TOP 7 Mẫu Chứng Tỏ Bình Ngô Đại Cáo là Đỉnh Cao Thiên Cổ Hùng Văn dưới đây mà Mytour giới thiệu sẽ là Tư Liệu Cực Kì Hữu Ích với các bạn Học Sinh Lớp 10. Với 7 Mẫu Chứng Tỏ Bình Ngô Đại Cáo là Đỉnh Cao Thiên Cổ Hùng Văn giúp các bạn nắm được các Luận Điểm, Luận Cứ Rõ Ràng, Rành Mạch. Từ đó biết cách Trình Bày, Sắp Xếp các Lí Lẽ để làm nổi bật Vấn Đề cần Chứng Tỏ, Giải Thích.

Đọc Đỉnh Cao Thiên Cổ Hùng Văn, chúng ta mới phần nào Cảm Nhận Được Sức Mạnh Hơn Mười Vạn Quân từ mỗi trang Nghị Luận của Nhà Tư Tưởng, Nhà Văn Kiệt Xuất Nguyễn Trãi. Vậy sau đây là 7 Bài Văn Mẫu Chứng Tỏ Đại Cáo Bình Ngô là Đỉnh Cao Thiên Cổ Hùng Văn, mời các bạn cùng đón đọc nhé.
Dàn Ý Chứng Tỏ Bình Ngô Đại Cáo là Đỉnh Cao Thiên Cổ Hùng Văn
1. Khai Mở
– Khi nói đến những bản Tuyên Ngôn Độc Lập đầy Hào Hùng của Dân Tộc, không thể không nhắc đến Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi.
– Đây không chỉ là bản Tuyên Ngôn Độc Lập thứ hai của Dân Tộc mà còn là Đỉnh Cao Thiên Cổ Hùng Văn Đặc Sắc, giàu giá trị.
2. Thân Bài
* Ý Nghĩa của “Thiên Cổ Hùng Văn”: Những Bài Văn Cổ mang âm điệu hùng tráng, hào hùng viết về những vấn đề lớn trong Lịch Sử Dân Tộc, được lưu truyền hàng ngàn năm nay.
* “Bình Ngô Đại Cáo Là Đỉnh Cao Thiên Cổ Hùng Văn” Vì:
– Tóm tắt nội dung bản cáo, tỏ ra mạnh mẽ về chiến thắng của nhà vua tôi thuộc triều đại Lê.
– Thể hiện ý chí độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam.
– Khẳng định quyết tâm bảo vệ chủ quyền của nhân dân trước kẻ thù xâm lăng.
– Mỹ thuật trong bản cáo:
+ Sử dụng ngôn từ chính luận mạnh mẽ kết hợp với lối văn trữ tình.
+ Thay đổi giọng điệu linh hoạt.
+ Sử dụng các phương pháp nghệ thuật tinh tế và từ ngữ chọn lọc.
=> Tạo nên vẻ trầm hùng trong cách thể hiện của bài cáo.
* Phân Tích Chi Tiết:
– Nguyễn Trãi khẳng định nhân nghĩa là một trong những lí tưởng quan trọng nhất trong cuộc khởi nghĩa: “Nhân Nghĩa... hào kiệt đời nào cũng có”.
– Phê phán quyết liệt trước tội ác của quân Minh: “Đốt nhà làng… không tránh mùi hôi”.
– Tường thuật tóm gọn sự tiến triển của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu khởi binh đến thời điểm bùng nổ cuộc chiến: “Núi Lam Sơn nổi dậy… đang mạnh”; những khó khăn ban đầu “Vẫn khó khăn… muốn tiến về phía Đông”; sự đối lập giữa tình hình của chúng ta và quân địch: Trong khi chúng ta “Vẫn kiên trì… suốt hàng nghìn năm”, chiến thắng ở nhiều trận quyết định “Mùi Đinh Mùi tháng chín… và vẫn còn bền bỉ”, trong khi quân địch lại hổ thẹn, khuất phục “Gươm nhọn đá… gió thổi phải thay”.
– Niềm hạnh phúc không gì bằng khi nhìn thấy tự do độc lập của dân tộc, khẳng định quyền tự do của dân tộc Đại Việt: “Từ đây hết thảy… thay đổi”.
3. Kết luận
Xác nhận một lần nữa tính đúng đắn của nhận xét “Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là một kiệt tác thiên cổ hùng văn”.
Chứng minh Bình Ngô Đại Cáo là một kiệt tác thiên cổ hùng văn - Mẫu 1
Trong văn chương trung đại của Việt Nam, Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn chính luận xuất sắc nhất. Ông để lại một khối lượng văn chính luận đáng kinh ngạc, trong đó Bình Ngô Đại Cáo được coi là một tác phẩm văn chính luận vĩ đại nhất trong văn chương chữ Hán cổ điển của nước ta.
Có thể hiểu “thiên cổ hùng văn” như là một bản văn hùng tráng vĩ đại mãi mãi. Trước Nguyễn Trãi, thời kỳ Lý – Trần đã có những tác phẩm văn chính luận nổi tiếng như Chiếu dời đô (Lí Công Uẩn), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn). Tuy nhiên, chỉ khi Bình Ngô Đại Cáo xuất hiện, tính hùng ca mới thể hiện một cách toàn diện từ quan điểm tư tưởng đến các phương thức nghệ thuật. Từ nguồn cảm hứng vĩ đại của nhà văn, Đại cáo không chỉ là một bản tuyên ngôn thông thường mà còn là một bản tuyên ngôn to lớn về chủ quyền độc lập của dân tộc, là một bản cáo trạng tội ác của kẻ thù, và là một bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Tính chất hùng tráng cũng được thể hiện trong quy mô và cấu trúc của Bình Ngô Đại Cáo. Dễ nhận thấy rằng, Đại cáo là một bản văn dài, với nội dung phong phú, được chia thành bốn phần có số thứ tự như trong văn bản, mỗi phần có một tâm điểm quan trọng. Phần đầu tiên nhấn mạnh vào ý nghĩa của nhân nghĩa và chân lí độc lập của dân tộc; phần thứ hai tố cáo và chỉ trích tội ác của quân Minh; phần thứ ba kể lại diễn biến của cuộc chiến từ khi bắt đầu đến chiến thắng hoàn toàn, đề cao sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa và lòng yêu nước; phần thứ tư tuyên bố chiến thắng, rút ra bài học từ lịch sử.
Bình Ngô Đại Cáo xứng đáng là một tác phẩm văn học hùng vĩ “thiên cổ hùng văn” bởi nó chứa đựng những tư tưởng to lớn của Nguyễn Trãi. Ý nghĩa chính của tác phẩm là tư tưởng nhân nghĩa. Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đầu tiên là bảo vệ dân, giúp dân tránh khỏi bạo lực, nhân nghĩa cũng là chống lại sự xâm lược. Quân đội đánh quân giặc ngoại xâm cũng chính là quân đội nhân nghĩa:
Ý nghĩa của nhân nghĩa nằm ở sự bảo vệ dân chúng
Quân đội sẽ phạt trước để loại bỏ bạo lực…
Trên tinh thần nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã phơi bày tội ác của các thế lực phản loạn và kẻ xâm lược:
Quân Minh điên cuồng đã lợi dụng cơ hội gây nạn,
Bọn gian tà còn bán nước để kiếm danh vọng.
Nướng dân vô tội trên ngọn lửa tàn bạo,
Chôn con cái dưới đáy hầm tai ác độc.
Khi viết những dòng văn này, Nguyễn Trãi chắc chắn phải chịu nhiều đau đớn và căm phẫn. Tấm lòng nhân nghĩa của ông không thể dung thứ cho những tội ác thảm hại của quân giặc cũng như không thể thờ ơ trước cảnh tình khốn khó của nhân dân bị bóc lột như vậy. Và càng thương xót với nhân dân, ông càng trỗi dậy ý chí chiến đấu để tiêu diệt quân thù xâm lược. Lúc này, nhân nghĩa trở thành nguyên tắc chỉ đạo cho mọi hành động của quân đội phạt trước:
Mang lời lớn để đánh bại sự tàn bạo,
Sử dụng lòng nhân để thay thế bạo lực mạnh mẽ.
Vì tín ngưỡng đại nghĩa, đội quân Lam Sơn luôn là đội quân bất bại. Sức mạnh của tinh thần đạo quân Lam Sơn là sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với tình yêu nước. Do đó, mỗi khi quân giặc xâm lược đất nước, họ luôn phải nhận những thất bại đau thương:
Đám binh giặc tan tành trên đường chạy chẳng kịp;
Quân giặc trong các thành bị hủy hoại, cởi giáp ra đầu hàng.
Các chỉ huy quân giặc bị bắt như hổ đói vẫy đuôi xin được tha mạng.
Trước khi quân giặc kêu xin tha tội, quân ta không truy sát đến cùng mà thể hiện lòng từ bi bằng cách mở rộng đường lối hiếu sinh. Thực ra, hành động nhân nghĩa này xuất phát từ ý định để dân được nghỉ ngơi và phục hồi sức khỏe: Chúng tôi coi việc toàn quân anh dũng hơn là quan trọng, để nhân dân được nghỉ ngơi. Như vậy, nhân dân là nguồn lực, là sức mạnh, và cũng là mục tiêu của cuộc chiến, với tư tưởng nhân nghĩa là nguyên tắc phát triển toàn bộ hành động và mục tiêu đó. Có thể nói bài Cáo là một ca khúc anh hùng về tư tưởng nhân nghĩa.
Tính chất hùng vĩ không chỉ được thể hiện qua những ý tưởng vĩ đại mà còn bằng cách biểu diễn nghệ thuật anh hùng trong bài cáo. Nguyễn Trãi đã vẽ nên bức tranh chi tiết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Từ hình ảnh đến ngôn ngữ, từ màu sắc đến âm nhạc, từ nhịp điệu đến tình trạng, mọi thứ đều phản ánh bản chất của một tác phẩm anh hùng ca.
Thành công của chúng ta, sức mạnh của chúng ta, thất bại đầy thê lương của quân địch và bối cảnh của cuộc chiến... tất cả đều được thể hiện qua những hình ảnh phong phú, đa dạng, thể hiện sự rộng lớn và kỳ diệu của tự nhiên:
– Trận Bồ Đằng vẫn reo vang, sấm sét chớp giật -
Miên Trà Lân bị gãy vụn, tro bay xa.
– Gươm mài đá, đá núi cũng phải mòn,
Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn...
– Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động cũng lấm lem, không để mặn mòi ngàn năm.
– Kinh khủng thay đổi vẻ phong vân phải thay đổi,
Thảm hại thay đổi ánh nhật nguyệt phải mờ.
Trong ngôn ngữ gốc và cả phiên bản dịch, các động từ mạnh mẽ liên kết tạo ra những rung chuyển mạnh mẽ, dữ dội. Các tính từ tăng cường đỉnh điểm thành hai mảng đối lập, thể hiện sức mạnh chiến thắng của chúng ta và sự thất bại của kẻ địch. Câu văn dài ngắn linh hoạt, biến hoá trên nền nhạc điệu sôi động, đầy sức sống. Âm thanh vang vọng, hùng vĩ như những đợt sóng cao, gió mạnh. Đó chính là nhịp điệu của sức mạnh dâng trào, chiến thắng lớn từ một trận đấu đến trận khác:
Ngày mười tám…
Ngày hai mươi…
Ngày hăm lăm…
Ngày hăm tám…
Đó là nhịp của gió lùa, bão giật, trận này kéo dài sang trận khác:
Gươm mài đá, / đá núi cũng mòn
Voi uống nước, / nước sông phải cạn.
Đánh một trận, / sạch không kinh ngạc,
Đánh hai trận, / tan tác chim muông…
Bút pháp nghệ thuật hùng tráng này kết hợp với tư tưởng vĩ đại mang đến tính hùng vĩ cho Bình Ngô Đại Cáo, đặt tác phẩm lên vị thế 'thiên cổ hùng văn'.
Sau Bình Ngô Đại Cáo, văn học trung đại chưa có áng văn nào vượt qua tính hùng tráng đó. Đọc áng 'thiên cổ hùng văn' này, ta cảm nhận 'sức mạnh hơn mười vạn quân' từ mỗi trang của nhà tư tưởng, nhà văn kiệt xuất Nguyễn Trãi.
Bình Ngô Đại cáo được mệnh danh là 'thiên cổ hùng văn'.
Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhà văn kiệt xuất. Bình Ngô Đại cáo là tác phẩm độc lập quan trọng của dân tộc, được xem là 'thiên cổ hùng văn'.
Bình Ngô Đại cáo là tuyên ngôn độc lập của dân tộc, đánh dấu sự thống nhất và chấm dứt cuộc kháng chiến chống Minh, đồng thời khẳng định chủ quyền Đại Việt. Đây là áng văn chính luận lịch sử quan trọng, xứng đáng là 'thiên cổ hùng văn'.
Bình Ngô Đại cáo là áng văn 'thiên cổ hùng văn' về tư tưởng. Tư tưởng nhân nghĩa luôn là nguồn cảm hứng và chỉ đạo vững chắc trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi. Thơ văn của ông luôn mang tính nhân đạo, phục vụ nhân dân, nâng cao tinh thần con người, khát khao bình yên và ổn định cho mọi người:
Nhân nghĩa là nền tảng của hòa bình
Giải quyết vấn đề trước khi bạo lực xuất hiện
Nguyễn Trãi nhìn nhận vấn đề một cách tổng quan và táo bạo, khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân trong cuộc sống xã hội. 'Việc nhân nghĩa' chính là việc đảm bảo cuộc sống ổn định cho mọi người, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội. Ông đề cao giá trị con người, nhìn xa trông rộng để xây dựng cộng đồng và khẳng định sự quan trọng của cộng đồng trong lịch sử và tương lai:
'Bình Ngô Đại cáo' là bản tuyên ngôn độc lập quan trọng thứ hai của dân tộc, tuyên bố mạnh mẽ về chủ quyền và độc lập dân tộc ở mọi mặt, từ văn hiến đến lịch sử:
Đất nước đã từng có truyền thống
Thời đại độc lập đã từ lâu
Địa linh vượng phong bốn phía
Văn hiến Bắc Nam đã khác biệt
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần xây dựng lịch sử độc lập
Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi phương có một vị trí đế chế
Mặc dù mạnh yếu có thay đổi
Nhưng tài năng luôn hiện diện.
Nguyễn Trãi xác định nước ta là 'Đại Việt' để khẳng định chủ quyền dân tộc. Trái với âm mưu muốn biến nước ta thành một phần của quân Minh, ông mạnh mẽ tuyên bố Đại Việt là một quốc gia độc lập, có lịch sử lâu đời, có lãnh thổ được chia rõ, có phong tục văn hóa, ... Tác giả đặt Đại Việt ngang hàng với Trung Quốc, khẳng định chủ quyền không thể xâm phạm, đồng thời chỉ trích quân Minh với những hành động xâm lược và đô hộ.
'Bình Ngô Đại cáo' là văn kiện lịch sử quan trọng, đặt nền móng cho nước Đại Việt độc lập, có giá trị như Tuyên ngôn độc lập ngày nay. Tính 'thiên cổ hùng ca' thể hiện ở lời khẳng định dứt khoát, cơ sở lập luận và dẫn chứng đầy đủ, quyết định một sự kiện trọng đại của lịch sử.
'Bình Ngô Đại cáo' cũng là sự chỉ trích quyết liệt về những tội ác của quân Minh, ca ngợi lãnh tụ Lê Lợi anh dũng và kêu gọi nhân dân đoàn kết, hiếu trung với tổ quốc. Nguyễn Trãi không ngần ngại nêu bật những tội ác man rợ của quân Minh, thể hiện sự căm phẫn và phẫn nộ.
Nhân họ Hồ đem phiền não tìm đường,
Để lòng dân oán giận sâu nặng.
Quân Minh đối phó tàn bạo để vơ vét,
Bọn gian tà bán nước chỉ mong được vinh dự.
Đốt cháy người dân dưới đống lửa tàn ác,
Lấp xác em bé dưới hầm địa hạt tai ương.
Lừa gạt dân dã đủ mọi cách,
Gây chiến tranh và oan hận kéo dài hai mươi năm.
Phản nhân nghĩa hủy hoại đất trời,
Thu thuế vét cạn không thương tiếc.
Người bị bắt vào biển đẫm lưng ngọc, chẳng sợ cá mập hung dữ.
Kẻ bị ép vào rừng tìm vàng trắng, thống khổ trong rừng núi hoang vắng.
.....
Thần nào chịu nổi?
Tác giả quyết liệt liệt kê những tội ác của quân Minh, phê phán gay gắt sự tàn bạo, lừa dối, và xâm lược của giặc Minh. Đây là động lực và cơ sở cho sự căm thù và lòng yêu nước của nhân dân, sẵn lòng đứng lên chống lại quân xâm lược.
'Bình Ngô Đại cáo' trở thành một bản hùng ca hùng vĩ, mãnh liệt với những chiến công đáng tự hào mà quân và dân ta đã đạt được. Tác giả nêu rõ những thất bại và nhục nhã của kẻ thù khi chúng tấn công lãnh thổ Đại Việt:
Lưu Cung bị thất bại vì tham công,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa rõ ràng,
Cứ chứng minh tại đây
Danh sách những tội ác do các lãnh đạo quân xâm lược như Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã và những địa điểm quan trọng như Cửa Hàm Tử, sông Bạch Đằng. Việc liệt kê này nhấn mạnh sự tàn ác và không nhân từ của quân xâm lược, gợi lại những nỗi đau mất mát để khuyên nhủ nhân dân luôn đoàn kết chống giặc, trung thành với đất nước và triều đình. Tác giả cũng tỏ ra tự hào với chiến công anh hùng của Lê Lợi, người đã dẫn đầu cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng rực rỡ. Ca ngợi Lê Lợi bằng những từ ngữ như 'kiệt xuất', 'như mặt trời sớm' với tâm hồn yêu nước mãnh liệt, sự cầu tiến vì tự do của dân tộc.
'Bình Ngô Đại cáo' là tác phẩm văn học quan trọng, chứng minh sự tự hào, độc lập của dân tộc Đại Việt và tố cáo tội ác của quân thù qua chiến thắng lẫy lừng của cuộc khởi nghĩa. Tác phẩm này xứng đáng được xem là một bản 'Thiên cổ hùng ca', là tài liệu lịch sử đầy đủ, thuyết phục và khách quan về thời kỳ lịch sử đó. Về mặt văn học, đây là một bản chính luận rõ ràng, có cấu trúc hợp lý và nghệ thuật sáng tạo, gợi lên không khí hùng vĩ và hào hùng của một bản 'đại cáo' truyền cảm và tận diện cho đời sau.
'Bình Ngô Đại cáo' đã và đang giữ được giá trị và tầm ảnh hưởng qua các thế hệ, chứng minh tài năng vượt trội của Nguyễn Trãi. Tác phẩm này thể hiện sự tự hào và lòng yêu nước của mọi thế hệ dân tộc Đại Việt về những chiến công vĩ đại, truyền kỳ. Đây chính là một trong những tác phẩm chính luận xuất sắc nhất của văn học thời kỳ Trung Đại.
'Bình Ngô đại cáo' được xem như một tác phẩm thiên cổ hùng văn - Mẫu 3
Khi nhắc đến những bản tuyên ngôn độc lập hùng vĩ của dân tộc, không thể không nhắc đến 'Bình Ngô đại cáo' của Nguyễn Trãi. Tác phẩm này không chỉ là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc mà còn là một tác phẩm thiên cổ hùng văn vô cùng đặc biệt, có giá trị trong văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng.
Trước hết, cần hiểu rõ 'thiên cổ hùng văn' là những bài văn cổ mang âm điệu hùng tráng, hào hùng với nội dung viết về những vấn đề quan trọng trong lịch sử dân tộc được lưu truyền từ xa xưa. 'Bình Ngô đại cáo' được xem như một tác phẩm thiên cổ hùng văn vì nó tập trung vào việc tổng kết, bố cáo chiến thắng của vua tôi nhà Lê trước giặc Minh tàn ác, khẳng định độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam và quyết tâm bảo vệ chủ quyền của quân dân ta trước kẻ thù xâm lăng. Ngoài ra, 'Bình Ngô đại cáo' còn là một tác phẩm văn học tinh tế của Nguyễn Trãi, kết hợp giữa lời văn sâu sắc và thay đổi giọng điệu linh hoạt, từ ngữ chọn lọc cẩn thận,... tạo nên vẻ trầm hùng đặc biệt trong cách diễn đạt.
Thực sự, 'Bình Ngô đại cáo' là bản tóm tắt ngắn gọn nhất về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, thể hiện niềm tự hào sâu sắc của dân tộc. Trong tác phẩm, việc khẳng định nhân nghĩa và quyết tâm bảo vệ chủ quyền của Việt Nam được nhấn mạnh. Đặc biệt, tác phẩm còn lấy ví dụ từ lịch sử văn hóa Việt Nam để chứng minh cho những điều nêu trên.
Việc bảo vệ nhân nghĩa với dân đúng chỗ,
Quân điếu trừ bỏ cái xấu trước tiên
Nước Đại Việt từ lâu đã nổi tiếng về nền văn hiến,
Địa hình và văn hoá khác nhau từ Bắc vào Nam,
Thời kỳ của Triệu, Đinh, Lý, Trần đã khẳng định độc lập,
Các triều đại Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên đã có những anh hùng riêng
Dù mạnh yếu có thể khác nhau,
Nhưng những anh hùng luôn tồn tại.
Mỗi dòng thơ vang lên đều mang trong đó niềm tự hào, lời tuyên bố chắc chắn về tư tưởng nhân nghĩa kết hợp với việc bảo vệ dân yên trước sự tàn bạo. Bên cạnh việc tôn vinh nhân nghĩa là mang lại cuộc sống hạnh phúc cho dân, vì dân, tác giả còn khẳng định các yếu tố quyết định chủ quyền dân tộc: Văn hiến lâu đời, ranh giới lãnh thổ, phong tục tập quán, lịch sử đặc biệt, triều đại riêng và 'anh hùng mỗi thời đều có'. Nguyễn Trãi cũng đặt Đại Việt vào bức tranh so sánh với các đế quốc lớn ở phương Bắc, thể hiện sự tự nhận thức về tồn tại độc lập, chủ quyền của dân tộc và tự hào về truyền thống văn hóa, phong tục tập quán của người dân.
Tiếp sau những lời văn chứa đựng niềm xúc động, tự hào trước trang lịch sử vinh quang của dân tộc là lời tố cáo mạnh mẽ của tác giả trước tội ác của giặc Minh:
Nướng dân đen trên ngọn lửa tàn bạo,
............
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không thể giải phóng mùi.
Tất cả những tội ác tàn bạo nhất của kẻ thù được Nguyễn Trãi mô tả về nhân dân ta, những hình ảnh 'nướng dân đen, vùi con đỏ, gieo binh kết oán...' cho thấy tình cảnh đen tối của chúng nhằm tiêu diệt đồng bào ta. Chúng không chỉ tàn nhẫn trong việc tra tấn thể xác, tàn sát dân ta mà còn tham lam vô độ, cướp phá, lấy tài nguyên thiên nhiên của nước ta, áp đặt những loại thuế nặng nề. Những tội ác của giặc Minh không ngừng, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho kinh tế 'đem hủy hoại mọi nghề canh tác', môi trường tự nhiên 'bắt chim trả', 'bẫy hươu đen', 'tàn phá giống cây cỏ', cuộc sống của dân thê thảm 'tàn phá mọi gia đình khốn cùng'... Bằng cách sử dụng hình ảnh 'trúc Nam Sơn', 'nước Đông Hải' như những sự vật tự nhiên vô tận, tác giả đã khẳng định tội ác của bọn giặc cướp nước và bán nước không thể đếm xuể khiến cho trời đất không dung tha, thần linh không thể chịu đựng. Đó cũng là lý do khiến chúng ta phải nắm vũ khí, đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược.
Và quá trình cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cũng được Nguyễn Trãi tái hiện một cách ngắn gọn qua những câu văn súc tích khác nhau:
Núi Lam Sơn dấy lên lòng nghĩa
Nơi hoang dã tự nhiên khẳng định bản lĩnh
Ngẫm về sự thù địch lớn lao, quyết tâm đoàn kết
Xua đuổi giặc ngoại, không chấp nhận sống chung
Khổ lòng, nghẹn ngào, hàng chục năm gặp thử thách
Nếm đắng cay, gặp gai góc, cảm nhận mỗi sáng tối.
Quên bữa ăn vì sự giận dữ, quyết định hành động sau khi suy nghĩ tỉ mỉ,
Nghĩ trước trước sau, cân nhắc từng bước đi cẩn thận.
Nỗi trăn trở trong những giấc mơ mị,
Chỉ nghi ngờ một điều đơn giản
Đúng lúc lời hùng vang vang lên,
Chính khi quân thù đang mạnh mẽ
Lời gọi mình 'Ta đây' đại diện cho danh tính của chủ tướng Lê Lợi, biến bài cáo thành một lời kể chân thành của vị lãnh đạo chiến tranh Lam Sơn về những ngày đầu của cuộc khởi nghĩa, với những trăn trở, lo sợ trước tình hình quốc gia đang ở bờ vực vực sâu, đau đớn trước thảm họa giặc Minh đang ngày càng hủy hoại dân ta, nỗi tức giận bùng phát, ... Từ đó, ta cũng thấy được lòng yêu nước, lòng thương dân, tâm hồn sâu sắc của Lê Lợi - linh hồn của cuộc chiến giành độc lập tự do cho dân tộc. Và thông qua những lời văn của Nguyễn Trãi, mọi khó khăn, cảnh nguy trạng ban đầu của cuộc chiến dần dần được hiện lên trước mắt người đọc:
Lại ngỡ vì:
Tuấn kiệt như sao sáng lấp lánh,
Nhân tài như lá thu rơi,
Sự thiếu thốn khiến người đề phòng,
Ở nơi đó, lòng nhân từng như kim cương,
Cam kết bảo vệ đất nước, luôn mong muốn tiến về phía Đông,
Xe cờ hiền hậu, luôn chăm sóc những góc phía tây.
Sự đối lập giữa sức mạnh lớn của kẻ thù và sức mạnh mong manh của chúng ta 'như sao sáng lấp lánh', nhân tài hiếm có như 'lá thu rơi'; có lúc thiếu thốn về lương thực, có lúc bị bao vây,... tất cả những điều này đã cho thấy sự khó khăn, vất vả của dân tộc trong những ngày đầu chống giặc. Tuy nhiên, vượt qua tất cả:
Khi Linh Sơn lương cạn, đã từng vài tuần,
Khi quân Khôi Huyện không còn một đội.
Thử thách lớn, ta vẫn không từ bỏ lời hứa
Một tâm hồn kiên định vượt qua mọi gian nan.
Dân tộc đoàn kết, đứng một nhà, dựng cờ phấn phới lên cao,
Các tướng sĩ với tinh thần hiếu chiến, hòa thuận như nước chảy trong sông, rượu ngọt trong chén.
Thế trận khắc nghiệt, sử dụng một cách thông minh,
Quân mãi phục, sử dụng nhỏ để đối đầu với kẻ mạnh mẽ.
Dưới tình thần đoàn kết của lãnh đạo, dân chúng và quyết tâm kiên định, chiến lược thông minh cùng với tài năng chỉ huy của tướng Lê Lợi, chúng ta đã vượt qua mọi thách thức, xây dựng lực lượng mạnh mẽ, giành được những chiến thắng lịch sử và khiến giặc Minh phải sợ hãi. Trong bài diễn văn này, Nguyễn Trãi tập trung tường thuật một số trận chiến đặc biệt trong quá trình kháng chiến:
Đặt lòng yêu nước lên hàng đầu để đánh bại giặc ác,
Sử dụng tinh thần nhân từ để thay đổi tình hình căng thẳng.
Trận Bồ Đằng tiếng vang, chớp lấp lánh,
Trận Trà Lân cây trúc gãy bay khắp nơi.
Quân đạo đã sẵn sàng,
Quân sức trở nên mạnh mẽ hơn.
Trần Trí, Sơn Thọ từ bỏ mạng sống mình để giành thắng lợi,
Lý An, Phương Chính, hy sinh để giữ mạng sống.
Chiến thắng kéo dài, quân ta đã chiếm lại Tây Kinh,
Quân binh tiến về, Đông Đô đã thuộc về ta.
Trận Ninh Kiều máu chảy thành sông, hình ảnh tanh trôi hàng vạn dặm
Trận Tốt Động lưu danh nước một thời, không phai mờ theo năm tháng.
(...)
Tất cả những trận đánh ác liệt đều được Nguyễn Trãi tái hiện một cách ấn tượng. Qua cách diễn đạt đặc sắc, tác giả đã tạo ra sự tương phản giữa sự thất bại của địch và niềm vinh quang của ta qua hai trận đánh Ninh Kiều và Tốt Động. Trận Chi Lăng - Xương Giang cũng được tác giả kể lại một cách chân thực, sống động:
Tháng 9, Liễu Thăng dẫn quân từ Khâu Ôn tiến về,
Tháng 10 năm ấy, Mộc Thạnh đi từ Vân Nam về phía đông.
Chúng ta đã chuẩn bị mọi điều kiện, sẵn sàng đối đầu với đối thủ,
Sau đó, ta đã chặn đứng đường dẫn lương của địch,
Ngày 18 tháng 10, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất bại,
Ngày 20 tháng 10, trận Mã Yên, Liễu Thăng bị tiêu diệt,
Ngày 5 tháng 11, bá tước Lương Minh bị tiêu diệt,
Ngày 8 tháng 11, thượng thư Lý Khánh đầu hàng tự vẫn.
Quân giặc của hai tướng giỏi nhất đã tạo ra một kế hoạch để đè bẹp quân ta, nhưng nhờ sự phòng thủ kỹ lưỡng, sự triển khai chiến thuật thông minh, chúng ta đã phá hủy kế hoạch đó, giành thế ưu thế và tiến lên chiến thắng. Sau đó là một loạt các chiến công khác được Nguyễn Trãi kể lại với lòng tự hào, vui mừng trước tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân dân ta.
Đọc những dòng văn miêu tả trận chiến, ta như được tưởng tượng lại khung cảnh lúc đó với sự đối lập rõ ràng giữa sức mạnh của ta và sự hèn nhát của kẻ thua.
Đao mài đá cũng mòn,
Voi uống nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kẻ đỡ
Đánh hai trận tan nát đám muông.
Cơn gió lớn quét sạch lá cũ,
Tổ kiến hội tụ đều vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, máu tràn ngập đường,
Xương Giang, Bình Than, sông đỏ máu chảy.
Rùng mình! Sức mạnh phải thay đổi,
Khinh bỉ và châm biếm nổi lên rõ ràng qua từng câu từ của Nguyễn Trãi. Và giọng văn cuối cùng chuyển sang trầm ấm, hòa nhã:
Từ đây, chúng ta vững bền
Giang sơn từ đây thay đổi mới
Lời văn chứa đựng niềm vui trước độc lập của đất nước, là sự khẳng định độc lập và niềm tin vào sức mạnh của đất nước.
Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm văn học vô cùng kỳ diệu - Mẫu 4
Nguyễn Trãi để lại một di sản văn học to lớn, phong phú về cả nội dung và nghệ thuật. Trong bộ sưu tập tác phẩm đó, không thể không nhắc đến Bình Ngô đại cáo, một tác phẩm được xem là kỳ tích văn chương cổ điển. Nó không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn mang đậm đà về mặt nghệ thuật.
Tác phẩm được viết bởi Nguyễn Trãi dưới sự chỉ dẫn của vị lãnh đạo tài ba Lê Lợi sau khi quân dân chúng ta giành chiến thắng, đánh tan quân Minh xâm lược. Văn bản được tạo ra để thông báo với mọi người về sự kết thúc của một chiến thắng lịch sử chống lại quân thù xâm lăng. Đây có thể coi là bản tuyên bố độc lập thứ hai của dân tộc sau Nam quốc sơn hà. Ngoài ra, tác phẩm cũng được đánh giá cao là một tác phẩm văn chương kỳ diệu, một tác phẩm văn học kỳ vĩ sẽ được ghi nhận qua hàng thế hệ. Để trở thành một tác phẩm văn học bất hủ như vậy, chắc chắn Bình Ngô đại cáo phải có nội dung xuất sắc, cùng với một phong cách văn chương điêu luyện, tài năng. Chỉ khi có đủ hai yếu tố đó, thì mới xứng đáng là một tác phẩm văn học kỳ diệu.
Bắt đầu tác phẩm, lời văn mạnh mẽ, sắc sảo, nêu ra vấn đề về nhân nghĩa, vấn đề này cũng chính là trung tâm của toàn bộ nội dung:
Việc làm từ lòng nhân ái
Quyền lực hiển thị trước mọi hành vi độc ác
Nhân nghĩa là trụ cột của đạo đức Nho giáo, nói về đạo lý, cách ứng xử và lòng yêu thương con người với nhau. Nguyễn Trãi không chỉ tiếp thu mà còn phát triển đạo lý này, lòng yêu thương phải được thể hiện qua những hành động cụ thể: chăm sóc dân, tạo ra cuộc sống bình yên. Để làm điều đó cần phải trừng trị kẻ tàn ác, bạo ngược, những thế lực hắc ám đã phá vỡ cuộc sống bình yên của dân chúng. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa bắt nguồn từ nhân dân, vì yêu thương dân chúng, và nhân nghĩa cũng gắn liền với lòng yêu hòa bình, từ đó nhân nghĩa chính là tình yêu quê hương. Điều này là điểm mới, tiến bộ của Nguyễn Trãi.
Không chỉ dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn tự tin, mạnh mẽ khẳng định chủ quyền của dân tộc ta, ông không chỉ khẳng định trên phạm vi lãnh thổ mà còn ở những khía cạnh sâu sắc, liên quan đến văn hóa, truyền thống của mỗi dân tộc: Như nước Đại Việt ta đã từng có/.../ Những anh hùng hào kiệt đã từng tồn tại. Ông sử dụng từ ngữ rõ ràng: đã từng, là điều thường thấy, đã lâu, đã chia rẽ, đều khác nhau để khẳng định sự tồn tại lâu dài, vững chắc của chân lý. Ông đã hoàn thiện quan niệm về quốc gia, dân tộc, đây là bước tiến lớn không thua kém gì so với tuyên bố độc lập trước đó.
Dựa trên việc khẳng định chủ quyền dân tộc, Nguyễn Trãi đã tiếp tục phơi bày tội ác và âm mưu xâm lược của kẻ thù. Ông đã tài tình sử dụng từ ngữ nhân, khai thác để phơi bày luận điệu gian trá, xảo quyệt của chúng phủ Trần diệt Hồ. Chúng dùng cớ phủ Trần diệt Hồ nhưng thực ra là để áp bức, chiếm đoạt tài sản của nhân dân. Chúng thực hiện những hành vi tàn bạo: Đốt dân vào lửa, giấu xác vào hố, thu thuế cực kỳ nặng nề: Thuế nặng không để dành một chút, chúng tàn ác đến mức không tha cho cả những sự vật vô hại: Phá hại cả loài côn trùng cây cỏ,... Tội ác của chúng khiến dân ta căm phẫn, cả trời đất cũng không tha thứ. Đọc từng câu thơ, ta cảm thấy tiếc nuối cho số phận của người dân phải chịu đựng ách áp bức của giặc Minh. Vì thế, những anh hùng hào kiệt kia làm sao có thể nhìn thấu cảnh con dân ta phải trả giá bằng máu trước lũ giặc thù ngoại xâm. Anh hùng Lê Lợi lập nghiệp trong khi gặp vô vàn khó khăn, nhưng bằng kiên nhẫn, trí tuệ sáng suốt ông đã vượt qua mọi thử thách đó. Quân ta dũng cảm, tinh nhuệ tiến vào đánh giặc, khiến kẻ thù sụp đổ. Văn phong, nhịp điệu thơ trở nên sôi động, hứng khởi hơn bao giờ hết: Trận Bồ Đằng vang tiếng, miền Trà Lân trúc xé ra, nước chảy máu thành sông, cỏ cây phủ kín/ Tốt Động nổi tiếng với biển nước, không để chúng dễ dàng quên. Quân ta giành chiến thắng rực rỡ, điểm đáng chú ý ở đây chính là chiến thắng dựa trên ý nghĩa nhân nghĩa: Mang lẽ đại nghĩa để chống bạo tàn/ Sử dụng lòng nhân để thay thế sức mạnh ác độc. Chúng ta giành chiến thắng, không phải là tiêu diệt đối thủ đến tận cùng, mà vẫn để họ có con đường sống: Họ đã sống vì sợ chết, nhưng chúng ta thật lòng hiếu kính/ Chúng ta cùng quân đoàn, để nhân dân được nghỉ ngơi/ Không chỉ có những chiến thuật kỳ diệu/ Cũng là điều không thể nào quên được. Vì nhân dân nên đã có cuộc khởi nghĩa, và trong cuộc khởi nghĩa, nhân dân chính là sức mạnh chủ chốt. Thậm chí khi tha thứ cho kẻ thù, cũng để nhân dân được nghỉ ngơi. Việc nhắc đến nhân dân với vai trò quan trọng như vậy chỉ xuất hiện trong tư duy của Nguyễn Trãi. Nhân dân là trung tâm của tư tưởng nhân nghĩa của ông.
Kết thúc bài diễn văn là lời ca tụng, niềm vui của lòng tuyên bố chiến thắng và khẳng định sự chính nghĩa của cuộc kháng chiến: Từ đây chúng ta kiên định/ Đất nước từ đây thay đổi/ Trí tuệ thông suốt, luôn sẵn lòng/ Sự tươi sáng của ngày mới.
Tác phẩm không chỉ xuất sắc về nội dung mà còn ấn tượng với nghệ thuật. Nó được coi là một mẫu văn chính luận hoàn hảo, có cấu trúc chặt chẽ, lập luận sắc sảo. Để bắt đầu toàn bộ tác phẩm, Nguyễn Trãi đã đưa ra luận đề về nhân nghĩa ngay từ đầu bài diễn văn, sau đó là phơi bày tội ác của kẻ thù; giai đoạn kháng chiến gay go và chiến thắng vẻ vang của chúng ta; cuối cùng là lời tuyên bố chiến thắng, khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Để làm nổi bật tội ác của giặc, ông đã tinh tế sử dụng nghệ thuật đối lập: Người bị đẩy xuống biển, lưng nhấc lên như ngọc, chán cá mập, bên cạnh đó, tên đòi tấn công, nhỏ nhẹ cười, máu mỡ bấy nhiêu không đủ no. Người khác đánh dấu, ngọn núi Nam Sơn không ghi lại tội ác,/ Điều đó không xóa đi vết nhơ của nước Đông Hải. Những tình tiết này là để phơi bày tội ác man rợ, tàn bạo của kẻ thù. Lời văn uyên bác, đau lòng, xót xa khi nhắc đến thảm cảnh của nhân dân, đồng thời mạnh mẽ kết án kẻ thù.
Với sự xuất sắc cả về nội dung và nghệ thuật, Bình Ngô đại cáo thực sự là một tác phẩm vĩ đại của dân tộc, mang lại sự bình an, hạnh phúc cho mọi người.
Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm văn chương lịch sử vĩ đại.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là biểu tượng cho lòng yêu nước và ý chí chiến đấu của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo được coi là một áng văn hùng tráng được truyền miệng qua hàng ngàn đời.
Dân tộc ta vẫn tự hào với Bình Ngô đại cáo, một bản văn tuyệt vời về lòng tự hào dân tộc và ý chí bảo vệ quê hương.
Nhân nghĩa là nguyên tắc đạo đức của Nho giáo, thể hiện sự đối xử tốt đẹp giữa con người. Tuy nhiên, việc yên dân và trừ bạo của Nguyễn Trãi đã nâng cao giá trị của nó, trở thành một lý tưởng xã hội và đạo lý dân tộc vĩnh cửu.
Bài diễn văn đầu tiên đã khẳng định chủ quyền và độc lập của dân tộc, thể hiện lòng kiêu hãnh và dũng cảm.
Chúng ta luôn có lịch sử hùng vĩ, và sự so sánh này thể hiện sự tự chủ và giá trị của chúng ta, không chỉ vào thời điểm đó mà còn về sau.
Cách mạng trong cách khẳng định chủ quyền với các cường quốc đã làm nên một cột mốc quan trọng trong lịch sử dân tộc.
Nỗi oán hận và tức giận về tội ác bán nước không thể nào phai mờ. Đó là những hình ảnh đầy nghẹn ngào và đau thương.
Tàn bạo của kẻ thù được mô tả qua những hình ảnh đau lòng, gợi lên nỗi đau đớn và nỗi oán hận trong lòng dân tộc.
Nguyễn Trãi đề cập đến sự tàn bạo của giặc Minh và những kẻ thù khác, thể hiện lòng yêu nước và quyết tâm bảo vệ đất nước.
Lê Lợi được tôn vinh như một biểu tượng anh hùng thể hiện sự thương yêu đối với nhân dân và quyết tâm đánh bại kẻ thù.
Bài diễn văn nhấn mạnh ý nghĩa của đại nghĩa và chí nhân trong việc thắng lợi trước những kẻ hung ác.
Tư tưởng về đại nghĩa và chí nhân vẫn là ngọn đuốc của tinh thần đấu tranh chính nghĩa của dân tộc trước mọi thử thách.
Sự oai hùng của thời kỳ kháng chiến được thể hiện rõ trong đoạn tái hiện lại chiến trường đầy khốc liệt và lòng kiên định của nhân dân.
Niềm vui, hạnh phúc của dân tộc khi đạt được độc lập, tự do và giấc mơ về hòa bình trở thành hiện thực.
Tư duy về sự vững bền, sự thay đổi và sự thanh minh của đất nước được nhấn mạnh, kết hợp với ý chí hòa bình và nhân nghĩa.
Quy luật tồn tại của dân tộc được nhấn mạnh, đồng thời tôn vinh lòng đồng lòng và tài năng của nhân dân và lãnh đạo.
Bình Ngô đại cáo trở thành một biểu tượng vĩ đại của sự anh hùng và lòng tự hào của dân tộc, mang lại giá trị văn hóa và lịch sử lâu dài.
Tác phẩm Bình Ngô đại cáo không chỉ thể hiện sự oai hùng trong nghệ thuật viết văn chính luận mà còn là lời tuyên bố về độc lập và sự bảo vệ của nhân dân Đại Việt.
Cấu trúc chặt chẽ của đại cáo kết hợp với lối văn biền ngẫu tạo nên một bức tranh tráng lệ và hào hùng của cuộc kháng chiến và tư tưởng nhân nghĩa.
Bình Ngô đại cáo không chỉ là một áng văn hùng vĩ mà còn là biểu tượng về tinh thần độc lập và lòng yêu nước của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo là một văn kiện lịch sử mang tính biểu tượng, thể hiện sức mạnh văn hóa và tinh thần bảo vệ độc lập của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo vẫn là một lời tuyên ngôn độc lập mạnh mẽ và sâu sắc cho dân tộc Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Tác phẩm Bình Ngô đại cáo thể hiện đầy đủ các tiêu chuẩn của một bản tuyên ngôn độc lập, từ khẳng định độc lập và chủ quyền dân tộc đến tuyên bố thắng lợi và hòa bình sau cuộc chiến.
Bằng lối văn hùng hồn và khẳng định vững chắc, Bình Ngô đại cáo mở màn cho một kỉ nguyên mới của đất nước, một kỉ nguyên hoàn toàn độc lập và tự do.
Văn biền ngẫu của Bình Ngô đại cáo không chỉ khẳng định lãnh thổ mà còn xác định rõ chân lý độc lập của dân tộc, nâng tầm vị thế ngang hàng với quốc gia Đại Hán.
Bình Ngô đại cáo thể hiện sự thuyết phục cao độ trong việc khẳng định chân lý độc lập và tự chủ, đồng thời tôn vinh lòng nhân nghĩa và sự kiên cường của nhân dân xây dựng nền độc lập.
Nhờ vào nhân nghĩa và lòng dũng cảm của nhân dân, đất nước đã xây dựng được nền độc lập và tự chủ, và Bình Ngô đại cáo là biểu tượng rõ nét của tinh thần không khuất phục và quyết tâm bảo vệ chủ quyền dân tộc.
Bản 'tuyên ngôn' Bình Ngô đã mạnh mẽ lên án tội ác của quân Minh, gieo rắc tai vạ cho dân ta suốt hai mươi năm trời. Từ âm mưu thâm độc đến những hành động man rợ, bạo tàn, trắng trợn mà Nguyễn Trãi đã viết trong căm hờn, uất nghẹn:
Bình Ngô đại cáo không chỉ là sự phê phán đầy cam go về tội ác của kẻ thù mà còn là lời kêu gọi lòng dũng cảm và đoàn kết của dân tộc, từ việc chống đối cho đến việc hòa giải và phát triển.
Dân tộc ta đã tỏ ra đoàn kết và quyết tâm trong cuộc chiến chống giặc Minh, dựng cờ, phấp phới lòng yêu nước và tình đoàn kết.
Nhân dân và tướng sĩ đã cùng đứng lên, chung lòng xây dựng và bảo vệ đất nước, tạo ra những chiến công hiển hách và vinh quang không thể nào quên.
Bình Ngô đại cáo là biểu tượng của sức mạnh và lòng dũng cảm của dân tộc, là cuộc hành trình vinh quang với khát vọng cháy bỏng và quyết tâm chống lại bạo lực và phi nghĩa.
Dân tộc đã trải qua nhiều gian khó nhưng cuối cùng cũng thu hoạch được những kết quả quý báu:
Từ đây, đất nước chúng ta vững bền và đổi mới, xã tắc trở nên mạnh mẽ và giang sơn lấp lánh.
Giọng thơ vẫn ngọt ngào nhưng đầy hào hùng, khẳng định sức mạnh và sự ổn định của đất nước.
Bình Ngô đại cáo không chỉ là một tài liệu lịch sử, mà còn là biểu tượng của lòng tự hào và lòng yêu nước sâu sắc của dân tộc Việt Nam.
Bình Ngô đại cáo không chỉ là một văn bản quan trọng trong lịch sử, mà còn là di sản vô giá về lòng yêu nước và khát vọng hòa bình của toàn nhân loại.
Hãy tải file tài liệu để xem các bài văn mẫu tốt nhất.