Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Châu Trinh siêu ấn tượng, giúp các bạn học sinh lớp 8 hiểu rõ hơn tinh thần quật cường, chí khí phi thường của một người anh hùng yêu nước tạo nên một không khí mạnh mẽ, truyền cảm.
Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn của Phan Chu Trinh cũng cho thấy sự kiêu hãnh, tráng kiện và tinh thần làm người của các chàng trai thời kỳ đó. Những khó khăn, những ngày tháng gian khổ đã rèn luyện ý chí, sức mạnh, lòng can đảm. Mời các em cùng đọc bài viết:
Bố cục phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn
1. Khởi đầu
Giới thiệu nội dung bài thơ:
- Bài thơ 'Đập đá ở Côn Lôn' của Phan Châu Trinh là một ví dụ điển hình và xuất sắc trong tác phẩm của ông.
- Thái độ quyết tâm, lòng yêu nước phi thường của một người anh hùng tạo ra một bầu không khí đặc biệt, hùng vĩ trong thời đại đó.
2. Nội dung chính
- Dù phải sống trong cảnh tù đày khắc nghiệt, nhưng ý chí của nhân vật 'đấng quân tử' vẫn luôn vững vàng:
- Tư thế đứng giữa đất Côn Lôn tự do, thoải mái, hiên ngang
- Nuôi lớn tinh thần quyết tâm, dũng cảm đấu tranh giành chiến thắng mạnh mẽ trong mọi tình huống
- Việc đập đá không dễ dàng nhưng mang lại thành tựu vĩ đại, thể hiện ý chí và nghị lực phi thường
- Thân thể mạnh mẽ, kiên cường, trái tim đầy lòng yêu nước, luôn chảy đầy niềm tự hào về dân tộc
- Người dũng cảm nuôi lớn ước mơ khám phá bốn phương, vượt qua khó khăn vô biên
- Coi trọng công việc quan trọng, khao khát đạt được những ước mơ cao cả, không mắc kẹt trong những việc nhỏ nhoi
=> Phan Châu Trinh, một con người khao khát vì cộng đồng, vì đất nước, vượt qua mọi thử thách, giữ vững lòng trung kiên.
3. Kết luận
Khẳng định giá trị của bài thơ: Mặc dù bài thơ không dài nhưng đủ để chúng ta cảm nhận được tinh thần kiêng trung, phương diện dũng cảm của người tù cách mạng, một con người từng bình thường nhưng mang trọng trách lớn lao vì dân tộc và quê hương.
Phân tích bài thơ 'Đập đá ở Côn Lôn' - Mẫu 1
Là một nhà thơ, văn sĩ, và chính trị gia tiêu biểu của thời đại, Phan Châu Trinh là một nhà lãnh đạo yêu nước, dũng cảm và tài năng. Trong những con tim của những người lãnh đạo như ông, tinh thần kiêng trung đã thấm vào máu thịt để luôn tỏa sáng như một ngọn đèn pha trong bóng tối của thời đại.
Bài thơ 'Đập đá ở Côn Lôn' được viết năm 1908 khi Phan Châu Trinh bị bắt và đày ra Côn Đảo. Ngay trong hoàn cảnh khó khăn đó, bài thơ vẫn toả sáng bởi tinh thần anh hùng của tác giả. Ngay từ đầu, bằng những câu thơ mở đầu, tác giả đã vẽ nên hình ảnh của một người anh hùng hào sảng.
Đứng giữa đất Côn Lôn,
Hiên ngang như núi non.
Bài thơ này được sáng tác năm 1908 khi Phan Châu Trinh bị bắt và bị đày ra Côn Đảo vì hoạt động chống thuế ở Trung Kì. Tuy nhiên, khi đọc hai câu thơ đầu, ta không cảm nhận được đây là hình ảnh của một người tù khổ sai ở nơi mà mọi người gọi là 'địa ngục trần gian', mà thay vào đó, là hình ảnh một người trai hiên ngang, hào sảng như núi non, sống giữa một vùng đất rộng lớn nhưng cũng đầy tương phùng.
Trong cảnh hoang vắng bao la đó, tinh thần của con người trở nên 'hiên ngang', toả sáng như núi non, khiến cả núi non cũng phải rung chuyển.
Xoay cánh tay đập vỡ hàng chục nghìn đống đá
Đánh gục hàng trăm ngàn hòn biển
Các hành động như 'xách búa', 'ra tay' cùng với việc 'đánh tan', 'đập bể' đã tạo ra bức tranh mạnh mẽ về người anh hùng yêu nước. Những chi tiết thực tế nhưng được tôn lên cao, tạo ra hình ảnh một con người vĩ đại. Mặc dù là người tù ở Côn Lôn, công việc chính của họ vẫn là đập đá để xây dựng nhà tù.
Họ phải sử dụng các công cụ đơn giản như búa, xẻng để đập những tảng đá lớn trong điều kiện khắc nghiệt và dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của những người giữ gìn. Nhưng những hành động này trong thơ của Phan Châu Trinh không chỉ đơn thuần là biểu hiện của khổ đau mà còn là biểu tượng của sức mạnh và oai vệ.
Chúng ta có thể cảm nhận sức mạnh vô hình của một người đàn ông tinh thần lớn, trong mỗi cú đập búa không chỉ là sức mạnh về thể chất mà còn là ý chí và lòng trung kiên sắt đá, lòng căm hận sâu sắc với kẻ thù. Phan Châu Trinh coi những ngày tháng khó khăn tại đây là cơ hội để củng cố ý chí và sức mạnh:
Thời gian trôi qua, hình thành tinh thần vững vàng,
Khắc sâu lòng bằng sắt và son.
Ngày càng có nhiều thử thách, con người trở nên kiên nhẫn, vững vàng hơn, và những khó khăn càng nhiều, họ càng trở nên kiên định, tin tưởng hơn. Côn Đảo, mặc dù được lập ra nhằm kiềm chế những người yêu nước và nhà cách mạng, là nơi thể hiện sự chiếm đoạt và tra tấn của thực dân Pháp, nhưng cũng là nơi mà ý chí và tinh thần chiến đấu của họ được thử thách và tôn vinh.
Tuy nhiên, họ đã nhầm, tinh thần kiên cường của những nhà cách mạng không chỉ không suy giảm mà còn trở nên quý giá hơn sau mỗi thử thách. Phan Châu Trinh xem những năm tháng này như một cơ hội để củng cố bản thân và lý tưởng, nơi mà ông ngày càng hiểu rõ hơn và không bao giờ chấp nhận thất bại. Ông tự nhận mình là:
Những ai sửa sai sau khi lạc bước,
Khó khăn làm họ trưởng thành từng bước.
Ông tự nhận mình là 'người sửa sai', người đảm nhận trách nhiệm lớn lao và cao cả vì sự hòa bình và phồn thịnh của dân tộc, vì vậy những khó khăn ở Côn Lôn chỉ là những thử thách nhỏ trong cuộc hành trình vĩ đại của ông. Toàn bộ bài thơ phản ánh một tinh thần kiên cường và mạnh mẽ với một giọng văn hùng tráng và tự tin. Đó chính là tinh thần của những nhà yêu nước cuối thế kỷ XIX, với quyết tâm giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của thực dân.
Hình ảnh của những người anh hùng yêu nước kiên cường sẽ luôn sống mãi trong lòng thế hệ sau, truyền cảm hứng để thế hệ tiếp theo tiếp tục bước đi với tinh thần kiên cường, xứng đáng với tinh thần của tổ tiên.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 2
Một số anh hùng, dù bị giam giữ, vẫn kiêng cường, đầu cao nhìn về phía trước. Có những tù nhân chịu đựng cả sự tra tấn dã man nhưng vẫn không ngừng ca tụng tình yêu nước, tình yêu dân tộc. Bài thơ 'Đập đá ở Côn Lôn' của Phan Châu Trinh thể hiện tinh thần ấy, cũng như khẳng định rằng sứ mạng của một người đàn ông trên thế gian là sống có lý tưởng, có mục tiêu.
Nhắc đến Côn Lôn, ta nhớ đến nhà tù Côn Đảo, nơi đã giam giữ nhiều anh hùng cách mạng. Đó là nơi đầy máu, nước mắt và khao khát tự do, khao khát đập tan cánh cửa nhà tù, ra ngoài thế giới để chiến đấu chống lại áp bức.
Bài thơ là lời hát, lời của trái tim anh hùng cách mạng vang lên giữa nhà tù Côn Đảo. Tiếng thơ hùng vĩ, mạnh mẽ là nét đặc trưng của bài thơ này. Hai câu thơ mở đầu đã khẳng định rằng, trong cuộc sống này, sự kiêng cường, sức mạnh là cần thiết:
Một người đàn ông đứng giữa Côn Lôn
Lấp lánh như lực lượng vĩnh viễn
Hình ảnh một con người vững vàng xuất hiện giữa nhà tù Côn Lôn, đầu cao. Dù bị giam cầm, khổ sai nhưng vẫn 'lấp lánh', công việc đập đá vất vả chỉ là 'con con' đối với người chiến sỹ cách mạng. Người tù trở nên hùng vĩ, to lớn, mang tầm vóc vĩ đại.
Ngay từ đầu bài thơ, tác giả như thể ném một tiếng gào, một lời nói sôi nổi vào trong bức tranh tối tăm của nhà tù; thành công mô tả hình ảnh của một chiến sỹ cách mạng. Đó cũng là nguồn cảm hứng chính của bài thơ. Hành động đập đá được Phan Châu Trinh mô tả rất sống động, chân thực và đầy hào hứng. Nhịp thơ dẫn dắt chúng ta đi về phía trước, không ngừng:
Mang búa đánh tan những cục đá khó khăn
Chủ động đập vỡ hàng trăm viên đá
Một chuỗi từ mạnh mẽ liên tiếp trong hai câu thơ đã phác họa sự mạnh mẽ, quả cảm của người tù cách mạng. Việc đập đá chỉ là công việc hàng ngày. Hình ảnh 'năm bảy đống', 'mấy trăm viên đá' mang tính phóng đại, thể hiện sức mạnh phi thường của người anh hùng cách mạng.
Tính cách mạnh mẽ, kiên cường của người chiến sỹ không chỉ xuất hiện ở đó mà còn được tác giả thể hiện qua khí phách:
Những ngày tháng bảo quản thân thể vững vàng
Dù nắng mưa dày đặc, lòng vẫn kiên cường như sắt đá
Trong chốn đất lạ quê người, những người tù khổ sai, phải đối mặt với sự tức giận của thiên nhiên nhưng vẫn kiêng nhẫn, không sợ hãi. Ngược lại, càng gặp nắng mưa, họ càng trở nên kiên cường như sắt đá. Một ý chí, một nghị lực đáng ngưỡng mộ và kính phục. Hình ảnh của mưa và nắng hoàn toàn tương phản với người chiến sỹ cách mạng, có lẽ là cách tác giả sử dụng nghệ thuật. Và bài thơ kết thúc với một hình ảnh hùng vĩ, kiên cường hơn:
Những kẻ vá trời khi lạc bước
Dẫu gian nan cũng không than phiền
Những người tù khổ sai chỉ coi việc bị giam giữ ở nhà tù Côn Đảo như là một sai lầm nhỏ, và tự gọi mình là người “vá trời”. Trong các công việc lớn, những khó khăn như thế này không làm họ nản lòng. Những thử thách, khó khăn vẫn còn rất nhiều, nhưng những người tù xem thường chúng. Một tinh thần thật là kiêng nhẫn, một phương châm sống khiến người khác phải ngưỡng mộ
Phan Châu Trinh với bút pháp tự do, giọng điệu thơ hùng tráng đã thành công trong việc vẽ nên hình ảnh của người chiến sỹ cách mạng vẫn kiên cường, ý chí mạnh mẽ. Đó chính là biểu tượng của những người chiến sỹ cách mạng bảo vệ tổ quốc, chống lại kẻ thù xâm lược.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 3
“Đập đá ở Côn Lôn” là một trong những bài thơ đặc trưng của nhà thơ Phan Châu Trinh. Qua bài thơ, nhà thơ muốn nhấn mạnh vào lòng yêu nước, lòng anh hùng của dân tộc Việt Nam
Phan Châu Trinh là một trong những nhà cách mạng nổi tiếng nhất đầu thế kỷ XX. Bài thơ Đập đá ở Côn Lôn được viết trong thời gian ông bị giam giữ ở đảo Côn Lôn, thể hiện sức mạnh và dũng cảm của một anh hùng thời đại.
Chắc chắn ai cũng biết về nhà tù Côn Đảo - nơi được gọi là địa ngục trần gian. Chính quyền thực dân Pháp sử dụng nơi này để giam giữ những nhà cách mạng của dân tộc. Họ không chỉ tra tấn bằng những phương tiện tàn ác mà còn bắt họ phải làm việc cực nhọc. Mặc dù vậy, người tù cách mạng vẫn tỏ ra kiêng nhẫn, vững vàng như người anh hùng cứu nước. Bốn câu thơ đầu tiên miêu tả cảnh tượng đập đá của họ và qua đó, tác giả đã vẽ nên hình ảnh phi thường của những người anh hùng:
“Trong tư thế đứng giữa đất Côn Lôn”
Câu đầu tiên đã phác họa bối cảnh, gợi lên không khí hùng tráng bằng tư thế kiêu hãnh, mạnh mẽ của phận “làm trai” - đầu cao trời, chân dẻo dẻo đạp đất. Câu ca dao cổ phong cách: “Làm trai cho đáng nên trai”. Nguyễn Công Trứ cũng từng viết:
“Chí làm trai Nam, Bắc, Tây, Đông
Dành hết sức vẫy vùng trên khắp bốn phương”
Điều này cho thấy tư tưởng về chí làm trai, làm người đã rễ ràng trong triết lý nhân sinh. Trong câu thơ của Phan Châu Trinh, quan điểm này được mạnh mẽ khẳng định: “Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn” tức là đứng giữa bốn phương thế giới, tự hào, cao thượng, chính trực, đúng là dáng vẻ của người kiểm soát thế giới.
Ba câu thơ tiếp theo, qua mô tả sinh động về công việc gian khổ (đập đá), tác giả đã biến họ thành biểu tượng của sức mạnh dịch chuyển núi non, kiến thiết với thiên nhiên. Những hành động mạnh mẽ cho ta thấy hình ảnh người anh hùng với sức mạnh phi thường đang tạo ra: “xách búa”, “ra tay”; và “lừng lẫy” những chiến công “lở núi non”, “đánh tan năm bảy đống”, “đập bể mấy trăm hòn”. Những từ ngữ này tuyệt vời hình dung sức mạnh mạnh mẽ trong tư thế kiêu hãnh, lớn lên ngang vũ trụ. Giữa vùng trời bao la tỏa sáng một bức tượng cao vút bằng những khối hình phi thường.
Bốn câu cuối bộc lộ trực tiếp cảm xúc và suy tư của người anh hùng:
“Những ngày nắng mưa cứ thế trôi qua,
Chẳng dập tắt dạ sắt son bao giờ.
Những kẻ phải vá lại bản mình lúc lỡ bước,
Khổ cực không thể dập tắt ý chí”
“Thân sành sỏi” và “dạ sắt son” sẽ kiên trì vững vàng qua “ngày tháng”, “mưa nắng”. Sự đối lập trong câu thứ 5 và thứ 6 thể hiện ý chí vững vàng, kiên định của nhà cách mạng trong mọi hoàn cảnh khắc nghiệt. Tấm lòng chung thủy, mạnh mẽ “mài chẳng khuyết, nhuộm chẳng đen” cũng là kế thừa của truyền thống anh hùng không khuất phục được khẳng định trong lịch sử xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam. Kiên cường đến “trơ gan cùng tuế nguyệt”, đến mức ngạo nghễ đã trở thành đạo lý, phẩm cách của người chiến sĩ không ngần ngại hy sinh bản thân cho lý tưởng chung. Phan Châu Trinh, dù có xuất thân từ Nho học, nhưng trong những dòng thơ này, ta thấy tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng đã được hòa nhập hoàn hảo với bản lĩnh của nhà nho. Trong bối cảnh đầy gian khó, thử thách của đầu thế kỷ XX, những người chiến sĩ dám hy sinh vì sự nghiệp quốc gia cũng là những người không ngần ngại vượt qua mọi khó khăn, biết quên đi bản thân. Có khi phải dùng ý chí mạnh mẽ để vượt qua hoàn cảnh. Hai từ “vá trời” lấy từ truyền thuyết Nữ Oa vá trời. Tầm vóc, sức mạnh ở đây đã được tạo hình đến mức phi thường, như bà Nữ Oa trong truyền thuyết đội đá vá trời. Hình ảnh “những kẻ vá trời” vừa thực, vừa uy nghi, kiêu căng. Thực tế ở mức liên kết với hình ảnh những người tù lao động khổ sai đập đá, làm lở núi non đã được mô tả ở bốn câu thơ đầu. Kiêu căng, uy nghi ở mức nhân vật trong truyền thuyết. Hai câu thơ cuối cùng này gợi lên sự đối lập giữa điều lớn lao, kỳ vĩ (vá trời) với thực tế gian khổ chỉ là “việc con con”. Sự đối lập đó là kết quả của ý chí mạnh mẽ, niềm tin sâu sắc vào lý tưởng chính nghĩa, kẻ vá trời bằng sức mạnh đội đá vá trời có thể vượt qua mọi gian khó. Thực tế, những khó khăn mà tác giả đang phải đối mặt không “con con” chút nào, nhưng chỉ thông qua đó, chỉ bằng ý chí mạnh mẽ tích tụ từ nguồn cội dân tộc của những người chiến sĩ mới có thể tiếp tục hành trình gian nan trước mắt. Đó cũng là một trận chiến thắng chính mình.
Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã góp phần vào sự dạt dào của tinh thần yêu nước, anh hùng trong truyền thống dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 4
Ngoài vai trò là một nhà hoạt động cách mạng, Phan Châu Trinh còn được biết đến với tư cách là một nhà thơ. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được ông sáng tác trong thời gian bị đày ở đảo Côn Lôn đã thể hiện sức mạnh quật cường của người tù cách mạng.
Được biết đến với biệt danh “địa ngục trần gian”, nơi này đã trở thành nơi giam giữ những nhà chiến sĩ cách mạng Việt Nam bởi chính quyền thực dân. Nhưng kẻ thù chỉ có thể làm hổ thẹn thân thể họ, nhưng không thể làm yếu lòng họ. Những câu thơ mở đầu đã phác họa tư thế của người làm trai:
“Người làm trai giữa cõi Côn Lôn,
Đầy uy nghi làm cho núi non rung chuyển”
Vùng đất Côn Lôn với khí hậu gắt gao, khắc nghiệt. Đó có thể coi là mảnh đất của cái chết, của sự tiêu diệt sinh mạng con người. Trong mảnh đất nguyên tử ấy, người làm trai cần phải thể hiện vẻ uy nghi, quyết đoán. Từ ngữ “đầy uy nghi” kết hợp với hình ảnh “làm cho núi non rung chuyển” thể hiện sự đẳng cấp của con người trước thiên nhiên. Tư thế của người tù khổ sai là một sự hiên ngang, đấu tranh, kiêu căng, như một anh hùng giữa trời đất.
Sau hai câu thơ đầu, nhà thơ mới mô tả cụ thể việc đập đá tại Côn Lôn. Đối với ông, đây là biểu hiện cụ thể của việc làm trai ở địa phương này:
“Mang búa đập tan năm bảy đống
Tay đập vỡ mấy trăm hòn”
Những từ ngữ “mang búa”, “tay đập” ở đầu câu tạo nên một ngữ điệu mạnh mẽ, quyết liệt. Kết hợp với những động từ như “đập tan”, “đập vỡ” tạo ra hình ảnh sức mạnh. Số lượng được chỉ ra bằng cụm từ “năm bảy đống”, “mấy trăm hòn” làm nổi bật sức mạnh như cơn bão. Cả hai câu thơ đều đầy uy lực, sẵn sàng hủy diệt mọi thứ trước mặt. Trong hành động đập đá của người tù khổ sai, ta cảm nhận được ý chí và sức mạnh không thể khuất phục.
Tinh thần, khí thế hùng hậu của người tù cách mạng ấy đã trở thành lời thề kiên định:
'Sống qua bao năm trông mong vẻ sừng sỏi,
Mưa nắng càng làm dạ son sắt bền vững'
'Sống qua bao năm' là một khoảng thời gian dài, liên tục từng ngày. Nói về thời gian đó, nhà thơ ám chỉ những ngày tháng trên Côn Lôn. 'Thân sừng sỏi' là số phận của người tù cách mạng. Nhưng cụm từ 'trông mong' ở giữa câu thơ như một khẳng định vững vàng về tinh thần không sợ hãi của họ. Còn 'mưa nắng' là biểu tượng cho những gian khổ của cuộc sống ở Côn Đảo. Dù mưa nắng có gì đi nữa, nó cũng không thể làm rung chuyển lòng kiên cường của người tù cách mạng, 'dạ son sắt sỏi'. Dạ sắt son này là dạ cứng như sắt, đỏ như son, kiên trì như không gì làm thay đổi được. Hai câu thơ này mô tả sự chịu đựng gian khổ, thử thách như một lời thề và một lời khẳng định cao cả.
Bài thơ kết thúc với sự khẳng định:
'Ai đã từng lỡ bước trên đường trời rộng lớn,
Gian khó gì mà có thể kể hết, từng mảnh từng mảnh'
Với người tù này, việc bị giam giữ chỉ là một phút sa cơ, một rủi ro trên con đường hoạt động cách mạng. Họ tự xưng mình là “những kẻ vá trời”. Câu thơ này gợi lên hình ảnh của Nữ Oa vá trời. Những người đập đá, làm lở núi non trên kia không phải là những kẻ tù đày bình thường mà đang làm công việc của những người đập đá và vá trời, đang gánh vác trách nhiệm lớn lao của quốc gia, dân tộc.
Như vậy, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” là một tác phẩm hấp dẫn. Với tinh thần hiên ngang, kiêu căng, người tù đã khẳng định lòng dũng cảm của mình, với niềm tin vào tương lai tươi sáng của quê hương.
Phân tích về bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 5
Phan Châu Trinh là một trong những nhà yêu nước nổi tiếng của cách mạng Việt Nam trong những năm đầu thế kỉ XX. Không chỉ là vậy, ông còn được biết đến với vai trò của một nhà thơ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu là bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn”, thể hiện sự kiên định của một chiến sĩ cách mạng trước hoàn cảnh khắc nghiệt trong tù.
Vào năm 1908, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giữ vì bị buộc tội kích động dân chúng nổi dậy trong phong trào chống thuế ở Trung Kì và bị đày ra Côn Đảo. Tháng 6 năm 1910, ông được tha do sự can thiệp của Hội Nhân Quyền (Pháp). Bài thơ được viết khi ông đang phải lao động mệt mỏi cùng với những người đồng tù tại nhà tù Côn Đảo (Côn Lôn).
Những dòng thơ đầu tiên khơi gợi hình ảnh của người tù cách mạng với tư thế kiêu hãnh:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non”
Tác giả đã làm cho người đọc thấy một hoàn cảnh khắc nghiệt tại Côn Đảo - chỉ có núi non hiểm trở và biển cả vô tận. Tuy nhiên, trước thử thách đó, người tù vẫn giữ vững tư thế của mình như một người đàn ông. Hình ảnh của nhà cách mạng đứng vững giữa trời đất, oai vệ lấp lánh trước mắt người đọc thật tráng lệ. Trong hoàn cảnh như vậy, họ phải lao động khó khăn với việc đập đá. Một công việc mà chỉ nghe đến cũng thấy nặng nề. Với “búa” và “tay”, họ quyết liệt đánh bại “năm bảy đống”, “đập tan hàng trăm hòn” - thật là một sức mạnh phi thường.
Tiếp theo, hình ảnh của người tù cách mạng hiện ra với ý chí vững vàng, kiên định và bền bỉ:
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng càng bền dạ sắt son”
Cụm từ “tháng ngày” chỉ thời gian tù đày, khổ sai kéo dài, còn “mưa nắng” biểu tượng cho gian khổ, mọi đau đớn, đày đọa. Trước những thách thức khắc nghiệt đó, người chí sĩ giữ chí khí bền bỉ. Hình ảnh “thân sành sỏi”, “dạ sắt son” là hai ẩn dụ thể hiện lòng son sắt thủy chung với nước, với dân của một người nam nhi có chí lớn, một kẻ sĩ chân chính: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Đó chính là phẩm chất của những bậc trượng phu trong quá khứ. Trong khó khăn, ý chí của người tù cách mạng hiện lên càng rực rỡ, lung linh.
Hai câu cuối cùng vang lên như một lời thề với non sông, đất nước:
“Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể sự con con”
Ở đây, Phan Châu Trinh mượn sự tích “vá trời” của bà Nữ Oa trong thần thoại Trung Hoa để nói về chí lớn làm cách mạng, cứu nước cứu dân. Đối với họ, dù “lỡ bước” - gặp khó khăn, thất bại, dù có trải qua gian nan tù đày, với nhà chí sĩ chân chính việc “con con” ấy không đáng kể, không đáng quan tâm. Họ tin vào tương lai cách mạng của dân tộc.
Như vậy, bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã vẽ lên hình tượng mạnh mẽ, kiên cường của người anh hùng cứu nước, không sờn lòng đổi chí dù gặp nguy nan.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 6
Phan Châu Trinh (1872 - 1926) là một nhà chí sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong những năm đầu thế kỉ XX. Không chỉ vậy, ông còn sáng tác được nhiều tác phẩm thấm đượm tinh thần dân chủ và chứa chan tình yêu nước. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày.
Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, mang tính hàm nghĩa sâu sắc:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con”
Nhan đề bài thơ là “Đập đá ở Côn Lôn” đã gợi ra cảnh lao động khổ sai của nhà thơ và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp đày đọa tại nhà tù Côn Đảo. Năm 1908, sau vụ chống sưu thuế nổ ra ở Trung Kỳ, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giam và đày ra Côn Đảo với cái án khổ sai chung thân.
Bốn câu đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thế, một ý chí. Chí nam nhi, chí làm trai coi việc “đứng giữa đất Côn Lôn” bị tù đày khổ sai là một thách thức nặng nề nhưng chẳng hề nao núng, vẫn “lừng lẫy làm cho lở núi non”. Hai từ “đứng giữa” biểu thị một tư thế hiên ngang, một tâm thế bất khuất trước uy vũ quân thù. Câu thơ thứ hai, nhất là cụm từ “làm cho lở núi non” thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh ngộ bị quân thù đày đọa.
Các động từ mạnh “đánh tan” và “đập bể” vừa tả thực sức mạnh đập đá “năm bảy đống” và “mấy trăm hòn” của người tù cách mạng. Đồng thời ngụ ý một quyết tâm, một ý chí căm thù phá tan chốn ngục tù, lật đổ ách thống trị thực dân tàn bạo. Phép đối, cách dùng số từ, hàm súc, đa nghĩa làm nên giá trị nghệ thuật ở phần thực bài thơ:
“Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn”
Hai câu năm và câu sáu đối nhau rất chỉnh. Lấy thời gian bị cầm tù (tháng ngày) đối với gian truân thử thách (mưa nắng), lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần cứng cỏi trung kiên (dạ sắt son). Tất cả đã làm hiện lên hình ảnh một chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp. “Thân sành sỏi” và “dạ sắt son” là hai hình ảnh ẩn dụ nói lên phẩm chất cách mạng của nhà thơ:
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son”
Việc dùng từ ngữ “bao quản” và “chi sờn” thể hiện sẵn lòng chấp nhận, quyết tâm đương đầu với bạo lực của quân thù. Tinh thần đó, ta thấy nhiều trong “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh hơn ba mươi năm sau:
“Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân;
Vật chất tuy đau khổ,
Không nao núng tinh thần”
(Bốn tháng rồi)
Hai câu kết thể hiện lòng dũng cảm phi thường của những người có chí lớn, mưu đồ vĩ đại (vá trời) mà không thất bại (lỡ bước). Đó là anh hùng thất bại nhưng vẫn hiên ngang, coi việc tù đày, khó khăn chỉ là “việc con con” không đáng kể, không đáng nói. Câu kết phản ánh một phong thái tự tại, ngạo nghễ của nhà thơ chiến sĩ:
“Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con”
Từ ngữ hàm súc, phong cách bình dị và trang trọng. Người xưa thường dùng thơ để thể hiện tâm trạng, để nói lên lòng dũng cảm. Đó là lòng sẵn lòng hy sinh để cứu nước, trung thành với dân tộc, kiên cường đối diện với tù đày.
“Đập đá ở Côn Lôn” là một ví dụ điển hình về thơ viết trong nhà tù thời thực dân của những chiến sĩ yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ XX. Bài thơ mang dấu ấn của sự trang trọng và hùng vĩ.
Phân tích bài thơ Đập đá ở Côn Lôn - Mẫu 7
Trong những năm đầu thế kỉ XX, cùng với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh trở thành biểu tượng của lòng yêu nước, được mọi người trong cả nước kính trọng. Hình ảnh của Phan Tây Hồ, một nhà chí sĩ mang lòng yêu nước, sống mãi với non sông, đất nước, đã in sâu vào tâm trí của người Việt Nam. Đọc bài thơ Đập đá ở Côn Lôn, ta hiểu rõ hơn về phẩm chất cách mạng rạng ngời của ông:
Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho lở núi non.
Xách búa đánh tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bảo quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Năm 1908, Phan Châu Trinh bị bắt, triều đình Huế đã buộc tội cầm đầu phong trào chống thuế ở Trung Kỳ và đày ông đến Côn Lôn. Côn Lôn! Cái tên gợi lên trong trí tưởng tượng của người Việt một cảnh tượng kinh hoàng, rùng rợn. Giữa biển cả bao la, 'địa ngục trần gian' này là nơi giam giữ, đọa đày dã man những người yêu nước và đã có biết bao anh hùng dân tộc đã vĩnh viễn nằm lại nơi này.
Bị đày đến 'địa ngục', Phan Châu Trinh tự nhận mình: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn. Trong tư thế 'đứng' ấy của nhà cách mạng, vừa thể hiện một tinh thần kiên định không khuất phục vừa tự tin tỏ ra - Trước bao biển trời, trước tàn bạo của kẻ thù, dáng vẻ của Phan Châu Trinh như một tượng đài kiêu hãnh.
Ông không chỉ là một người tù bị giam giữ nữa mà còn là một con người của tự do. Chí 'làm trai' của người đạo đức được thể hiện và kiểm chứng. Đúng là một thử thách cực kỳ khắc nghiệt, người tù hàng ngày phải làm việc vất vả. Việc đập đá vô cùng gian truân đối với Phan Châu Trinh, một nhà nho tay yếu chân mềm chỉ thích viết lách, đèn sách không quen thuộc với công việc nặng nhọc.
Bị cơ thể hủy hoại nhưng tinh thần vẫn kiên cường: Lừng lẫy làm cho lở núi non. Đây không chỉ là câu chuyện của người tù đập đá mà còn là biểu tượng của một tinh thần hào hùng, quyết tâm của người 'làm trai' có lòng yêu nước quyết định làm thay đổi tình hình quốc gia.
Xách búa đánh tan năm bảy đống
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
'Mang búa', 'ra tay' thể hiện tư thế chủ động; 'đánh tan', 'đập bể' động từ chỉ hành động quyết định, mạnh mẽ, khoáng đạt. Nhà cách mạng đang tập trung mọi nghị lực và sự căm thù vào việc 'đập bể', 'đánh tan' bức tường của chế độ thực dân phong kiến thối nát.
Ba năm trong tù, Phan Châu Trinh chịu đựng biết bao đoạ đày 'một ngày trong tù, nghìn năm ngoài kia'. Thời gian (tháng ngày), gian nan (mưa nắng) cũng là dịp để rèn luyện tinh thần của người cách mạng.
Tháng ngày bảo quản, thân sành sỏi,
Mưa nắng sờn dạ sắt son.
'Lửa thử vàng, gian nan thử sức', nhà tù của thực dân là nơi tôi được thử thách và rèn luyện. Phan Bội Châu trong nhà tù ở Quảng Đông 'vẫn là một người anh hùng, vẫn phong lưu', Hồ Chí Minh trong nhà lao Tưởng Giới Thạch vẫn tự khích lệ mình
Tưởng tượng mình giữa gian nan
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm kiên cường.
(Nhật ký từ tù)
Những thử thách khắc nghiệt của tù cải tạo đã làm cho Phan Châu Trinh trở nên mạnh mẽ, kiên cường hơn, lòng dũng cảm của ông càng trở nên sáng ngời như 'sắt son', một niềm tin mãnh liệt vào sứ mệnh cứu nước. Bài thơ kết thúc bằng một lời khẳng định mạnh mẽ và tự tin:
Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con!
Phan so sánh chính mình với những kẻ 'vá trời', những người mơ mộng vượt qua giới hạn, mưu đồ những mục tiêu lớn lao. Ông, một anh hùng với tinh thần lớn lao, tin vào khả năng và ý chí của mình nhưng không tránh khỏi những sai lầm, những 'lần lỡ bước'! Việc 'lỡ bước' trên con đường đầy thách thức và gian nan là điều không thể tránh khỏi, đặc biệt với ông. Người cách mạng sẵn lòng chấp nhận tù đày, xiềng xích, thậm chí là sự hy sinh tính mạng.
Nói về những trải nghiệm trong tù, những cảnh kinh hoàng, nhưng lời thơ vẫn nhẹ nhàng, tự nhiên: Gian nan chi kể việc con con! Ông xem đó chỉ là những việc 'con con', không đáng kể, thái độ của nhà chí sĩ mạnh mẽ, ung dung, đặc biệt, ta thấy sự đồng điệu thú vị giữa hai chí sĩ Phan:
Thân ấy vẫn còn, còn sứ mệnh,
Bao nhiêu khó khăn đều vượt qua được.
(Khi ở trong ngục ở Quảng Đông - Phan Bội Châu)
Kẻ thù sử dụng bạo lực, tàn ác và tù đày để tiêu diệt tình yêu nước, nhưng họ đã nhầm, tinh thần mạnh mẽ của những người yêu nước vĩ đại không thể bị đánh bại.
Bài thơ 'Đập đá ở Côn Lôn' mang dấu ấn của sự hào hùng, phấn khích của những con người khinh thường khó khăn, coi thường kẻ thù. Đó chính là tư thế của những người chiến thắng, 'đứng lên trên đầu kẻ thù'. Phan Châu Trinh, người anh hùng yêu nước, chiến sĩ kiên cường và bất khuất đã ghi dấu trong lịch sử dân tộc.
Phân tích về bài thơ 'Đập đá ở Côn Lôn' - Mẫu 8
Phan Châu Trinh không chỉ là một nhà cách mạng nổi tiếng, mà còn là một nhà thơ, nhà văn tài năng. Công trình của ông toát lên tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu kiên định, bền bỉ. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” là một minh chứng rõ ràng cho điều này.
Bài thơ được sáng tác trong thời kỳ ông bị giam giữ, bị trục xuất ra Côn Đảo để làm công việc vất vả đập đá. Ngay từ những dòng đầu tiên, nó đã thể hiện sự kiên cường và tư thế cao quý, nổi bật giữa vùng đất của người anh hùng cách mạng:
“Làm trai giữa vùng đất Côn Lôn
Làm cho lở núi non phải đình đốn
Nắm búa đập tan hàng núi đá
Vươn tay đập vỡ hàng trăm tảng đá”
Hai câu đầu tiên đã thể hiện tính nam tính của những người đàn ông kiên cường trong quá khứ. Văn học dân gian từng khẳng định rằng, một người con trai đích thực cần:
“Làm người phải đáng làm người,
Xuống núi lớn lớn, lên đồi cao cao yên bình”
Sống cùng thời đại với Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu cũng chia sẻ quan điểm tương tự:
“Sinh nở nam nhi yếu thế nào”
Trong bài thơ của Phan Châu Trinh, chí làm người được mô tả mạnh mẽ và lớn lao. Nhân vật trung thực hiện lên trong tư thế mạnh mẽ, kiêu hùng, đầy quyết đoán. Ở vị trí trung tâm của thế giới, với sức mạnh vô song “làm cho lở núi non”. Từ “lừng lẫy” ở đầu câu nhấn mạnh sức mạnh phi thường của nhân vật trung thực.
Để làm rõ sức mạnh phi thường của người làm việc, hai dòng thơ tiếp theo mô tả trực tiếp sức mạnh đó: “Nắm búa đập tan năm bảy đống/ Vung tay đập vỡ hàng trăm tảng đá”. Tác giả sử dụng một loạt động từ mạnh mẽ như “nắm búa, vung tay, đập vỡ” để thể hiện sức mạnh kỳ diệu của con người. Sử dụng các số từ như “năm, bảy, hàng trăm” làm tăng thêm vẻ đẹp của sức mạnh con người. Hai dòng thơ có nhịp điệu mạnh mẽ như chính những hành động trong thực tế công việc của tác giả.
Những dòng thơ cuối cùng thể hiện sự suy tư và trăn trở của nhân vật trung thực:
“Ngày tháng bảo quản linh hồn sắt son,
Mưa nắng càng thêm dẻo dai, kiên cường
Những ai sửa chữa lỗi lầm vượt qua gian khó
Vất vả làm sao kể hết những khó khăn”
Bốn dòng cuối tạo ra một sự tương phản giữa thực tế và ý chí kiên cường, sức mạnh bền bỉ của người lính. Hai dòng đầu tạo ra sự đối lập giữa “ngày tháng”, “mưa nắng” và “linh hồn sắt son”, “dẻo dai, kiên cường” – một sự đối lập giữa khó khăn và khả năng chịu đựng bền bỉ và ý chí mạnh mẽ phi thường của người lính. Hai dòng cuối cùng thật tuyệt vời. Đó không chỉ là công việc khó khăn mà trở thành trọng trách lớn lao “sửa chữa lỗi lầm”. Tác giả tự đặt lên mình trách nhiệm lớn, cứu vãn quốc gia và nhân dân, vì vậy những gian nan này chỉ là thử thách nhỏ bé, không đáng kể. Dòng thơ đã hoàn thiện hình ảnh tinh thần của người lính. Bài thơ kết hợp một cách hài hòa giữa sự hào hùng và lãng mạn, xây dựng hình ảnh của người lính cách mạng bằng cách sử dụng một cách khoa trương, phóng đại và sử dụng các phép lạc quan và tiêu cực. Hình thức thơ thất ngôn bát cú phù hợp với nội dung tư tưởng và cảm hứng chính của bài thơ.
Tác phẩm đã thể hiện sự kiên trung và ý chí phi thường của người lính cách mạng trong hoàn cảnh khó khăn, tù đày vẫn giữ vững niềm tin vào sứ mệnh cứu nước của mình. Bài thơ còn có ý nghĩa lớn lao trong việc gương mẫu và khích lệ thế hệ cách mạng sau này.