ khắp nơi
Âm thanh của cày ở Yên Thái, bức tượng của Tây Hồ
(Ca dao)
Hoặc một chợ quê yên bình
Linh hoạt chợ cá làng ngư phủ
Giỏi cầm ve dưới nắng hồng
(Nguyễn Trãi)
Nhưng khi đối mặt với giặc ngoại xâm, đất nước không chỉ chịu đựng trong đau thương mà còn bùng cháy trong lòng căm hận: “Ngẫm thù lớn có phải đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống”. Và từ lòng căm hờn ấy, những trận đánh vang dội:
Trận Bồ Đằng vang tiếng sấm chớp
Miền Trà Lân trúc chẻ nghiêng bay
(Nguyễn Trãi)
Đất nước mãi mãi là nguồn tự hào của con cháu dân tộc Việt
Từ Triệu, Dinh, Lý, Trần, bao thế hệ khẳng định Độc lập
Cùng với triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên, một phương hướng
Dù mạnh yếu khác biệt tại các thời kỳ
Nhưng hào kiệt mọi đời vẫn hiện hữu
(Nguyễn Trãi)
Hòa mình trong dòng chảy văn học dân tộc, Tố Hữu và Nguyễn Khoa Điểm đều thấy Đất Nước của mình hiện ra với vẻ đẹp tươi mới. Mặc cho những biến cố đau thương, Đất Nước cũng tỏa sáng với lòng anh hùng và tình đoàn kết.
Nếu Tố Hữu thể hiện cảm xúc về đất nước qua cảnh sắc thiên nhiên ở Việt Bắc:
Rừng xanh hoa chuối đỏ rực
Đèo cao nắng chiếu vừa đủ
Ngày xuân trắng mơ rừng nở
Nhớ người đan nón, sợi sương giăng
Ve kêu, rừng vàng phách đổ
Nhớ em gái hái măng cô đơn
Rừng thu, trăng rọi hòa bình
Nhớ tiếng hát ân tình thủy chung
Thiên nhiên ở Việt Bắc như một sinh vật sống, luôn thay đổi từng khoảnh khắc (mùa đông, xuân, hạ, thu, ban ngày, ban đêm), và con người làm nền cho vẻ đẹp ấy. Họ là những người bản xứ, làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống, và bằng cách đó, họ làm cho thiên nhiên thêm rực rỡ.
Trong khi đó, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận Đất Nước như một bức tranh bao la của núi sông rừng:
Đất nước là nơi “chim phượng hoàng về tổ trên núi bạc”
Nước là nơi “cá ngư ông móng biển khơi”
Đất nước là những danh lam thắng cảnh tươi đẹp đầy kỳ thú như Núi Bút Non Nghiêm, Hòn Trống Mái, Núi Vọng Phu, Vịnh Hạ Long, Sông Cửu Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… vượt qua sự mô tả bình thường. Trong đó, không chỉ là việc ngắm nhìn những cảnh đẹp của thiên nhiên mà còn là việc nhìn thấy tình đoàn kết của con người làm nên diện mạo của đất nước
Và khắp nơi trên ruộng đồng, gò bãi
Không có hình dáng, không có ước mơ của ông cha
Ôi đất nước ơi, chúng ta thấy nó
Những cuộc sống đã trở thành núi sông của chúng ta
Khi giặc ngoại xâm xâm nhập, đất nước phải trải qua những thời kỳ đau thương.
Ở Việt Bắc, Tố Hữu không nói nhiều về nỗi đau mất mát. Bởi bài thơ không chỉ là bài ca về tình thương mà còn là bài ca về chiến thắng trong lịch sử. Nhưng quê hương cách mạng trong những ngày khó khăn ấy hiện ra với những gian khó: “Miếng cơm muối chấm mối thù nặng nề”; “Thương nhau chia sẻ cơm, bát cơm chia nửa để chia sẻ”; và qua hình ảnh “mẹ với nắng cháy lưng – đưa con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”…
Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận rằng nỗi đau đó không chỉ xảy ra trong một thời kỳ cụ thể mà kéo dài suốt 4000 năm:
Mọi thời kỳ, từng người từng lớp
Con trai con gái đều chung sống
Mỗi ngày mệt mỏi với công việc
Khi có giặc, con trai ra trận
Con gái ở nhà chăm sóc con cái
Khi giặc đến, phụ nữ cũng đấu tranh
Trong lịch sử kháng chiến xây dựng đất nước, người Việt Nam có kỷ nguyên nào không phải đối mặt với giặc ngoại xâm, có thế hệ nào không phải chịu nỗi đau của chiến tranh: cha mất, vợ mất chồng; những người phụ nữ, người mẹ cô đơn nuôi con, hy sinh chờ đợi người thân trở về.
Đối diện với thách thức mà kẻ thù gây ra cho dân tộc, trước tình hình sinh tồn của đất nước, Tố Hữu cảm nhận rằng cả đất trời đều đoàn kết nhau để đánh giặc
Nhớ những khi giặc xâm lược
Chúng ta cùng chiến đấu trên rừng núi
Núi dựng hàng rào sắt đặc
Rừng che chở quân, bao vây địch
Bốn phía mênh mông sương mù
Đất trời hợp lực đánh chiến trường một lòng
Tận dụng biện pháp nhân cách hóa, kết hợp với các động từ mạnh, các từ chỉ không gian rộng lớn, Tố Hữu đã làm nổi bật sức mạnh vô cùng mạnh mẽ của trời đất trước kẻ thù.
Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận sự căm thù, sức mạnh tự hào của dân tộc thông qua 'bốn nghìn lớp người giống ta', 'Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng cùng chiến đấu'.
Khi có kẻ xâm lược, ta đều chống lại
Khi có mâu thuẫn bên trong, ta cùng nhau đánh bại
Dù là câu thơ giản dị nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã làm nổi bật sức mạnh chiến thắng tuyệt đối của chúng ta. Từ thực tế đó, Tố Hữu đã nhìn thấy sức mạnh của Đất nước qua các con đường ra trận:
Những con đường của Việt Bắc của chúng ta
Mỗi đêm rộn ràng như lòng đất rung chuyển
Quân đi tiến hành, đội quân đông đảo
Ánh sao sáng trước, bạn đồng đội cùng chiến đấu
Ngọn đèn đỏ rực từng đoàn công nhân
Bước chân vượt qua đống đá vụn, lửa tung bay
Nghìn đêm tối om sương mù
Đèn pha chiếu sáng như bình minh sáng mai
Một chuỗi những từ trích dẫn kết hợp với kỹ thuật phép so sánh mạnh mẽ, hình ảnh thơ pha trộn giữa hiện thực và lãng mạn, Tố Hữu không chỉ khơi gợi ra những hình ảnh sâu sắc, hùng vĩ, thể hiện sức mạnh của cuộc chiến đấu mà còn làm cho bức tranh về quê hương trong thời kỳ chiến tranh trở nên rực rỡ và truyền cảm
Qua việc nghiên cứu lịch sử, trong tác phẩm “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm cũng nhận thấy sức mạnh của cộng đồng dân tộc trong “bốn nghìn thế hệ như chúng ta”
Họ tồn tại và hy sinh
Một cách giản dị và bình thản
Không ai biết danh tính
Nhưng họ đã tạo ra quê hương này
Đó là dòng chảy ngầm của truyền thống, là ý chí của dòng họ, từ quá khứ truyền đến hiện tại và tương lai, tạo nên sức mạnh của bốn nghìn năm lịch sử mà không kẻ thù nào có thể đánh bại được
Khi nhắc đến Đất Nước, ta đang nói về nhân dân, những người đã dốc hết máu, mồ hôi và nước mắt để góp phần tạo nên lịch sử và quê hương
Trong dòng cảm hứng đó, Tố Hữu nhận ra những người đã góp phần xây dựng “Quê hương Cách mạng”, tạo nên Cộng hòa, đó là những người mẹ mang con ra rẫy, những người đan nón, những người lên rừng “bước chân vững vàng dưới ánh nắng chói chang”, và cả những cô gái hái măng một mình. Họ là những con người nghèo khó nhưng “mạnh mẽ lòng dạ son sắt”, trung thành tình nghĩa, đồng lòng chung sức với cuộc kháng chiến và Cách mạng. Họ chính là những anh hùng của quê hương anh hùng. Chính họ là những người hiếu khách hơn ai hết _ Mười lăm năm đó đầy cảm xúc
Mười lăm năm ấy ai có thể quên Quê hương cách mạng xây dựng nên cộng hòa
Cùng với cảm hứng ấy, Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận “Đất Nước này thuộc về Nhân dân”. Nhân dân có thể là anh, em, người vợ nhớ chồng, học trò nghèo, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm, là bốn nghìn lớp người “không ai nhớ mặt vài tên. Họ là tập thể những anh hùng vô danh và chính họ tạo nên Đất Nước bền vững. Và họ không chỉ dũng cảm trong trận đấu mà còn lòng hiếu khách :
Mỗi năm làm gì, ăn gì
Cũng nhớ cúi đầu vào ngày giỗ Tổ
Yêu quê hương đất nước, đó là tình cảm thiêng liêng, cao quý của nhân dân ta. Nhưng tùy thuộc vào tình hình thời đại, vào hoàn cảnh cụ thể, vào góc nhìn cá nhân mà nội dung này có những diễn biến khác nhau với những màu sắc khác nhau
Việt Bắc được lập vào tháng 10 năm 1954, khi toàn thể lãnh đạo Đảng và Chính phủ cùng với các chiến sĩ rời khỏi khu vực chiến đấu để quay về Hà Nội. Đối với Tố Hữu, Đất nước là quê hương cách mạng, là lòng biết ơn của những người chiến đấu vì quê hương Cách mạng, với nhân dân. Đất nước cũng là tình yêu sâu đậm, niềm tự hào và niềm tin vào Bác Hồ và Đảng :
Quay về bên Bác trên đường
Nhớ mãi Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Bác với ánh mắt rạng rỡ
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường…
Những cảm xúc này kết hợp với nhau một cách tự nhiên, mang lại cho bài thơ một khía cạnh mới : Tình yêu cách mạng. Và cảm hứng này là nguồn gốc chính của thơ Tố Hữu.
Và nhà thơ đã thể hiện điều đó một cách tự nhiên qua một giọng điệu ngọt ngào của tâm trạng. Bài thơ được xây dựng theo cách đối thoại truyền thống (mình – ta) của ca dao dân ca: Sự giao duyên giữa hai người yêu thương nhau, tình nghĩa đậm đà nay phải chia xa nhau kẻ ra đi người ở lại. Bài thơ tràn ngập nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong người ở và người đi trong câu hỏi và trong lời trả lời. Nỗi nhớ luôn quay về và cay đắng nhưng sâu lắng. Toàn bộ bài thơ là lời nhắc nhở về lòng hiếu khách : Xin đừng quên trái tim son đã hy sinh tất cả cho Cách mạng; xin đừng quên những ngày gian khổ Hãy giữ vững tinh thần cách mạng trong mọi hoàn cảnh : “Thành phố vẫn nhớ làng quê – Ánh đèn vẫn nhớ mảnh trăng giữa rừng” ?
Hơn cả lời nhắc nhở là lòng biết ơn và lòng tin vào Đảng, Bác và Cách mạng Tố Hữu tự nhắc nhở bản thân cũng như nhắc nhở mọi người . Và những cảm xúc chính trị này truyền vào họ như tiếng ru ngọt ngào và sâu lắng. Do đó, quê hương cách mạng Việt Bắc đã trở thành quê hương chung của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước
Về phần đoạn trích Đất nước, nằm ở đầu chương V, chương trọng tâm của tác phẩm Mặt đường khát vọng, sáng tác vào năm 1971 trong thời điểm cuộc chiến chống Mỹ ở miền Nam đang đạt đến giai đoạn khốc liệt. Tác giả viết trường ca này nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ thành thị ở miền Nam, đặc biệt là những người sống trong vùng tạm chiếm, nhận biết rõ hơn về sự xâm lược của đế quốc Mỹ, hướng tới nhân dân, nhận thức về sứ mệnh của mình đối với dân tộc trong cuộc đấu tranh thiêng liêng bảo vệ đất nước. Do đó, nhà thơ đã chọn cho mình một cách diễn đạt đặc biệt trong thơ :
Đất nước này là của Nhân dân
Là của những câu chuyện dân gian huyền thoại.
Ông đã sử dụng khái niệm một đất nước dân gian để thể hiện tư tưởng quan trọng ấy. Bởi vì dân gian chính là dân tộc, và là phần đại diện, đậm chất và dễ nhận biết nhất của dân tộc. Thêm vào đó, hình ảnh của một đất nước dân gian trữ tình và lãng mạn từ lâu đã trở nên thân quen và gần gũi với mọi người, và do đó cũng dễ hiểu và dễ nhận thức được tư tưởng về Đất Nước của Nhân dân, dễ thức tỉnh mọi người (đúng như ý đồ của tác giả).
Và do đó, với cái nhìn toàn diện, chiều sâu và soi chiếu từ nhiều góc độ, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ nhận ra rằng Đất Nước bắt nguồn từ những điều gần gũi, đơn giản và thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người.
Khi ta trưởng thành, Đất Nước đã có sẵn
Đất nước hiện diện trong những câu chuyện “ngày xưa kia…”
mà mẹ thường kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu mà bà đang ăn
Đất Nước trở nên lớn lên khi nhân dân biết cấy trồng
và chống giặc
Đất nước hiện diện trong ta và trong bạn; “Đất Nước chính là máu và xương của chúng ta”; Đất Nước được tạo nên bởi những bàn tay sáng tạo của nhân dân:
Ôi Đất Nước sau hàng ngàn năm, ở khắp mọi nơi ta đều cảm nhận thấy
Những cuộc đời đã biến thành những dãy núi và con sông của chúng ta
Đất nước được bảo vệ bởi “bốn nghìn lớp người” :
Họ đã sống và họ đã chết
Đơn giản và thanh bình
Không ai ghi danh họ
Nhưng họ đã tạo dựng nên đất nước
Trong suốt hàng ngàn năm lịch sử, Đất Nước là một cuộc đua không ngừng nghỉ của bao thế hệ người Việt Nam. Đó là tia hy vọng được truyền lại, là ngọn lửa sáng soi đường cho nhau của dân tộc Việt Nam.
Mỗi thế hệ đi qua một phần cuộc đời và chuyển giao cho thế hệ kế tiếp. Như vậy, đất nước được hình thành và phát triển bởi vô số những con người vô danh. Chính họ là những người gìn giữ và truyền dạy cho các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hoá vật chất cũng như tinh thần
Họ gìn giữ và truyền dạy cho chúng ta hạt lúa chúng ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ đốt than qua chiếc cúi
Họ truyền bản sắc cho con trong tiếng nói của mình
Họ mang theo tên xã tên làng trong mỗi cuộc di cư…
Họ xây dựng con đập và bờ cho những người tiếp theo trồng cây và hái trái
Vâng ! Suốt hàng ngàn năm lịch sử, không ai còn nhớ mặt, không nhớ tên những anh hùng vô danh. Nhưng chính họ đã tạo ra, bảo tồn và truyền lại cho chúng ta những gì họ có. Bốn nghìn lớp người ấy đã tạo nên tất cả : Từ hạt lúa và nền văn minh nông nghiệp, ngọn lửa tiến bộ của loài người, đến những tài sản tinh thần quý báu như phong tục tập quán, giọng điệu của cha ông, tên làng tên xã… Họ đã truyền lại mọi thứ, để đất nước này mãi là của nhân dân. Với cái nhìn mới mẻ đó, nhà thơ giúp chúng ta nhận ra sự kết nối sâu sắc giữa số phận cá nhân và vận mệnh chung của cộng đồng và đất nước. Từ đó, nhà thơ đặt ra trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước
Em ơi em, Đất Nước là máu và xương của ta
Phải biết gắn bó và chia sẻ
Phải làm cho bản sắc của đất nước hiện hữu
Để tạo ra đất nước vĩnh cửu
Để làm nổi bật tư tưởng về Đất Nước của nhân dân, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sâu sắc tinh hoa của dân gian. Ông đã lựa chọn những điều tiêu biểu nhất, có ý nghĩa nhất. Và quan trọng hơn, nhà thơ đã biến chúng, áp dụng chúng một cách sáng tạo linh hoạt vào lời thơ của mình.
Do đó, các yếu tố văn hóa và văn học dân gian tại đây đã tự nhiên hòa nhập vào cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra sự đa dạng và phong phú trong thẩm mỹ. Đó chính là đóng góp quan trọng của giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trong văn học hiện đại của Việt Nam
Hai bài thơ có hai phong cách và quan điểm khác nhau: Một về quê hương cách mạng, anh hùng và tình nghĩa; một về Đất Nước của Nhân Dân, của ca dao thần thoại. Tuy nhiên, cả hai bài thơ đều thể hiện sự cảm hứng sống động về một đất nước đẹp mê hồn, đầy gian nan và vất vả, nhưng cũng là nơi của những anh hùng và tình nghĩa. Sự đa dạng và sắc màu của Đất Nước trong thơ đã làm cho nó trở nên hấp dẫn và phong phú hơn, đặc biệt khi chạm đến những tình cảm thiêng liêng nhất trong lòng mỗi người