TOP 8 mẫu Chứng minh Bình Ngô đại cáo là bản tuyên ngôn độc lập dưới đây mà Mytour giới thiệu sẽ là tư liệu cực kì hữu ích với các bạn học sinh lớp 10. Với 8 bài văn mẫu dưới đây giúp các bạn nắm được các luận điểm, luận cứ rõ ràng, rành mạch. Từ đó biết cách trình bày, sắp xếp các lí lẽ để làm nổi bật vấn đề cần chứng minh, giải thích.
Bình Ngô Đại cáo là một tuyên ngôn ca ngợi sự kỳ diệu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đã chấm dứt sự xâm lược của quân Minh và đồng thời là một bản tố cáo mạnh mẽ về những tội ác mà quân Minh gây ra đối với dân tộc Việt Nam. Hãy cùng đọc thêm bài văn mẫu chứng minh Bình Ngô Đại cáo là một tác phẩm văn học hùng vĩ từ thời cổ đại.
Chứng minh Bình Ngô Đại cáo là một tuyên ngôn độc lập
- Dàn ý về Đại cáo Bình Ngô là một tuyên ngôn độc lập
- Lý do tại sao Đại cáo Bình Ngô là một tuyên ngôn độc lập
- Chứng minh rằng Đại cáo Bình Ngô là một tuyên ngôn độc lập
Dàn ý về Đại cáo Bình Ngô là một tuyên ngôn độc lập
I. Khởi đầu
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi: Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa của thế giới
- Tóm tắt nhận định chung: Đây là một tác phẩm văn học yêu nước, là một tuyên ngôn độc lập của dân tộc.
II. Phần chính
1. Ý nghĩa của một bản tuyên ngôn độc lập
- Được viết trong hoặc sau cuộc chiến: Ví dụ như Nam quốc sơn hà được viết trong cuộc chiến chống Tống, Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh viết sau cuộc kháng chiến chống Pháp
- Nội dung: Khẳng định sự độc lập, chủ quyền, tuyên bố chiến thắng, mong muốn hòa bình
2. Chứng minh rằng Đại cáo Bình Ngô là một tuyên ngôn độc lập
a. Bối cảnh sáng tác.
Sau khi quân ta chiến thắng trước quân Minh, Nguyễn Trãi được Lê Lợi phái viết Đại cáo Bình Ngô để thông báo với nhân dân về chiến thắng này.
=> Bản tuyên bố này được viết sau khi chiến thắng quân Minh.
b. Tuyên bố về sự độc lập, chủ quyền.
- Nguyễn Trãi khẳng định quyền tự chủ của dân tộc thông qua hàng loạt minh chứng thuyết phục.
- Có nền văn hiến lâu đời, điều này là độc đáo và hiếm có dân tộc nào sánh được.
- Có địa bàn lãnh thổ riêng biệt.
- Phong tục tập quán rất đậm đà bản sắc dân tộc.
- Lịch sử lâu dài, với các triều đại như Triệu, Đinh, Lí, Trần đứng ngang hàng với các triều đại Trung Quốc như Hán, Đường, Tống Nguyên, là minh chứng cho niềm kiêu hãnh dân tộc thông qua danh từ “đế”.
- Có anh hùng hào kiệt khắp nơi, không bao giờ thiếu hiền tài.
=> Nguyễn Trãi đã sử dụng phương pháp liệt kê để khẳng định chủ quyền và độc lập của Đại Việt, những lập luận này rõ ràng và không thể bác bỏ.
- So sánh với Nam quốc sơn hà:
- Kế thừa về chủ quyền, lãnh thổ.
- Bổ sung về văn hiến, phong tục, lịch sử, anh hùng.
- Sáng tạo: Những yếu tố này không còn phụ thuộc vào sự minh bạch từ thần linh hay sách trời, mà được tạo ra bởi con người.
=> Tuyên ngôn của Nguyễn Trãi mang tính chất đầy đủ và thuyết phục hơn.
=> Thể hiện lòng yêu nước, ý thức dân tộc phát triển lên tột đỉnh của tác giả.
c. Tuyên bố chiến thắng.
- Nguyễn Trãi phơi bày những tội ác tàn bạo của giặc Minh:
- Khủng bố, tàn sát dân ta dã man, độc ác.
- Bóc lột thuế khóa, cướp bóc tài nguyên, sản phẩm.
- Phá hoại sản xuất, môi trường sống, tiêu diệt sự sống, cướp đoạt lao động...
=> Tác giả lên án tội ác của giặc Minh từ góc nhìn nhân bản, bằng lời văn sắc sảo, tạo nên một bản án rất mạnh mẽ đối với kẻ thù.
=> Phê phán hành động phi nghĩa của địch, khẳng định cuộc chiến của chúng ta là chính nghĩa, tạo sự đồng lòng và thuyết phục cho bản tuyên ngôn.
- Tiến triển của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- Giai đoạn ban đầu đầy khó khăn: Lương thực cạn kiệt, quân lính mất hút.
- Sau đó, nhờ lòng đoàn kết và tinh thần đồng lòng, cùng lý tưởng chiến đấu chung, quân ta đã chiến đấu mạnh mẽ và trở thành nỗi khiếp sợ của kẻ thù: Chiến thắng một trận không thua kém/Dẫn dắt hai trận chiến đại phá quân Minh...
- Quân Minh thất bại thảm hại, nhục nhã, ê chề
- Quân ta mạnh mẽ và uy mãnh như một thế lực không thể chối cãi.
=> Tuyên bố về chiến thắng, Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách sâu sắc và thấu hiểu, thể hiện niềm tự hào và lòng tự tôn về dân tộc sâu sắc.
d. Tuyên bố về hòa bình.
- Tác giả bày tỏ niềm tin vào tương lai vững chắc của đất nước: đất nước kiên cường và sức mạnh quốc gia đang được cải thiện.
=> Sự tự tin, quyết tâm và niềm tin vào sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của đất nước.
- Nói về sự biến đổi trong vũ trụ: vạn vật ra đời sau rồi lại hoá tan, mặt trời và mặt trăng luôn thay đổi.
=> Sự biến đổi hướng tới một tương lai tươi sáng, đẹp đẽ của vũ trụ, trái đất.
=> Đây là lời tuyên bố hòa bình và niềm tin lạc quan vào tương lai của đất nước từ một dân tộc yêu nước.
III. Phần Kết
- Tổng kết lại quan điểm: Đại cáo bình Ngô là một bản tuyên ngôn độc lập, là một tác phẩm văn học yêu nước thuyết phục hoàn toàn.
- Liên kết với những tác phẩm văn học yêu nước khác cũng được xem là các bản tuyên ngôn độc lập trước và sau Đại cáo bình Ngô như Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt và Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh.
Vì sao Đại cáo Bình Ngô được coi là một bản tuyên ngôn độc lập
Mẫu bài viết số 1
Đại cáo Bình Ngô không chỉ là một diễn văn đanh thép, lên án tội ác của kẻ thù, kết thúc cuộc kháng chiến chống lại quân Minh của dân tộc ta mà còn là một bản tuyên ngôn độc lập. Bình Ngô đại cáo được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, sau Nam quốc sơn hà và trước Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh, tác phẩm là một diễn văn yêu nước sâu sắc, rất nồng nàn.
Sau hai câu thơ mở đầu khẳng định nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã đưa ra những lập luận đanh thép nhằm khẳng định chủ quyền của dân tộc, đây là đoạn thơ thể hiện rõ nhất tính chất của bản tuyên ngôn độc lập trong tác phẩm:
Như nước Đại Việt là từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có
“Từ trước” – chỉ với từ này, Nguyễn Trãi đã khẳng định toàn bộ sự độc lập vốn có của dân tộc ta là tồn tại bền vững từ lâu đời, hàng nghìn năm qua và không điều gì có thể phủ nhận được. Câu thơ thứ hai ông khẳng định nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Văn tức là sách vở, hiến tức là người hiền tài. Câu thơ nguyên văn chữ Hán “Thực vi văn hiến chi bang” (Thực sự là một nước văn hiến). Chữ thực tức là sự thật, cái hiển nhiên, không cần phải xưng (tự nhận) đã khẳng định nền văn hiến, vốn tri thức sách vở cũng như người hiền tài của dân tộc ta. Bằng biện pháp liệt kê, Nguyễn Trãi đã cho thấy sự tồn tại song song của các triều đại của hai đất nước. Trong hai câu thơ này, ta cần đặc biệt chú ý đến chữ “đế”. Đế được hiểu là người có địa vị tối cao, đế chỉ có một, còn vương, vua thì có nhiều. Vì vậy, khi Nguyễn Trãi sử dụng từ đế thay cho từ vương đã cho thấy ý thức bình đẳng, ngang hàng của dân tộc ta với phương Bắc. Nguyễn Trãi đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc. Đây là bước tiến dài so với bản tuyên ngôn độc lập thứ nhất. Lí Thường Kiệt chỉ ra hai yếu tố để khẳng định độc lập là chủ quyền riêng và cương vực lãnh thổ riêng: Nam quốc sơn hà nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Dựa trên căn cứ là sách trời, có phần nào đó mơ hồ. Còn Nguyễn Trãi đưa thêm ba yếu tố, chủ quyền và cương vực chỉ mang tính nhất thời, bất kì ai có sức mạnh cũng có thể có một mảnh đất, xưng vua nhưng phong tục tập quán, văn hiến, truyền thống lịch sử thì không thể đơn giản mà có. Chúng ta hoàn toàn có căn cứ để khẳng định là một nước độc lập.
Ngoài ra, bản tuyên ngôn cũng được thể hiện qua đoạn thơ cuối tác phẩm, là lời bố cáo với toàn thiên hạ về chiến thắng của dân tộc ta, khai mở một kỷ nguyên mới, một triều đại mới: Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới/ Kiền khôn bĩ rồi lại thái/ Nhật nguyệt hối rồi lại minh/ Muôn thuở thái bình vững chắc/ Nghìn thu vết nhục sạch làu. Tác phẩm kết thúc bằng những đúc kết từ tự nhiên, qua đó Nguyễn Trãi cũng khẳng định, thể hiện niềm tin vào vận mệnh mới của đất nước.
Để bản tuyên bố trở nên mạnh mẽ hơn, chúng ta cần nhắc đến sự đóng góp về mặt nghệ thuật. Nguyễn Trãi đã sử dụng ngôn từ tinh tế, biểu hiện sự đối đầu với Trung Quốc ở mọi phương diện để khẳng định vị thế của dân tộc. Bằng cách sử dụng những từ ngữ như vốn có, đã lâu, đã chia sẻ, khác biệt,... ông đã thể hiện sự độc lập của Đại Việt, điều này đã được tạo ra từ lâu và không thể phủ nhận. Ngoài ra, ông cũng đã liệt kê các yếu tố cấu thành quốc gia, dân tộc (như truyền thống văn hóa, lãnh thổ, phong tục tập quán, và sự lịch sử phong phú,...) để tạo nền tảng vững chắc cho độc lập của dân tộc.
Với lối văn hùng hồn, mạnh mẽ và chặt chẽ, Nguyễn Trãi đã thể hiện quyền lực của dân tộc một cách toàn diện và đầy đủ nhất. Điều này là một bước tiến lớn so với bản tuyên bố trước đó. Đồng thời, đoạn thơ này cũng là cơ sở cho tác giả để triển khai các phần tiếp theo.
Đây là một bài mẫu.
Qua hàng ngàn năm lịch sử, dân tộc Việt Nam đã không ngừng tìm kiếm cho mình những bản tuyên ngôn độc lập. “Đại cáo bình Ngô” của Nguyễn Trãi được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, sau “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, và trước “Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh.
Nguyễn Trãi, một danh nhân văn hóa của Việt Nam và thế giới, là một nhà văn võ toàn tài từng phục vụ dưới triều nhà Hồ và tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn với vua Lê Lợi. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển văn hóa và tư tưởng của Việt Nam. Vào năm 1428, sau chiến thắng trước quân Minh, Nguyễn Trãi đã được Lê Lợi phong làm tước và viết nên 'Đại cáo bình Ngô'.
Trước hết, tại sao phải nói 'Đại cáo Bình Ngô' là một bản tuyên ngôn độc lập? Thế, tuyên ngôn độc lập là gì? Để được xem là một bản tuyên ngôn độc lập, tác phẩm phải được viết trong hoặc sau một cuộc chiến. 'Nam quốc sơn hà' của Lý Thường Kiệt - bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên - được viết trong cuộc chiến chống Tống. 'Tuyên ngôn độc lập' được chủ tịch Hồ Chí Minh viết sau chiến thắng giặc Pháp năm 1945. Tương tự, 'Đại cáo bình Ngô' được viết sau chiến thắng quân Minh. Một bản tuyên ngôn độc lập cần bao gồm ba phần: khẳng định dân tộc, tuyên bố chiến thắng, tuyên bố hòa bình. Bài cáo này đã thỏa mãn cả ba điều kiện đó. Dấu hiệu của một bản tuyên ngôn độc lập được thể hiện rõ nhất trong đoạn đầu của 'Đại cáo bình Ngô'.
Ngay từ các câu đầu tiên, 'Đại cáo bình Ngô' đã làm rõ tính chất tự nhiên của nền văn hiến dân tộc. Cụm từ 'từ trước', 'vốn ' nhấn mạnh tính lâu đời của dân tộc. Tiếp theo là 'đã chia', 'phong tục… cũng khác' như làm nổi bật sự khác biệt rõ ràng giữa hai nước, không thể nhầm lẫn. Tất cả như làm nổi bật lại tính chất tự nhiên, sẵn có, sự lâu dài của nền độc lập dân tộc. Sau đó, Nguyễn Trãi đã liệt kê các triều đại của nước ta 'Triệu, Đinh, Lí, Trần' song song với các triều đại ở phương bắc 'Hán, Đường, Tống, Nguyên'. Cách sử dụng từ 'xưng đế một phương' như chỉ sự ngang hàng, không thua kém dù chúng ta chỉ là một nước nhỏ. Từ xưa, khi Trung Quốc xưng hoàng đế, các nước xung quanh chỉ có thể xưng vương. Tuy nhiên, từ đời nhà Ngô, Ngô Quyền cũng đã xưng hoàng đế, nhấn mạnh sự ngang hàng của hai nước. Biện pháp liệt kê cũng như câu đối của tác giả càng khiến chúng ta cảm nhận được rõ hơn tầm vóc của cả hai nước. Trong bài cáo, Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện sự tự hào, tự tin dân tộc: 'hào kiệt đời nào cũng có'. Nghệ thuật liệt kê lại được vận dụng để nhấn mạnh sự thất bại của kẻ thù, : 'Lưu Cung… thất bại', 'Triệu Tiết … tiêu vong', 'bắt sống Toa Đô', 'giết tươi Ô Mã', nhấn mạnh chủ quyền dân tộc. Ở cuối đoạn, 'chứng cớ còn ghi' như lần nữa nhấn mạnh lại nền độc lập dân tộc, như chỉ rằng chứng cớ ghi rõ, chối cũng không được.
Có thể nói 'Đại cáo bình Ngô' là một bản nâng cấp của 'Nam quốc sơn hà' làm hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn độc lập ngắn gọn đầu tiên của nước ta. Trong khi Lý Thường Kiệt chỉ dùng bốn câu ngắn gọn để nhấn mạnh độc lập dân tộc, Nguyễn Trãi đã có một bài cáo dài để lấp đi tất cả các khuyết điểm của Lý Thường Kiệt. Thay vì chỉ nói đơn giản 'nam đế cư', Nguyễn Trãi đã liệt kê rõ các triều đại Việt Nam trước đó, làm rõ thêm cho chữ 'đế' của Lý Thường Kiệt. 'Định phận tại thiên thư', sách trời quá xa vời với con người, dù biết trời cao đại diện cho sự đúng đắn và chính trực, tuy nhiên không ai có thể thấy, nhưng bài cáo lại lần nữa làm rõ khi nói 'chứng cớ còn ghi', tức ai nếu tìm hiểu đều sẽ thấy, không phải thứ bí ẩn bị che giấu gì. Tất cả như làm tăng thêm tính thuyết phục cho người đọc khi đề cập tới tính sở hữu lãnh thổ Việt Nam. Không như Lý Thường Kiệt chỉ buông một lời hăm dọa 'lai xâm phạm… thủ bại hư'.
'Đại cáo bình Ngô' đã thể hiện lời hăm dọa đó khi kể tên các chiến công vĩ đại của nhân dân ta trong lịch sử chống và tiêu diệt kẻ thù. Nhấn mạnh tính chủ quyền cũng như làm cho mọi người rõ ràng đó không phải là một lời nói suông. Từ đó, 'Đại cáo bình Ngô' trở thành bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, làm hoàn thiện hơn phiên bản đầu tiên.
Chứng minh 'Bình Ngô đại cáo' là một bản tuyên ngôn độc lập
Mẫu số 1
Nếu vào thế kỷ XI, quân giặc Tống lạc khi nghe thấy âm thanh của bài thơ ca Nam quốc sơn hà vọng lên ở bên bờ sông Như Nguyệt; hoặc vào thế kỷ XX, thực dân Pháp không còn lý do gì để 'khai hóa, mẫu quốc' An Nam sau khi nghe những lời hùng hồn của Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập, thì trong thế kỷ XV, tại sao chúng ta lại quên đi 'thiên cổ hùng văn' Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Xuất hiện sau chiến thắng trước quân Minh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, bài cáo đã nâng cao tinh thần độc lập dân tộc, tình yêu nước vĩnh viễn ghi nhớ mãi. Cho đến ngày nay, Bình Ngô đại cáo vẫn là một tuyên ngôn độc lập của dân tộc chúng ta.
Một tác phẩm được coi là tuyên ngôn độc lập thì trước hết phải viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Nội dung của một tuyên ngôn luôn bao gồm ba phần: khẳng định độc lập và chủ quyền dân tộc; tuyên bố chiến thắng; tuyên bố hòa bình. So sánh với các tiêu chuẩn đó, Bình Ngô đại cáo đáp ứng đầy đủ. Sau khi đánh bại quân Minh, vào mùa xuân năm 1428, theo lệnh của vua Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo về sự độc lập dân tộc, chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố về hòa bình sau hai mươi năm chịu ách đô hộ và chiến tranh. Do đó, khúc tráng ca vĩnh cửu ấy trở thành một hòa nhạc chào đón một thời đại mới của dân tộc, thời đại hoàn toàn độc lập và tự do.
Bằng lối văn lạ lùng nhưng vẫn truyền cảm, giọng điệu hào hùng, tràn đầy năng lượng, Bình Ngô đại cáo đã mở đầu bằng những lời khẳng định:
Giống như nước Đại Việt chúng ta từ xưa
…
Luôn có anh hùng trong mọi thời đại.
Với cách liệt kê thông qua nhiều yếu tố như văn hiến, địa lý, phong tục, lịch sử và nhân vật anh hùng, Bình Ngô đại cáo đã thể hiện một cách toàn diện về sự độc lập của quốc gia. Trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt chỉ nhấn mạnh về lãnh thổ, nhưng chỉ trong sách trời. Nhưng trong Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã mở rộng quan điểm về độc lập ra nhiều phương diện cụ thể hơn. Điều đặc biệt ở đây là cách tác giả so sánh giữa Đại Việt và Đại Hán. Thay vì so sánh theo các yếu tố lớn nhỏ, mạnh yếu, tác giả chỉ xét theo việc có hoặc không, và tất cả năm yếu tố đều cho thấy sự tương xứng giữa hai quốc gia, hai dân tộc. Cách khẳng định sự độc lập này vì thế trở nên quý giá hơn, vừa chắc chắn vừa nâng cao vị thế của dân tộc ta ngang hàng với Đại Hán. Hơn nữa, các cụm từ như từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác, bao đời,… liên tục nhấn mạnh vào việc khẳng định sự độc lập, chủ quyền đã tồn tại từ lâu, như thể sự tồn tại của đế chế phương bắc vậy. Do đó, bản đại cáo bắt đầu với lời khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn 'không thể chối cãi' mà lịch sử đã xem xét và ghi chép.
Bình Ngô đại cáo đã ghi nhận một sự thật đầy tinh thần nhân nghĩa về độc lập. Sự độc lập đó không phải là do thiên định mà là do nhân quyết. Chính nhân dân bao đời là những người đã xây dựng nên sự độc lập. Bằng cách hiến dâng xương máu, chịu đựng gian khổ, và rơi nước mắt trong hàng nghìn năm. Do đó, đó là điều 'không thể xâm phạm'. Trong suốt sáu trăm năm tự chủ độc lập của đất nước, lần đầu tiên sự thật về chủ quyền dân tộc đã được tuyên bố mạnh mẽ, tự hào như vậy. Đó là nền tảng vững chắc, là cơ sở pháp lý và lý luận đủ để Nguyễn Trãi tiếp tục lên án những kẻ xâm phạm chủ quyền của nước ta.
Bản 'tuyên ngôn' Bình Ngô đã kết án tội ác của quân Minh đã gieo rắc tai họa cho dân ta suốt hai mươi năm. Từ âm mưu xấu xa đến hành động man rợ, bạo tàn, mà Nguyễn Trãi đã viết với lòng căm phẫn, uất ức:
Xấu xa hơn cả trúc Nam Sơn không ghi kỹ tội,
Bẩn thỉu hơn cả nước Đông Hải không dứt mùi hôi.
Trời đất nào mà dung tha cho,
Người nhân chịu nổi đâu thể.
Vậy mà nín lặng trước sự đau khổ, cả dân tộc đồng lòng đứng dậy:
Người dân bốn phương một nhà, dựng cờ cánh mũi trúc lên phấp phới;
Quân sĩ với lòng hiến dâng, hòa nước chén rượu ngọt lịm.
Cả bản đại cáo là một bản hành ca, bài ca anh hùng về những chiến công hùng hậu, vinh quang mà dân tộc đã cùng nhau chung tay, chung lòng tạo nên. Chỉ có sự thật về độc lập tự do mới mang lại khí thế, khao khát cháy bỏng như thế. Nguyễn Trãi chắc chắn đã chờ đợi, chờ đợi suốt bao nhiêu năm để tự mình viết lên những khoảnh khắc lịch sử không bao giờ phai nhạt ấy. Để một lần nữa ông khẳng định mạnh mẽ rằng cuộc chiến này, cuộc khang chống này bắt nguồn từ chính nghĩa. Sử dụng sức mạnh của chính nghĩa để tiêu diệt sự bạo lực phi nghĩa. Chiến thắng quân Minh năm xưa một lần nữa chứng minh rằng sự bất công sẽ không thể trụ vững trước sức mạnh của dân chúng tự do, của quyền lợi chủ quyền, và sự công bằng.
Vì vậy, sau những khó khăn và gian truân, dân tộc đã thu hoạch được 'quả ngọt':
Từ nay vững bền hơn,
Giang sơn từ nay thay đổi.
Kiền khôn qua bao gian khó,
Mặt trời và mặt trăng sáng tỏ.
Luôn luôn thái bình vững chắc,
Hết bao thế hệ vết nhục nhã sạch bỏ.
Giọng thơ vẫn lưu loát nhưng lại đầy uy nghi, toát lên sức mạnh. Vững bền, thay đổi, ổn định… những lời tuyên bố rực rỡ trong niềm vui, hạnh phúc. Quy luật của cuộc sống chính là qua bao gian khó mới đạt được thái độ ổn định, hạnh phúc, và bằng chứng rõ ràng cho điều này là sự nỗ lực của dân tộc qua các thế hệ để duy trì sự độc lập. Các khái niệm về vững bền, thay đổi, kiền khôn, mặt trời và mặt trăng tất cả dường như được phóng to lên đến quy mô vũ trụ, chỉ có vẻ đủ lớn để hiểu được cảnh thái bình. Chân lý về độc lập vẫn tiếp tục lan tỏa, mở rộng mãi. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi không quên biết ơn sự giúp đỡ từ trời đất và tổ tiên vô hình, điều này giúp có kết quả lớn như vậy. Tuyên bố còn chứa đựng đạo lý nhớ ơn gốc rễ. Do đó, tác giả của bản tuyên ngôn không chỉ là người có tài năng văn chương xuất chúng mà còn là người có đức tính phi thường. Giá trị về độc lập, chủ quyền của bản đại cáo được thiết lập trên nền tảng của nhân văn và truyền thống đạo lý như vậy.
Trước tác phẩm Bình Ngô đại cáo đã từng là một văn kiện lịch sử, và sau này nó được coi là một phần của 'văn chương hùng vĩ cổ điển', một tác phẩm văn chính luận bất hủ. Dù ở giá trị nào đi chăng nữa, không thể phủ nhận đóng góp to lớn của nó vào tư duy độc lập dân tộc có tầm quốc tế. Tầm vóc đó một lần nữa khẳng định rằng đây là một bản tuyên ngôn độc lập tự hào của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của toàn dân và khát vọng hòa bình của nhân loại.
Một lần nữa cảm ơn bạn đã chia sẻ. Tôi vui lòng sẵn lòng hỗ trợ bạn nếu bạn cần thêm thông tin hoặc có bất kỳ câu hỏi nào khác!
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã từng nhận định rằng 'Mỗi tác phẩm văn học đều phản ánh bóng dáng của thời đại mà nó ra đời'. Những kiệt tác văn học không chỉ mang ý nghĩa văn chương mà còn là một phần của lịch sử. 'Đại cáo Bình Ngô' không chỉ là một tác phẩm văn chương xuất sắc của Nguyễn Trãi, mà còn có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập.
Tuyên ngôn độc lập là văn bản khẳng định nền độc lập, chủ quyền của quốc gia, đặc biệt là sau chiến thắng trong cuộc chống lại sự xâm lược của ngoại bang. Vậy tại sao lại coi 'Đại cáo Bình Ngô' là một bản tuyên ngôn độc lập? Điều kiện cần cho một tác phẩm được xem là tuyên ngôn độc lập là phải ra đời trong hoặc sau một cuộc chiến. Đồng thời, nó phải khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc, tuyên bố chiến thắng và mong muốn hòa bình. Bằng chứng và lý lẽ phải sắc bén, hùng tráng và hoàn toàn chính xác.
'Đại cáo Bình Ngô' đáp ứng đầy đủ những yêu cầu trên. Đầu tiên, về hoàn cảnh ra đời. Tác phẩm xuất hiện trong một thời điểm lịch sử quan trọng của dân tộc. Năm 1428, sau khi đánh bại quân Minh, theo sự ra lệnh của Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài cáo để thông báo về chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Sau hai mươi năm chiến tranh và ách đô hộ của quân thù, chúng ta đã giành lại độc lập và khôi phục hòa bình. 'Đại cáo Bình Ngô' là ca ngợi, mở ra một kỷ nguyên mới của dân tộc, một kỷ nguyên độc lập và tự do hoàn toàn, trở thành một bản hành động trong lịch sử.
Về nội dung, bài cáo là sự khẳng định mạnh mẽ về độc lập, chủ quyền và chiến thắng hào hùng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, Nguyễn Trãi đã ca ngợi tinh thần nhân nghĩa. Điều này làm nổi bật sự thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
'Tình thương dân chủ từ lòng người
Quân dũng phạt trước cảnh tà ác'
Theo triết lý Nho gia, Nguyễn Trãi cho rằng nhân nghĩa là yên lành cho dân chúng, làm cho họ sống an vui, yên bình và hạnh phúc. Để làm điều này, trong bối cảnh đất nước bị xâm lược và áp bức bởi kẻ thù ngoại bang, việc loại trừ chúng là cần thiết. Cụ thể, trong tình hình lúc đó, điều cần làm là loại trừ quân Minh xâm lược. Chỉ khi làm được cả hai điều này, chúng ta mới thực sự thực hiện được tư tưởng nhân nghĩa đích thực. Độc lập của dân tộc phụ thuộc rất lớn vào sự cống hiến của nhân dân. Họ đã dày công xây dựng và bảo vệ nền độc lập này qua hàng ngàn năm, với nhiều đổ máu, mồ hôi và đồng lòng chung tay chống giặc.
Nguyễn Trãi đã đề xuất một quan điểm nhân văn sâu sắc, từ đó, khẳng định sự độc lập của dân tộc:
'Như nước Đại Việt từ xưa
Vẫn tự hào nền văn hiến
Núi sông bờ cõi vẫn chia
Phong tục Bắc Nam vẫn khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần đã đóng góp cho nền độc lập
Cùng với Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên tự xưng vua một nơi
Dù mạnh yếu khác biệt
Nhưng hào kiệt luôn tồn tại'
Với dẫn chứng hùng biện và mạnh mẽ, Nguyễn Trãi liệt kê một loạt các yếu tố để khẳng định mạnh mẽ sự độc lập của dân tộc. Đó là 'nền văn hiến', 'núi sông bờ cõi', 'phong tục', 'lịch sử' và 'hào kiệt'. Trong khi Lý Thường Kiệt chỉ nhấn mạnh vào khía cạnh lãnh thổ trong 'Nam Quốc Sơn Hà', Nguyễn Trãi lại đi sâu vào các khía cạnh cụ thể và có chứng cứ lịch sử rõ ràng không thể phủ nhận. Các cụm từ như 'từ xưa', 'vẫn', 'đã lâu', 'vẫn chia', 'đã đóng góp qua các thời kỳ', 'cùng với' liên tục nhấn mạnh sự tồn tại lâu dài của dân tộc Đại Việt trong lịch sử. Sự độc lập và chủ quyền của dân tộc đã tồn tại từ lâu, hoàn toàn rõ ràng và khác biệt, không thể nhầm lẫn với bất kỳ quốc gia nào khác.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn nhắc đến hàng loạt triều đại của nước ta như 'Triệu, Đinh, Lý, Trần' song song với các triều đại của phương bắc như 'Hán, Đường, Tống, Nguyên'. Lịch sử ghi lại rằng, khi Trung Quốc tự xưng là hoàng đế, các quốc gia lân cận chỉ được phép xưng vương. Tuy nhiên, từ thời nhà Ngô, dân ta cũng đã có hoàng đế riêng. 'Mỗi bên tự xưng vua một nơi', dân tộc ta đã tự tin đứng ngang hàng, không hề thua kém.
Với những yếu tố ấy, Nguyễn Trãi đã nâng cao chân lý độc lập và xác định vị thế của dân tộc. 'Đại cáo Bình Ngô' chính vì lẽ đó đã khởi đầu mạnh mẽ.
Nền độc lập dân tộc, với lý lẽ và dẫn chứng rõ ràng, trở nên vô cùng thánh thiện và 'không thể xâm phạm'. Chân lý chủ quyền dân tộc vươn lên với sự mạnh mẽ và tự hào. Đồng thời, cũng trở thành nền tảng pháp lý để Nguyễn Trãi lên án những kẻ bạo ngược đã ganh tị xâm phạm chủ quyền của nước ta:
'Kẻ ác từ núi Nam Sơn không thể ghi hết tội lỗi,
Và lấy bùn từ biển Đông Hải không thể rửa sạch dơ bẩn.
Chẳng lẽ trời đất dung tha được điều ấy,
Chẳng lẽ thế gian này chịu đựng kẻ bất nhân'
'Đại cáo Bình Ngô' đã vạch trần toàn bộ tội ác của kẻ thù giặc Minh xâm lược. Trong hai thập kỷ qua, nhân dân ta sống trong đau khổ và thống khổ vì những âm mưu độc ác, những hành động tàn bạo, vô nhân tính. Có bao nhiêu tội ác cũng không thể kể hết.
Nguyễn Trãi đã mạnh mẽ lên án tội ác của giặc Minh, tạo nên một bản án cứng rắn với kẻ thù. Bài cáo khẳng định hành động của địch là phi nghĩa, cuộc chiến của chúng ta là chính nghĩa, tạo ra sự đồng cảm và tăng cường tính thuyết phục cho bản tuyên ngôn. Vị tướng sĩ tài ba của dân tộc đã viết lên những điều này với lòng căm phẫn, uất hận dâng trào, khiến lòng người rộn ràng phẫn nộ.
Tuy nhiên, dù đau khổ vẫn không thể ngăn cản bước tiến của dân tộc anh hùng. Toàn dân đoàn kết, cùng nhau nắm tay nhau, đã làm nên chiến thắng trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
'Dân tộc bốn phương hòa một nhà, cầm cờ bắc trúc gió phấp phới;
Quân tướng hiếu chiến, đều hòa cùng nước, rượu chén ngọt ngào.'
Dù giai đoạn ban đầu gặp nhiều khó khăn nhưng cuối cùng, chiến thắng đã thuộc về dân tộc chúng ta. Bằng tuyên bố về chiến thắng, bài cáo đã thể hiện niềm kiêu hãnh, niềm tự hào sâu sắc của dân tộc. Đồng thời, nó cũng tôn vinh tính chính nghĩa của cuộc chiến này. Chiến thắng trước giặc Minh là biểu hiện rõ ràng của sự trừng phạt công bằng đối với những kẻ bạo ngược, xâm phạm chủ quyền của dân tộc ta.
Kết thúc bản 'tuyên ngôn', Đại cáo Bình Ngô đi đến tuyên bố về hòa bình dân tộc:
'Từ nay, xã tắc sẽ vững bền hơn,
Giang sơn từ nay sẽ được đổi mới.
Quan kiến sẽ bĩ rồi lại thái,
Mặt trời và mặt trăng sẽ hối lại sáng rỡ.
Luôn luôn, nền thái bình sẽ vững chắc,
Ngàn vết nhục nhã sẽ được gạt bỏ khỏi lịch sử'
Đó là 'trái ngọt, hoa thơm' của cuộc đấu tranh gian khổ, khó khăn. Mỗi câu từ, mỗi chữ vút lên cao, vang dội, tuyên bố về nền hòa bình 'vững bền, đổi mới, vững chắc'. Hình ảnh về 'xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt' như một bức tranh thể hiện cảnh vật thái bình tuyệt đẹp. Đặc biệt trong đó còn chứa đựng sự biết ơn 'trời đất tổ tiên khôn thiêng ngầm giúp' và đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Ngoài yếu tố về nội dung, Đại cáo Bình Ngô còn được xem là một bản tuyên ngôn độc lập về mặt nghệ thuật. Bài viết theo dạng văn biền ngẫu, lập luận chặt chẽ, đầy thuyết phục. Từ cơ sở lý luận của tư tưởng nhân nghĩa và chân lý về độc lập chủ quyền, đến việc phơi bày tội ác của giặc và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn rồi tuyên bố về nền hòa bình. Lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục kết hợp với giọng điệu hào hùng, đanh thép, hùng tráng. Các biện pháp nghệ thuật khéo léo cùng những câu văn dài ngắn, linh hoạt. Bài viết đã khẳng định độc lập chủ quyền, chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn và nền hòa bình dân tộc. Đồng thời, nó cũng ca ngợi tinh thần yêu nước và tầm vóc tư tưởng, tài năng của Nguyễn Trãi.
Với những thành công đó, Đại cáo Bình Ngô thực sự là một bản tuyên ngôn mang nhiều giá trị sâu sắc của dân tộc. Qua nhiều năm, nó vẫn đứng vững trong văn học, lịch sử của Việt Nam. Mỗi khi bài viết vang lên, nhân dân Việt Nam lại cảm nhận trong lòng tiếng nói của Tổ quốc.
Bài làm mẫu 3
Nếu thế kỷ XI, lũ giặc Tống kinh sợ khi nghe bài thơ 'Thần Nam quốc sơn hà' vang lên dọc theo bờ sông Như Nguyệt; hoặc thế kỷ XX, thực dân Pháp không còn lý do nào để giữ lại 'mẫu quốc, khai hóa' An Nam sau khi nghe những lời kiên quyết của Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập, thì ở thế kỷ XV, sao chúng ta có thể quên bản 'thiên cổ hùng văn' Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Xuất hiện sau chiến thắng giặc Minh của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, bài viết đã nâng cao tinh thần độc lập dân tộc, tình yêu nước, và vẫn còn ghi nhớ mãi trong lòng dân tộc.
Một tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập thì trước hết phải được viết trong hoặc sau một cuộc chiến. Nội dung của bản tuyên ngôn luôn có ba phần: khẳng định độc lập, chủ quyền dân tộc; tuyên bố chiến thắng; tuyên bố hòa bình. So với những tiêu chuẩn này, Bình Ngô đại cáo đáp ứng đầy đủ. Sau khi đánh bại quân Minh, vào mùa xuân năm 1428, theo lệnh của vua Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết bài diễn thuyết để tuyên bố nền độc lập dân tộc, chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và tuyên bố nền hòa bình sau hai mươi năm chịu cảnh ách đô hộ và chiến tranh. Do đó, bài diễn thuyết bất diệt này trở thành một bước ngoặt quan trọng, mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên độc lập, tự do hoàn toàn.
Với lối văn nghệ thuật mạch lạc, giọng điệu hùng tráng, Bình Ngô đại cáo bắt đầu bằng những lời khẳng định mạnh mẽ rằng 'Đại Việt là quê hương của chúng ta':
'Như nước Đại Việt ta từ lâu
…
Thế hào kiệt đã nắm tay nào.'
Với cách liệt kê nhiều yếu tố như lịch sử, văn hiến, địa lý, phong tục và nhân vật lịch sử, đã thể hiện rõ sự độc lập của quốc gia. Lý Thường Kiệt chỉ khẳng định lãnh thổ trong Nam quốc sơn hà, nhưng Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đã nâng cao ý nghĩa của độc lập dân tộc lên một tầm cao mới, không mơ hồ. Sự thuyết phục trong việc khẳng định chủ quyền và độc lập được thể hiện qua so sánh giữa Đại Việt và Đại Hán. Không quan trọng là yếu tố nào mạnh hơn, mà là sự tồn tại của cả hai quốc gia. Do đó, cách khẳng định chân lý độc lập của Nguyễn Trãi đã tăng thêm giá trị và vị thế của dân tộc chúng ta, đứng ngang hàng với Đại Hán. Bên cạnh đó, việc sử dụng các từ ngữ như từ xưa, lâu đời, truyền lại từ đời này sang đời khác, … đã càng làm nổi bật ý nghĩa của việc khẳng định chủ quyền, độc lập đã tồn tại từ lâu, như sự hiện diện của Đế quốc phương Bắc. Do đó, bài diễn thuyết bắt đầu với những lời khẳng định chắc chắn, 'không thể bác bỏ', được lịch sử đã từng chứng minh, đã được ghi chép.
Bình Ngô đại cáo đã thể hiện một chân lý độc lập đầy tinh thần nhân nghĩa. Độc lập không phải là điều được thiên định mà là do sự xác định của con người. Chính nhân dân là những người đã xây dựng nền độc lập. Bằng xương máu, sự đoàn kết và hy sinh, bằng nước mắt và mồ hôi của nhân dân hàng thế kỷ. Do đó, điều này là 'không thể xâm phạm'. Trong sáu trăm năm lịch sử, lần đầu tiên chân lý chủ quyền dân tộc được tuyên bố một cách tự tin, kiêu hùng và tự hào đến thế. Đó chính là nền tảng vững chắc, cơ sở lý luận, pháp lý xứng đáng để Nguyễn Trãi tiếp tục lên án những kẻ bạo ngược đã cố ý xâm phạm chủ quyền của đất nước ta.
Bản 'tuyên ngôn' Bình Ngô đã rõ ràng kết án tội ác của giặc Minh đã gây ra tai hại cho dân ta suốt hai mươi năm qua. Từ kế hoạch tàn ác đến những hành động tàn bạo, đáng ghê tởm mà Nguyễn Trãi đã phê phán trong sự căm hận và uất nghẹn:
Trúc Nam Sơn độc ác không thể che giấu tội ác,
Nước Đông Hải bẩn thỉu không thể tẩy sạch vết bẩn.
Có lẽ trời đất cũng không dung thứ,
Đối với những hành động của kẻ tàn bạo kia.
Và với nỗi đau ấy, dân tộc đã đoàn kết đứng lên:
Đồng lòng nhân dân, từ bốn phương hội tụ dưới một mái nhà, đặt cành cờ cao phấp phới;
Chính trị sĩ cùng dân lành, lòng nhân từ bi, hòa bình đến tận sâu trong trái tim.
Bản đại cáo là một bản tráng ca, một bài hát anh hùng về những chiến công vĩ đại, danh vọng mà dân tộc đã cùng nhau vượt qua. Chỉ có độc lập và tự do mới mang lại động lực, khát vọng mãnh liệt như thế. Nguyễn Trãi đã đợi, đợi suốt bao nhiêu năm để tự mình viết lên những trang sử không bao giờ phai nhạt. Để một lần nữa ông khẳng định mạnh mẽ rằng cuộc chiến này, sự đoàn kết này bắt nguồn từ chính nghĩa. Sử dụng sức mạnh của chính nghĩa để chống lại bạo lực phi nghĩa. Chiến thắng giặc Minh một lần nữa là một bài học cho những kẻ xâm lược, vi phạm chủ quyền, tham vọng lớn phải chịu trừng phạt.
Sau những cực nhọc và vinh quang, dân tộc đã thu hoạch được 'quả ngọt':
Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bĩ rồi lại thái,
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch lầu.
Lời thơ có phần tĩnh lặng nhưng vẫn cao trào, vang dội. Vững bền, đổi mới, vững chắc… là những lời tuyên bố tràn đầy hào sảng trong niềm vui, sự hân hoan. Quy luật của cuộc sống là như vậy bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, nhưng chắc chắn vượt qua được quy luật ấy là nỗ lực của cả dân tộc qua bao thế hệ để bảo vệ nền độc lập. Các hình ảnh xã tắc, giang sơn, kiền khôn, nhật nguyệt ngày càng trở nên trọng đại như sức mạnh vũ trụ, dường như chỉ có thể đo lường được cảnh thái bình. Chân lý độc lập vẫn tiếp tục vang xa, vang rộng mãi. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi không quên ơn sự giúp đỡ, hỗ trợ của trời đất tổ tiên khôn thiêng ngầm. Lời tuyên bố còn mang trong đó đạo lý uống nước nhớ nguồn. Do đó, tác giả của bài cáo không chỉ tài năng xuất chúng mà còn đức độ vô biên. Giá trị độc lập, chủ quyền của bản đại cáo được thiết lập bởi những tư tưởng nhân văn, truyền thống đạo lý gốc rễ như vậy.
Trước tác phẩm của Bình Ngô đại cáo đã được coi là một tài liệu lịch sử và sau đó tác phẩm này còn được xem là một văn kiện lịch sử vĩ đại, một tác phẩm văn chính luận bất hủ. Dù ở giá trị nào đi nữa, không thể phủ nhận những đóng góp quan trọng của nó vào hệ tư tưởng độc lập dân tộc có tầm quốc tế. Tầm quan trọng ấy của nó một lần nữa khẳng định rằng đây là một bản tuyên ngôn độc lập đầy tự hào của dân tộc Việt Nam, thể hiện lòng yêu nước sâu sắc của toàn dân và khát vọng hòa bình của tất cả loài người.
Bài viết mẫu 4
Khi nhắc đến Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, ta liền nghĩ đến một sự kiện lịch sử quan trọng, một khúc tráng ca cao cả về một đất nước đã trải qua hai mươi năm gian khổ do ách đô hộ và chiến tranh chống Minh. Tác phẩm này thể hiện tình yêu nước sâu sắc, ý chí quật cường của dân tộc sống trong những ngày tháng đau khổ, vinh quang. Bình Ngô đại cáo được viết bằng nghệ thuật văn chương cao siêu của Nguyễn Trãi, là một trong những tác phẩm văn chương lịch sử vĩ đại nhất trong thời Trung cổ.
Áng 'thiên cổ hùng văn' nghĩa là một tác phẩm văn chương hùng tráng được truyền bá qua hàng nghìn đời. Để có danh hiệu này, tác phẩm đó phải xuất sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Nó cũng phải mang giá trị lịch sử, tư tưởng lớn lao, để lại dấu ấn và ý nghĩa vĩnh cửu. Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm văn chương bất hủ như vậy.
Dân tộc ta luôn tự hào về Bình Ngô đại cáo, một tác phẩm văn chương hùng vĩ. Tác phẩm đã khơi gợi tình yêu nước, lòng tự hào dân tộc, khát vọng hòa bình và ý chí bất khuất trên con đường bảo vệ quê hương. Nguyễn Trãi đã biểu hiện sự quyết đoán, vững chắc trong đoạn mở đầu:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân nghĩa không chỉ là một tư tưởng đạo Nho, mà còn là cách hành xử đẹp giữa con người với nhau. Nhưng Nguyễn Trãi đã nâng cao ý nghĩa của nó, biến nó thành một lý tưởng xã hội, một đạo lý dân tộc vĩnh cửu. Điều quan trọng là, việc giết giặc Minh để trừ bạo không chỉ là một biện pháp bảo vệ dân chúng khỏi nguy hiểm mà còn là sự thực hiện của tư tưởng 'dân vi bản'. Điều này cho thấy sự kiêu hãnh, can đảm trong việc khẳng định chủ quyền, độc lập dân tộc:
Như từ lâu, Đại Việt tồn tại
…
Vẻ hùng mạnh luôn hiện hữu.
Khí chất tự chủ được thể hiện qua sự so sánh mới lạ và đầy ý nghĩa. Đây là giá trị vô cùng quan trọng ở mọi thời điểm, đối với mọi dân tộc. Nhưng vào thời điểm đó, cách thể hiện chủ quyền đối với cường quốc phương Bắc là một đòn đánh mạnh mẽ vào những kẻ gây hại cho dân tộc ta.
Còn những căm hờn, uất nghẹn đối với tội ác lớn lao của những kẻ xâm lược và phản bội. Làm sao chúng ta có thể quên những cảnh tượng đau lòng:
Ngọn lửa khát máu thiêu đốt dân thường
Hầm tai vạ chôn vùi hồn quê.
Suốt hai mươi năm, nhân nghĩa bị bóp nát, đất trời tan hoang, từ con người đến cả loài cây cỏ cũng bị tàn phá. Tội ác đó không thể được xóa nhòa, vết thương còn đó mãi. Mỗi hình ảnh, mỗi góc nhìn, mỗi góc đất đều chứa đựng bi kịch dưới bàn tay của kẻ độc ác… Làm sao chúng ta có thể quên? Nguyễn Trãi đã đụng vào nỗi đau sâu thẳm đó, nhận ra rằng không chỉ giặc Minh, mà cả những kẻ khác cũng gây ra bi kịch cho dân tộc. Vì thế, nỗi đau kia không chỉ là của riêng mình, mà là của toàn bộ dân tộc, và từ đó, ý thức được trách nhiệm phải bảo vệ quê hương đã nảy nở.
Hơn thế nữa, còn có sự lo lắng, bận tâm cho tương lai của đất nước với tấm lòng yêu nước, quan tâm đến nhân dân. Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Trãi dành hơn hai mươi câu văn để ca ngợi về vị lãnh tụ Lê Lợi. Một bậc anh hùng xuất thân từ cuộc sống của nhân dân. Từ người bình thường đến cách gọi tên gần gũi, Lê Lợi chịu đựng nỗi đau của dân tộc như của riêng mình, ganh tỵ và quyết tâm trả thù giặc như dân mình, mong muốn vượt qua mọi thử thách, gian khổ để đánh bại kẻ thù như dân mình. Từ sự thấu hiểu, lòng nhân từ đến hành động, vị lãnh đạo đó đã biến yếu thành mạnh, lợi dụng ít hỗ trợ nhiều, sáng tạo ra những chiến thuật xuất sắc, từng bước tiến tới những chiến thắng huy hoàng. Tuy nhiên, khi đọc Bình Ngô đại cáo, ai cũng sẽ nhận ra rằng, quân ta chiến thắng không chỉ vì có những ưu điểm về chiến lược, mà còn nhờ vào lòng dũng cảm của cả dân tộc, tất cả đều đoàn kết như một gia đình, tướng lĩnh đều kiên định với tinh thần:
'Thắng bằng lòng nhân, đánh bại tàn bạo'
Lý tưởng cao cả, lòng nhân ái – đó không chỉ là nguyên tắc hướng dẫn, mà còn là ngọn lửa chiếu sáng cho dân tộc ta tạo nên những chiến công vĩ đại sau này. Và mãi mãi, tư tưởng này sẽ luôn là động lực cho tinh thần đấu tranh chính nghĩa của Đại Việt trước mọi kẻ thù.
Hoặc cả tinh thần quyết liệt, sôi nổi trong những ngày tháng chiến đấu oai hùng. Có lẽ, vẻ hùng vĩ của bản đại cáo được thể hiện rõ nhất trong đoạn miêu tả về sự kiện lịch sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân Minh. Liên tiếp các trận đánh, liên tiếp các cuộc phản công của chúng ta cũng là liên tiếp các trận thua của kẻ thù. Bắt đầu từ xứ Nghệ, xứ Thanh rồi đến Đông Đô, Thăng Long, khung cảnh trận chiến dữ dội với âm thanh vang vọng, sét đánh, lửa bốc cháy, máu chảy thành sông, thể hiện sự kiêng nể, trách nhiệm, lòng dũng cảm, sự phấn đấu không ngừng nghỉ của dân tộc. Chúng ta tiếp tục tiến lên, phá vỡ mọi chướng ngại, chặn đứng mọi nỗ lực của kẻ thù. Kẻ thù hiện lên hoàn toàn trái ngược với quá khứ. Trước đó, chúng phô trương, kiêu căng, đầy quyền uy, nhưng bây giờ chúng im lặng, yếu đuối, tìm cách thoát khỏi trận địa, mong muốn sự sống còn, nhưng không thành. Nguyễn Trãi đã tái hiện một cách hoàn hảo nhất bức tranh đắng cay, nhục nhã của kẻ thù. Tuy nhiên, điều đáng ngưỡng mộ, kính trọng trong chiến thắng của chúng ta là khả năng chiến thắng mà không làm hại đối phương. Việc dừng lại đúng lúc, không tiến quân thêm, đó là lòng nhân từ, đại nghĩa. Chiến thắng ấy mới thực sự trở thành truyền thuyết, không thể bị lãng quên trong lịch sử dân tộc. Âm vang của những thời kỳ hào hùng cũng là do đó mà được kéo dài suốt hàng nghìn năm.
Cuối cùng, cảm xúc tràn đầy thành lời ca hào hứng, trang trọng, hạnh phúc, vui mừng vì đất nước hoàn toàn độc lập, tự do. Ước mơ về hòa bình giờ đây đã trở thành hiện thực. Người viết không khỏi xúc động!
Thậm chí, có cả sự lo lắng, bận tâm cho tương lai của đất nước, với tấm lòng yêu nước, thương dân trìu mến. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Trãi dùng hơn hai mươi câu văn để tôn vinh vị lãnh tụ Lê Lợi. Một hình mẫu anh hùng phát sinh từ cuộc sống của nhân dân. Từ người thường dân đến cách gọi gần gũi, Lê Lợi chịu đựng nỗi đau của dân tộc như là của riêng mình, ganh tỵ và quyết tâm trả thù kẻ thù như dân mình, khát khao vượt qua mọi gian khó, khó khăn để đánh bại kẻ thù như dân mình. Từ sự thấu hiểu, lòng nhân từ đến hành động, vị lãnh tụ ấy đã biến yếu thành mạnh, tận dụng ít hỗ trợ để đạt được nhiều, sáng tạo ra những chiến thuật độc đáo, từng bước tiến tới những chiến thắng lẫy lừng. Tuy nhiên, khi đọc Bình Ngô đại cáo, ai cũng sẽ hiểu rằng quân đội của chúng ta chiến thắng không chỉ vì có lợi thế về chiến lược, mà còn nhờ vào sự đoàn kết của cả dân tộc, tất cả đều đứng chung một lòng, các tướng lĩnh đều vững vàng với tinh thần:
'Dùng truyền thống để đánh bại quân thù hung ác'
Từ nay vững bền, xã tắc
Giang sơn đổi mới từ đây.
Thái lại bĩ rồi khôn kiền,
Hối rồi lại minh nguyệt nhật.
Vững chắc bình thái nền muôn thuở,
Nhục nhã vết thu sạch làu ngàn.
Quy luật của tồn tại, thịnh suy như vậy, nhưng vẫn phải bắt đầu từ sự đoàn kết, đồng lòng của nhân dân tướng sĩ, từ tài năng vượt trội của những anh hùng, từ nền tảng trọng nhân ái, ủng hộ hòa bình. Điểm tựa này đã tồn tại từ hàng trăm năm trước và vẫn giữ vững cho hàng trăm năm sau, như một lời nhắc nhở.
Chính là Bình Ngô đại cáo, khúc ca hoàn hảo, bài ca anh hùng sáng rực một thời đã tụ hợp biết bao cảm xúc như tiếng chuông vang xa, gợi nhớ từ quá khứ, khiến cho chúng ta ở mọi thời đại đều tự hào, kiêu hãnh. Nguyễn Trãi đã biến một tài liệu lịch sử khô khan, cứng nhắc, đầy lệnh lẽ, trở thành một tác phẩm văn học hùng vĩ, sáng tạo và có giá trị vĩnh cửu.
Tuy nhiên, ý nghĩa 'văn học anh hùng' của tác phẩm còn thể hiện ở nghệ thuật viết văn chính luận tài tình, xuất sắc của Nguyễn Trãi. Điều đặc biệt của Đại cáo Bình Ngô là đã đưa nghệ thuật viết văn chính luận trung đại lên một tầm cao mới, một cấp độ của các nhà văn mẫu mực. Bản đại cáo hướng tới nhân dân bá tánh Đại Việt để tuyên bố về độc lập sau chiến thắng quân Minh. Mặc dù chiến tranh đã kết thúc nhưng tính chiến lược của nó vẫn rõ ràng. Nhà văn vẫn nhắm mục tiêu vào kẻ thù, vào quyền lực mạnh mẽ mà hàng thế hệ luôn quan sát. Độc lập là quyền không thể xâm phạm, không chỉ quân đội Lam Sơn đã thành công trong việc bảo vệ mà còn từ đời này sang đời khác. Vì vậy, bài cáo lại một lần nữa chiến đấu mạnh mẽ với kẻ thù trên trường quốc tế. Chúng ta có đủ cơ sở để thiết lập chủ quyền, đã kiên cường đứng lên chiến đấu để bảo vệ. Chiến thắng của chúng ta là hiển nhiên, thất bại của kẻ thù không còn gì để bàn cãi. Bản cáo vang lên như một lời tuyên án cuối cùng tại tòa án lý trí. Lời tuyên án đó cứng rắn, hùng hồn chạm sâu vào lòng của dân tộc Việt mãi mãi.
Ngoài ra, bản đại cáo có một kết cấu vô cùng chặt chẽ. Bắt đầu từ cơ sở lý luận khẳng định chân lý chính nghĩa vĩnh cửu, vạch trần tội ác của kẻ thù để khẳng định sự cần thiết của cuộc chiến đấu để bảo vệ chân lý ấy. Nguyễn Trãi đã đặt nền móng vững chắc và từ từ xây dựng những tường thành vững chãi về quá trình bảo vệ độc lập của nhân dân ta. Lối viết phong phú của Nguyễn Trãi rất tinh tế. Sự đối xứng trong từng câu văn kết hợp với sự tương phản, những ước lệ sâu sắc đã tạo ra một bức tranh lịch sử tráng lệ, hùng vĩ. Luận điệu trong cáo phong phú khi lấy tư tưởng nhân nghĩa làm nền tảng. Mọi ý kiến triển khai đều dựa trên tư tưởng này. Vì vậy, chúng ta mới nhận ra được bộ mặt xảo trá, thâm độc của kẻ thù, mới nhận ra cuộc kháng chiến đầy gian khổ mà hào hùng của dân tộc là chính nghĩa. Từ nhân nghĩa, đất nước được hòa bình là điều không thể thiếu. Ngôn ngữ của bản cáo cũng là một trong những yếu tố làm nên giá trị, vì nó phong phú trong việc tạo hình, tạo ra nhiều sắc thái giọng điệu mang lại nhiều cảm xúc. Tuy nhiên, một trong những yếu tố quan trọng giúp bản cáo tồn tại mãi mãi là việc dịch văn bản rất thành công, đã chuyển tải một cách toàn vẹn cảm xúc từ văn bản gốc để thế hệ sau có thể cảm nhận dễ dàng.
Để kết thúc, hãy để tôi mượn lời của nhà thơ Xuân Diệu: 'Trước Lê Lợi, đã từng có chiến thắng mãnh liệt xua đuổi quân Nguyên xâm lược trong thời nhà Trần, và sau Lê Lợi, chiến thắng thần tốc của vua Quang Trung khiến 20 vạn quân Thanh phải rút lui, nhưng trong văn chương sử sách, chỉ có một văn bản vĩ đại là Đại cáo Bình Ngô, vì không có ba Nguyễn Trãi để viết ba bức văn khải hoàn như lịch sử yêu cầu ở ba giai đoạn khác nhau, mà chỉ có một Nguyễn Trãi cụ thể, hiệu Ức Trai, ở đầu triều Lê với tài năng chiến thuật và uyên bác, đã có khả năng viết văn xuất sắc'.
............
Tải tài liệu để biết thêm thông tin về sự độc lập được tuyên bố trong Đại cáo Bình Ngô