Đánh giá 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ của Đặng Trần Côn bao gồm dàn ý và 9 mẫu dưới đây không chỉ giúp các bạn lớp 10 có thêm những ý tưởng sáng tạo cho bài viết của mình mà còn thấy được sự cô đơn và nỗi buồn của người chinh phụ. Người chinh phụ được tác giả đặt vào bối cảnh thiên nhiên để miêu tả tâm trạng của mình.

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ 8 câu giữa đã minh họa rõ tâm trạng của người phụ nữ khi chồng ra chiến trận. Đồng thời, nó cũng phản ánh sự phân ly do chiến tranh phong kiến đã gây ra, và thể hiện khát vọng hạnh phúc và sự sống của phụ nữ trong xã hội cổ đại. Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm bài văn mẫu phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. Dưới đây là dàn ý và 9 bài văn mẫu hay nhất về đánh giá 8 câu giữa bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, mời các bạn cùng tham khảo tại đây.
Đề bài: Cảm nhận của bạn về đoạn trích sau:
'Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.'
(trích từ Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ)
Dàn ý cảm nhận 8 câu ở giữa Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ
1. Khai mạc:
- Giới thiệu về tác giả, đoạn trích và trích dẫn
- Tóm tắt ngắn gọn ý chính của đoạn trích: sự cô đơn và sự chờ đợi của người chinh phụ.
2. Nội dung chính: thảo luận về 8 câu thơ giữa
*4 câu đầu tiên:
''Gà gáy sương trong buổi sáng,
Cỏ phất phơ trong gió chiều.''
- Âm thanh của con gà gáy vang lên, mang theo nỗi buồn ''trong buổi sáng'', người chinh phụ đã thức trắng cả đêm suy tư không ngu giấc ''năm sương''... Cảnh tượng của cỏ ''phất phơ'' trong gió chiều, biểu hiện sự sống nhưng cũng mang trong đó sự tản bộ của người chinh phụ....
''Thời gian trôi đi rất chậm nhưng không thể nào ngừng lại,
Nỗi buồn dày đặc như biển xa vô tận.''
- Một giờ dài kéo dài nhưng không thể nào dừng lại, nỗi buồn chất chồng nhưng không có điểm dừng ''thời gian trôi đi rất chậm'' kèm theo nỗi buồn dày đặc như một biển vô tận ''nỗi buồn dày đặc''.....
*4 câu kế tiếp
- Người phụ nữ đang cầu mong cho chồng xa được an lành nên đã thắp hương cầu nguyện, ''hương thơm phát ra'' để tâm hồn được yên bình nhưng khi hương tan đi, cô ấy cảm thấy buồn.
- ''gương soi'' phản chiếu lại cảm xúc u buồn của bản thân, mỗi lần nhìn vào, những giọt ''nước mắt lại tuôn trào'' không ngừng.
- ''Nhạc cụ'' đàn cầm và sáo kê đều phát ra âm nhạc êm dịu, là biểu tượng của sự hòa thuận, ''nhạc cụ kênh kềnh'' như cách người phụ nữ đang trải qua một mình trong cảnh cô đơn.
- ''Dây đàn uyên'' là tượng trưng cho tình cảm uyên ương, và việc ''dây đàn rung lên'' có thể dự báo điều không may mắn của mối quan hệ, ''phím đàn run rẩy'' tạo ra âm thanh đáng ngại, gợi lên sự bất ổn của một cặp đôi xa nhau.
* Nghệ thuật thể hiện trong 8 câu thơ này: Kỹ thuật mô tả cảnh tình cảm..
3. Kết luận: Ý kiến cá nhân về 8 câu thơ
Cảm nhận 8 câu ở giữa Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 1
Đặng Trần Côn là một nhà văn đã vẽ lên được những cảm xúc và tâm trạng của những người phụ nữ khi phải đối mặt với những hoàn cảnh cô đơn và buồn rầu, những cảm xúc này hiện diện rõ trong tác phẩm của ông, và điểm nổi bật nhất là cảnh chân thành của người phụ nữ độc thân.
Gà gáy trong sương buổi sáng 5 trống
Cỏ phất phơ trong làn gió 4 chiều.
Thời gian trôi đi rất chậm nhưng không thể nào dừng lại
Nỗi buồn dày đặc như biển xa vô tận.
Hương thơm phát ra từ việc thắp hương cầu mong, hòa mình vào sự mê mải
Gương phản chiếu lại nước mắt, chấm dứt vào hạt ngọc châu
Đàn cầm và sáo kê nhau, tạo ra âm nhạc hài hòa
Dây đàn uyên ương rung lên, gợi lên những lo lắng, sợ hãi
Những cảm xúc đang hiện hình trong lòng mỗi người, đã tạo ra nhiều biểu hiện mạnh mẽ và xúc động nhất trong tâm hồn, những điều này đã tạo ra nhiều cảm xúc sâu sắc trong tâm hồn của tác giả, khiến cho ông phải tạo ra những điều mang ý nghĩa khi ông vẽ ra những hình ảnh tâm trạng và miêu tả những cảm xúc ấy, nhiều cảm xúc và trải nghiệm ấy phản ánh những điều chân thực về cuộc sống và điều này tạo ra những giá trị đích thực trong việc thể hiện sâu sắc những tình cảm tiêu biểu và phức tạp trong tâm hồn con người.
Những tiếng gà gáy vẫn vang lên trong sương mù, đánh thức trong lòng tác giả những cảm xúc cô đơn và đau đớn nhất, trong những tháng ngày xa cách, không có sự gắn bó, tạo ra những cảm xúc xa cách và làm tăng thêm những cảm xúc dày đặc và đau đớn về tâm trạng và trải nghiệm phức tạp của con người, những cảm xúc này đã tạo ra những hình ảnh cô đơn, độc thân và buồn bã, và sự bóng bế của họ chỉ cô đơn như những chiếc bóng mờ mịt, lạc lõng giữa những ngày dài u tối, những trạng thái ấy đã phản ánh rõ những giá trị sâu sắc và tạo ra nhiều cảm xúc mạnh mẽ khi ta nhìn thấy hình ảnh xa xôi và đơn côi:
Gà gáy trong sương buổi sáng 5 trống,
Cỏ phất phơ trong làn gió 4 chiều.
Thời gian trôi đi rất chậm nhưng không thể nào dừng lại
Nỗi buồn dày đặc như biển xa vô tận.
Dù tiếng gà vang lên trong sương mù, nhưng người phụ nữ vẫn cô đơn trong căn phòng của mình, với những hình bóng phơ phất, không còn sự sống, những khoảng thời gian dài đầy khắc nghiệt, 5 tháng đã trôi qua nhưng tình yêu vẫn làm nặng nề những cảm xúc và kỷ niệm về người chồng, người tình, những thời kỳ xa cách đem lại nhiều cảm xúc và nỗi nhớ, nỗi buồn sâu thẳm như biển bao la, xa xôi và cách biệt, tạo ra sự cô đơn và làm suy yếu tình yêu và sự sống của chính mình, khiến tâm hồn của những người phụ nữ bị tan rã và tình yêu của họ héo úa, dành những hy vọng và nỗi nhớ mong manh. Tiếng gà vẫn gáy và mong chờ ánh sáng bình minh để giảm bớt nỗi nhớ, nhưng cảm xúc của con người vẫn không thoát khỏi trong khoảng không gian đó, tình cảm sâu sắc và mạnh mẽ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến con người trong không gian rộng lớn của tự nhiên và cảnh vật.
Trong những tình huống đó, con người phải đối mặt với những thời gian cô đơn và hoang vắng nhất của tâm hồn, trong những chiếc gương phản chiếu trong âm nhạc và những cung đàn, con người phải trải qua những cảm xúc và trăn trở, nhưng rồi những âm nhạc ấy cũng đã thể hiện rõ ràng những tình cảm và sự chân thành trong tình yêu dù luôn phải đợi chờ và nhớ thương:
Hương thơm bốc lên đốt cháy tâm hồn say mê,
Gương chiếc soi lại những giọt lệ châu báu rơi đầy.
Đàn sắt đánh mạnh gợn sóng trên phím đàn,
Dây uyên kinh đứt, tiếng đàn cất lên vang vọng đau thương.
Tâm hồn của những người phụ nữ đang lắng nghe trong những kí ức, và tự nhìn thấy bản thân qua gương, khiến cho những giọt lệ tuôn rơi, đàn nhạc vẫn vang lên nhưng tâm trạng trầm nặng, những cảm xúc này đặc biệt mạnh mẽ khi đọc những dòng từ tác giả, phản ánh về tình cảm và trải nghiệm của những người phụ nữ.
Những hình ảnh cô đơn và bất an, mang theo những cảm xúc sâu thẳm và tận cùng trong lòng, những cảnh tượng như chiếc bóng đơn độc, in dấu trong những nỗi đau tinh thần của những người phụ nữ đơn độc và cô đơn. Hình ảnh của người phụ nữ đang sống trong cảnh lẻ loi và độc thân mỗi ngày, đó là điều đau buồn và bi thương nhất.
Phân Tích 8 Câu Ở Giữa Bài Tình Cảnh Lẻ Loi - Mẫu 2
Đoàn Thị Điểm, một người phụ nữ tài năng, nhưng đến 37 tuổi mới kết hôn. Khi mới cưới ông Nguyễn Kiều, ông phải đi Trung Quốc. Trong thời gian ông đi, bà sống như một người phụ nữ cô đơn, có lẽ vì vậy khi dịch 'Chinh Phụ Ngâm' bà có sự đồng cảm sâu sắc với người phụ nữ đó. Tám câu thơ giữa đoạn trích nêu lên nỗi buồn triền miên và sâu sắc.
Nỗi buồn của người chinh phụ được mô tả qua các cảnh vật xung quanh. Tiếng gà báo hiệu buổi sáng và hình ảnh người vợ thao thức suốt đêm nhớ chồng đi xa. Cây hòe phất phơ trong đêm gợi lên cảm giác hoang vắng đáng sợ. Một đêm dài thao thức ngỡ như cả một năm trôi qua. Sử dụng so sánh để nhấn mạnh thời gian kéo dài, làm cho nỗi buồn của người chinh phụ trở nên trĩu nặng hơn, kéo dài thêm thời gian lắng đọng, tạo ra cảm giác không gian mênh mông hơn. Tác giả muốn truyền tải tâm trạng sầu muộn, lo âu, khắc khoải của người chinh phụ. Nỗi buồn nặng trĩu, dai dẳng theo thời gian, sâu và rộng như biển cả. Ngoại cảnh góp phần mô tả tâm trạng của người chinh phụ, được tác giả miêu tả khá tỉ mỉ. Mọi âm thanh, cảnh vật, tâm trạng con người đều được tác giả lựa chọn từ ngữ cẩn thận, trau chuốt. Tâm trạng u sầu của người chinh phụ đã lan tỏa khắp không gian, nỗi buồn như gắn liền với ngoại cảnh.
Người chinh phụ đốt hương, soi gương, gảy đàn với hy vọng quên đi nỗi buồn. Tuy nhiên, từ 'gượng' xuất hiện ba lần nhấn mạnh sự miễn cưỡng, chán chường, có phần uể oải, rầu rĩ. Nàng đi đi lại lại trong hiên nhà, rồi vào phòng kéo rèm trông tin của chim thước nhưng không thấy. Các hành động lặp đi lặp lại cho thấy sự bế tắc trong lòng nàng. Nỗi buồn xa cách kết hợp với sự lo lắng. 'Dây uyên kinh đứt', 'phím loan ngại ngùng' báo hiệu sự không may mắn trong tình cảm vợ chồng. Người chồng đi chiến trận khiến nàng đau khổ và cô đơn hơn. Đây là biểu hiện của tình yêu, tình cảm vợ chồng son sắt, người vợ luôn nghĩ về chồng. Liên hệ với bài thơ Khuê oán của Vương Xương Linh, cũng trong hoàn cảnh chồng đi chinh chiến, nỗi sầu oán của người thiếu phụ được phê phán. Từ đó thấy được chủ nghĩa nhân đạo thể hiện sâu sắc trong hai tác phẩm này.
Tám câu thơ là những cung bậc cảm xúc, các sắc thái của sự cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ. Khát khao của nàng là được hạnh phúc bên chồng. Người chinh phụ được đặt vào thiên nhiên để mô tả tâm trạng. Điều này thể hiện sự tài năng của nhà thơ trong việc sử dụng tượng trưng.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được tác giả miêu tả chân thực. Đoàn Thị Điểm đưa ra cái nhìn sâu sắc về nỗi buồn, lo âu của người phụ nữ. Cô đơn và khát khao hạnh phúc là những yếu tố chính trong tâm trạng của nhân vật. Tác giả đã chọn từ ngữ tỉ mỉ để mô tả cảnh vật, tâm trạng con người, và sử dụng biện pháp so sánh để nhấn mạnh tâm trạng sầu muộn của nhân vật.
Đặng Trần Côn là nhà văn đã thể hiện được tài năng trong việc mô tả cảm xúc và tâm trạng của những người phụ nữ trong hoàn cảnh cô đơn, buồn tủi. Cảnh lẻ loi của người chinh phụ nổi bật trong tác phẩm của ông.
Tiếng gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.
Cảm xúc đang dần bộc lộ lên những cảm xúc mạnh mẽ và day dứt nhất trong tâm hồn mỗi người, những điều đó tạo nên nhiều cảm xúc trong tâm hồn tác giả, luôn cần biết làm nên những điều ý nghĩa khi tác giả đã vẽ ra những tâm trạng và khắc khoải những dòng tâm trạng đó. Nhiều cảm xúc và hình thức đó tạo ra nhiều cảm xúc của riêng chính con người tác giả về cuộc đời, làm nên những giá trị trong việc khắc sâu thêm dòng tâm trạng điển hình và mênh mông trong tâm hồn con người.
Tiếng gà eo óc đang gay trong những năm sương và đang trống vắng trong khoảng trống tâm hồn tác giả về những năm tháng xa cách tình cảm lẻ loi, không có sự gắn bó, tạo dựng nên cảm xúc xa vắng và gia tăng những nhịp cảm to lớn và đang ản chứa bao dòng tâm trạng lớn lao và mênh mang về con người. Tâm trạng đó đã khắc khoải, cảm giác cô đơn, lẻ loi, và bóng dáng của họ chỉ đơn chiếc như tấm tà chiều, đơn côi trong ngày dài lê thê, mang đậm những giá trị lớn lao và tạo dựng nên nhiều cảm xúc to lớn khi nhìn thấy hình ảnh xa xôi và đơn bóng một mình:
Tiếng gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà gáy năm trống nhưng người chinh phụ vẫn đơn bóng trong phòng của mình, với những hình bóng bốn bên phơ rũ không còn sức sống. Thời gian dài khắc khảo như niên, năm tháng đã trôi qua nhưng tình cảm đó vẫn mang nặng những tình cảm và nỗi nhớ thương với người chồng, người yêu của mình. Thời gian xa vắng nhưng nỗi buồn đó thì mênh mang và dằng dặc tựa miền biển xa, làm cho tâm hồn của những người chinh phụ héo mòn đi sức sống và tình yêu của chính mình. Những tiếng gà đang gáy và mong mỏi đến trời sáng để cho những nỗi nhớ mong đó bớt đi, nhưng tình cảm của con người dường như vẫn không thể thoát khỏi trong cái không gian đó, tình cảm mặn nồng và nó đã có tác động lớn lao đối với con người trong cả bầu không gian rộng của thiên nhiên.
Trong những cảnh giới đó, con người dường như đang phải trải qua những thời kỳ cô đơn và hiu quạnh nhất của lòng người, những cảm xúc trong những lúc gượng gị trên những dây đàn và phím đàn, nhưng rồi những âm nhạc ấy cũng đã diễn tả rất tỉ mỉ những tình cảm và sự mặn nồng trong tình yêu dù vẫn phải chờ đợi và nhớ mong:
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Tâm hồn của những người chinh phụ đang mê mải trong những kỷ niệm, và đang soi mình trong chiếc gương, để rồi những giọt lệ rơi xuống, cầm đàn mà gảy nhưng tâm trạng đang nặng trĩu, những dòng cảm xúc ấy đang dần khắc sâu và ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đối với mỗi con người khi đọc những dòng thương nhớ của chính tác giả, về cảm xúc và tâm trạng của những người thiếu phụ.
Những hình bóng cô đơn, và mang những dòng cảm xúc chan chứa những nỗi chứa tran và mang trong lòng người những cảm xúc của con người, những cảnh vật như chiếc bóng cô đơn, và in dấu trong những nỗi đau xé lòng về tâm trạng của những người chinh phụ cô đơn, lẻ loi. Hình ảnh người thiếu phụ đang đơn chiếc trong hình bóng cô đơn và lẻ loi đơn bóng của mỗi ngày, đó là điều buồn bã và tủi hờn nhất.
Cảm nhận 8 câu giữa Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 4
Văn học Việt Nam đã chứng kiến bao cuộc chia ly, tiễn biệt đầy lưu luyến như thế. Và vào thế kỷ XVIII, “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn đã cho chúng ta thấy được một cuộc tiễn biệt thấm đẫm tâm trạng, đằng sau đó là nỗi đau của người phụ nữ khi chồng đi chinh chiến. Đoạn trích 'Gà eo óc gáy sương năm trống, đến Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng” làm nổi bật nỗi lẻ loi cùng những nỗi nhớ mong của người chinh phụ.
Bức chân dung người phụ nữ không chỉ gợi lên qua bước chân, động tác, cử chỉ, qua gương mặt buồn rầu, dáng ngồi trước ngọn đèn khuya mà còn nổi bật trên nền của không gian và thời gian:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Hình ảnh “bóng hòe phất phơ” suốt ngày dài kèm theo tiếng gà gáy sương như tô đậm nỗi cô đơn, triền miên của nhân vật trữ tình. Tiếng gà gáy đêm thâu hiu quạnh lan tỏa nỗi chán chường trong lòng. Nàng thức trọn năm canh để nghe thấy sâu trong lòng nỗi sầu, đau thương ấy. Từ “phất phơ” biểu đạt dáng điệu võ vàng của người chinh phụ, tâm trạng ngóng chờ người chồng. Tác giả đã biến thời gian thành thời gian tâm lí, không gian thành không gian cảm xúc bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật so sánh trong hai câu thơ:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tự miền biển xa”
Câu thơ theo nguyên tác của Đặng Trần Côn:
'Sầu tựa hải
Khắc như niên”
Thêm hai từ láy “dằng dặc” và “đằng đẵng” nhưng sự chán chường, mệt mỏi vô vọng của người chinh phụ trở nên cụ thể, sâu sắc và chiều sâu. Kể từ khi chồng ra đi, một ngày trở nên dài lê thê như cả một năm, mối lo toan, nỗi buồn sầu như đông đặc, tích tụ đè nặng tâm hồn người phụ nữ đáng thương ấy. Từng ngày, từng giờ, từng phút người chinh phụ vẫn chiến đấu với nỗi cô đơn, chiến đấu để thoát khỏi cuộc sống tẻ nhạt:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Điệp từ “gượng” được nhắc lại ba lần trong bốn câu tiếp theo, thể hiện sự nỗ lực vượt thoát của người chinh phụ. Nàng gượng đốt hương tìm thanh thản nhưng rơi vào cơn mê man. Nàng gượng soi gương chỉ thấy những giọt lệ. Nàng gượng chơi nhạc để giải tỏa nhưng nỗi âu lo về tình cảm lại hiện hình. Nỗi cô đơn, lẻ loi được miêu tả bằng bút trữ tình để độc giả cảm nhận tâm trạng của nhân vật ngay cả khi ngày lên và khi đêm xuống, luôn đồng hành cùng người chinh phụ cả khi đứng, ngồi, ở trong phòng hay ngoài trời. Sự cô đơn đã làm hao gầy cả hình dáng và tâm tư của người chinh phụ.
Chỉ mới 8 câu thơ thôi nhưng ta dường như đã trải qua một cuộc sống hay chỉ là tưởng tượng một phần nỗi cô đơn, nhớ mong người chồng ở trận. Nỗi đau này còn tố cáo chiến tranh, làm chia rẽ lứa đôi hạnh phúc. Qua đó ta cảm nhận được cái khát khao quyền hạnh phúc của con người.
Cảm nhận 8 câu giữa Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 5
'Chinh phụ ngâm” có nhiều đoạn thơ diễn tả nỗi cô đơn, sầu muộn, buồn khổ của người chinh phụ. Đây là một đoạn thơ thể hiện tâm trạng ấy của người phụ nữ đáng thương thời chiến tranh, loạn lạc:
' Gà eo óc gáy sương năm trống,
.........
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Người chồng ra trận mãi chưa về, đã 3, 4 năm trên sa trường để lại người vợ trẻ phải trải qua những ngày tháng dài cô đơn và sầu muộn. Nàng ngồi lặng lẽ một mình trong phòng, cô đơn lẻ bóng. Chẳng có ai để giãi bày tâm sự. Chinh phụ thao thức suốt đêm. Lắng nghe tiếng gà “eo óc ” gáy trong sương cùng tiếng trống canh năm. Bốn bên chỉ nhìn thấy bóng hòe “phất phơ”. Từng khắc, từng giờ dài ra như niên. Mối sầu thì dài như miền biển xa.
'Gà kêu rên trong sương gió,
Bóng vẫn lả lướt phía đèn.
Thời gian như đống đổ niên,
Nỗi sầu dày đặc như biển xa”.
Các từ 'kêu rên', 'lả lướt', 'đống đổ', 'dày đặc' gợi lên cảnh vật, thời gian, tăng sự biểu cảm nỗi cô đơn và tâm trạng thao thức của người chinh phụ. Hai so sánh về thời gian “như đống đổ niên”, 'dày đặc như biển xa' cực tả nỗi buồn lê thê suốt đêm ngày.
Sầu tủi, buồn chán rồi e ngại và lo sợ, 'gượng” đốt hương, 'gượng” soi gương, rồi 'gượng” gảy đàn. Buồn chán ngán và mỏi mệt. Nước mắt “chứa chan” thấm đầy gối, tràn đầy mi. Các từ ngữ: 'kinh”, “ngại”, cùng điệp ngữ “gượng ' đã cực tả nỗi buồn chán nản, đau khổ, lo sợ của nàng chinh phụ. Tâm hồn thì “mê mải” chân tay thì rụng rời:
‘‘Hương thảo đốt, hồn đà mê mải,
Gương bóng soi, lệ lại chứa chan.
Sắt cầm mạnh mẽ, gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím rung ngại chùng”
Nhạc điệu vần thơ song thất lục bát réo rắt, triền miên như nỗi buồn cô đơn da diết, dằng dặc, đằng đẵng trong lòng người chinh phụ. Các từ láy, các so sánh được sử dụng tài tình để khắc hoạ nội tâm nàng chinh phụ. Lời thơ đẹp, ngôn ngữ trau chuốt. Ngoại cảnh như thấm nỗi buồn cô đơn, đau khổ của lòng người.
Chiến tranh phong kiến đã “dãi thây trăm họ nên công một người”. Trên chiến địa thì 'hồn tử sĩ gió ù ù thổi”... Ở Mọi chốn làng quê, những người mẹ già, người vợ trẻ đã lo lắng, chờ mong. Đoạn thơ giàu giá trị nhân đạo đã nói lên cái giá nặng nề mà người chinh phụ phải trả. Vì thế đoạn thơ mang ý nghĩa tố cáo cuộc chiến tranh phi nghĩa vô nghĩa đã gây ra bao đau khổ cho nhân dân.
Cảm nhận 8 câu giữa Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 6
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm tiêu biểu của Đặng Trần Côn được sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Vừa mới ra đời tác phẩm đã gây được tiếng vang lớn và đến khi có bản dịch nôm của Đoàn Thị Điểm thì tác phẩm này lại trở nên nổi tiếng hơn bao giờ hết. Bài thơ nói về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ khi người chinh phu ở chiến trường xa xôi. Tất cả những tình cảm đó đã lan tỏa, thấm đẫm vào cảnh vật:
“Gà kêu rên trong sương gió,
Cây rủ bóng dọc dài đèn.
Thời gian chẳng màng miên,
Nỗi sầu dày đặc như biển xa”
Tiếng gà là cái động đã được sử dụng để miêu tả cái tĩnh tại của thiên nhiên, nỗi cô đơn của con người. Nàng đã thức trọn năm canh để nghe thấy tận sâu trong đáy lòng mình nỗi sầu, nỗi đau vô hình ấy. Từ láy “rủ bóng” đã biểu đạt một cách tinh tế cái dáng điệu, cái tâm trạng của một người vợ ngóng chờ từng chút hình ảnh của chồng. Đặc biệt hình ảnh cây “rủ bóng” sà xuống như ẩn chứa trong đó cái dáng vẻ tiều tụy của người chinh phụ. Dáng vẻ cô độc của người chinh phụ như bị chìm lấp giữa không gian ấy.
Trong những dòng thơ tiếp theo, nỗi đau thổn thức rõ ràng trong từng chữ, từng câu, mặc dù tác giả không đề cập đến chiến tranh:
“Hương phảy nương lòng say mê,
Gương phảy soi lệ, biển chan chan.
Sắt nắm phảy gảy đàn tan,
Dây đứt, phím loan, chùng như hòan”
Từ 'phảy' được lặp đi lặp lại ba lần trong bốn câu thơ tiếp theo thể hiện sự cố gắng vượt qua của người chinh phụ. Dường như nàng cố tìm niềm an ủi trong tâm hồn nhưng lại càng sâu trong vòng xoáy mê muội. Phảy tìm gương, lại rơi nước mắt buồn, phảy tìm âm nhạc, nỗi lo sợ càng trỗi dậy. Chạm vào đâu, cũng làm đau lòng, chạm vào cảnh lẻ loi của chính mình. Nỗi đau cô đơn như ám ảnh, vây quanh người chinh phụ. Ở đây, tác giả sử dụng kỹ thuật trữ tình để mô tả nỗi cô đơn của người chinh phụ. Con người với nhiều lo âu đã khiến chính bản thân mình như đang chết dần trong cái vòng xoáy cô đơn ấy.
Đằng sau nỗi đau thảm của người phụ nữ là sự khốc liệt của chiến tranh. Bài thơ không chỉ đơn thuần nói về tình trạng người phụ nữ đang chờ đợi chồng từ chiến trường mà còn một cách gián tiếp tố cáo chiến tranh và những hậu quả mà nó mang lại. Đồng thời, nó cũng thể hiện sự đồng cảm, thông cảm và sự hiểu biết của nhà thơ với người chinh phụ. Đây cũng là giá trị nhân đạo rực sáng trong tác phẩm.
Như vậy, thông qua việc sử dụng khéo léo các biện pháp tu từ, tác giả đã thành công trong việc mô tả thế giới tâm trí sâu thẳm của người chinh phụ cũng như làm cho người đọc nhận thức được cảnh báo về thực tế khốc liệt của chiến tranh thời đó. Tất cả những điều này vừa phản ánh tài năng vừa thể hiện lòng nhân ái của tác giả.
Cảm nhận về 8 câu giữa Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 7
Đặng Trần Côn - một danh sĩ, một nhà thơ vĩ đại của văn học cổ điển, “Chinh phụ ngâm khúc”, là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của ông viết bằng chữ Hán, trở nên phổ biến qua bản dịch của nữ danh sĩ Đoàn Thị Điểm.
Phần trích từ “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” không chỉ là sự thổ lộ, nỗi nhớ của người vợ chồng xa nhau mà còn chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, đặc biệt là 8 câu thơ ở giữa bài.
'Gà sương kêu rên năm trống,
Hoè sương rơi, bóng mình trải ngang.
Kiếp người dài dằng dặc như biển cạn,
Khắc giờ khắc khoải như sóng vỗ xa,
Hương gió đốt hồn dạ buồn sầu,
Gương soi lệ, chan chứa nỗi khôn nguôi,
Sắt gảy ngón đàn gượng, dây đàn tan phím rung ngại chùng.'
Căn phòng trước đây rộng lớn khi hai vợ chồng còn sống chung, giờ trở nên u ám, tăm tối khi chỉ còn một mình người vợ cô đơn, khao khát chồng. Sự chờ đợi từ lúc chồng ra trận đã qua bao tháng ngày, nỗi buồn kề bên cảm xúc của người phụ nữ chồng vắng nhà.
“Đi dạo hiên, lặng lẽ từng bước
Ngồi nơi rèm mỏng, thảnh thơi chờ đợi.
Trong rèm, không khí êm đềm
Có lẽ đã có ánh đèn phản chiếu?”
Giọng thơ u buồn, nhịp thơ trầm, khiến người đọc cảm thấy sâu lắng như tâm trạng của nhân vật. Hành động lặp đi lặp lại như nỗi nhớ không nguôi nghẹn “Đi dạo hiên, lặng lẽ từng bước” liệu có phải từ “lặng lẽ” ẩn chứa ý niệm rằng dù muốn hay không, bước chân vẫn phải tiếp tục? Không gian yên bình khiến tiếng bước chân trở nên nặng nề và cô đơn hơn. Ngày qua ngày đêm qua đêm, nàng vẫn cô đơn một mình, nhớ thương người chồng ở xa “Ngoài rèm mỏng, thảnh thơi chờ đợi.” - chiếc rèm kéo lên lại hạ xuống, tâm trạng nhưng vẫn không đổi, bất kể bên ngoài xảy ra chuyện gì
Nhưng sự chờ đợi mãi mãi đó lại không thấy dấu hiệu hy vọng, “chim thước” chẳng ghé qua để mang lại niềm vui. Bên trong chiếc rèm, chỉ có nàng và ngọn đèn le lói, nàng với bóng dáng của chính mình làm bạn. Nhưng sự nhớ nhung, sự chờ đợi mệt mỏi của nàng chỉ đổi lại là một bóng tối im lặng đầy sợ hãi. Mỗi câu thơ không rơi lệ nhưng đọc giả có thể cảm nhận được dòng lệ tuôn rơi trong lòng nàng… Nỗi nhớ chồng đã khiến nàng tưởng tượng, ôm gối như níu kéo vòng tay chồng, nỗi buồn chia ly có thể thổi bay “như cơm”
Chính nỗi buồn cô đơn đó của nàng, khiến nàng mong chờ một người hiểu và chia sẻ tâm trạng của mình lúc này
“Đèn có biết, hay không biết cũng thôi,
Trái tim em riêng cũng đau xót không kể.
Không nên nói lên nỗi buồn rầu,
Ánh sáng đèn cùng bóng dáng người đều đáng thương.”
Nàng không có ai để chia sẻ nỗi lòng, giải tỏa cơn cô đơn, chỉ có ánh đèn trong phòng. Nhưng liệu chiếc đèn vô tri có thấu hiểu được trái tim trung thành của nàng không, nàng phải một mình chịu đựng nỗi nhớ, cô đơn đến đau lòng “Lòng em riêng đau mà thôi”. Hình ảnh chiếc đèn chứng minh sự cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ
“Buồn rầu nói chẳng thành lời,
Hoa đèn kia với bóng người thương.”
“Buồn rầu nói chẳng thành lời,” Buồn quá chẳng muốn nói, cũng chẳng muốn cười, nàng chỉ một mình với hoa đèn. Hoa đèn là tàn của bấc đèn vẫn còn nung đỏ, như lòng nàng đang cháy đỏ. Hình ảnh “Hoa đèn kia với bóng người thương.” thêm phần đáng thương cho người phụ nữ lẻ loi
Bút pháp ước lệ, thể thơ nhẹ nhàng, nhịp thơ chậm thể hiện tâm trạng, cảm xúc khác nhau của người phụ nữ, với nỗi nhớ chồng, nỗi cô đơn. Đoạn trích cũng lên án chiến tranh phi nghĩa, kêu gọi nhân văn cao cả.
Cảm nhận 8 câu giữa Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 8
Chinh Phụ Ngâm là một trong những tác phẩm nổi tiếng của tác giả Đặng Trần Côn. Tác phẩm đề cập đến nỗi đau chia li của đôi vợ chồng, nỗi đau của người phụ nữ có chồng đi chiến trận. Trong văn học Việt Nam thế kỉ 17, có nhiều tác phẩm về chia li, nhưng Chinh Phụ Ngâm được coi là tác phẩm gây nhiều cảm xúc nhất. Đặc biệt, 8 câu giữa bài Chinh Phụ Ngâm là cung đàn tiễn biệt cô đơn, lẻ loi, nhớ mong nhất của người Chinh Phụ.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa
Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
(8 câu giữa Chinh Phụ Ngâm)
Từ xưa đến nay, mô tả tình cảm không còn xa lạ: “Cảnh buồn không gì vui”. Khi buồn, người ta không thể nhìn thấy cảnh đẹp. Dù xung quanh có đẹp, cũng trở nên u ám. Trong đoạn này cũng vậy, bức tranh về người phụ nữ Chinh Phụ không được mô tả cụ thể mà thông qua không gian, thời gian để diễn đạt nỗi buồn:
“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên”
Hai câu thơ trên diễn đạt về âm thanh của thời gian ban đêm, tiếng gáy sương của gà và âm thanh nhẹ nhàng của cành cây động. Trong cái không gian im lặng đó, tiếng gáy của gà trở nên cô đơn, vọng lại trong một không gian rộng lớn. Điều này chỉ ra rằng đã là đêm, nỗi nhớ kéo dài suốt cả đêm. Khi đêm buông xuống, người vợ mới cảm nhận được mọi cảm xúc của âm thanh xung quanh, những âm thanh đó cũng buồn và cô đơn vô cùng. Tác giả sử dụng hình ảnh mộng mơ để diễn đạt tâm trạng của người phụ nữ. Qua hai câu thơ, chúng ta có thể hình dung được cảnh tượng cô đơn của người vợ, sự chìm đắm dài dằng của đêm tối và cảnh vật 'rủ bóng bốn bên' buồn thảm. Trước ánh mắt chờ đợi của người vợ, thời gian trôi quá chậm, cảnh vật cũng trở nên u buồn theo. Câu thơ không chỉ tả chi tiết hình ảnh người vợ mà còn diễn đạt nỗi buồn tràn ngập tâm tư.
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”
Hai câu thơ tiếp theo mô tả sự u sầu của đêm tối. Tác giả sử dụng từ ngữ 'đằng đắng' và 'dằng dặc' để thể hiện sự uất ức, mệt mỏi kéo dài. Nghe có vẻ cụ thể và hình ảnh, tâm tư của người chinh phụ được miêu tả cụ thể và chính xác bằng những từ ngữ ấy. Câu thơ nói rõ nỗi nhớ 'miền biển xa' - đó chính là nỗi nhớ chồng, người đi chiến trận không biết bao giờ trở lại. Chiến tranh gay gắt, có thể kéo dài nhiều năm, vài năm hoặc mãi mãi. Người vợ có chồng đi chiến tranh giống như 'ngồi trên đống lửa', sống chết cách biệt, vì vậy nỗi nhớ trở nên sâu đậm, dằng dặc, đếm từng giờ, từng phút.
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”
Đặc biệt trong 4 câu thơ tiếp theo là những hành động vô cùng cố gắng. Khi nỗi nhớ tràn ngập và cảm xúc chi phối hành động, tất cả những việc mà người chinh phụ làm đều rất cố gắng, ép buộc. Động từ “gượng” được lặp lại nhiều lần để thể hiện sự cố gắng thoát khỏi cảm giác cô đơn, nhưng dù cố gắng thế nào cũng rất mệt mỏi. Nàng cố châm hương, cố nhìn thấu dòng lệ, cố chạm nhẹ vào dây đàn nhưng tất cả đều đầy oan trái và đau khổ. Cuộc sống hàng ngày vẫn tiếp diễn, nàng chỉ là đang cố gắng diễn xuất vai diễn đúng đắn nhưng cảm xúc quá mạnh mẽ. Nàng đến gương để làm đẹp lại chỉ thấy những giọt lệ. Nàng thử với âm nhạc để giải tỏa nỗi buồn thì lại nhớ đến mối tình đầy oan trái và những vấn đề hiện tại.
Đàn gảy sắt gượng ngón
Dây đứt uyên, phím ngại chùng”
Trong hai câu thơ trên, tình duyên đoạn, phím loạng choạng. Vợ chồng xa nhau chỉ trong thoáng chốc, chiến tranh cướp đi người thương, cuộc đời chật vật với 'thủy chung' và 'tam tòng tứ đức', đoạn kết sự sống và hạnh phúc của phụ nữ. Nhưng trong xã hội cổ xưa, những quy định cứng nhắc làm sao có thể thay đổi, làm sao có thể đòi lại quyền bình đẳng.
Một phím đàn gãy cũng giống như một mối tình vụng trộm. Nỗi cô đơn của người Chinh phụ được tác giả diễn tả rất chi tiết dựa trên không gian và thời gian, khiến độc giả cảm thấy đồng cảm sâu sắc. Chúng ta đồng cảm với số phận khốn khổ của phụ nữ trong xã hội cũ, phải tuân thủ 'tam tòng tứ đức', hạnh phúc phụ thuộc vào đàn ông và không được tự quyết định cuộc sống của mình do áp đặt của xã hội. Chúng ta đồng cảm với nỗi cô đơn, sự bế tắc và oan trái của người chinh phụ, người vợ mới có chồng đã xa cách và không hẹn ngày trở về.
Trong 8 câu thơ ở giữa, nỗi cô đơn kéo dài, chua cay, triền miên qua các đêm, cảnh vật hoang tàn như tâm trạng của người chinh phụ. Nỗi hoang tàn ấy đang hủy hoại tinh thần người vợ. Điều này thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của tác giả đối với nhân vật của mình và mong muốn giải phóng phụ nữ khỏi những ràng buộc xã hội cũ.
Khổ thơ giữa bài Tình cảnh lẻ loi của người Chinh Phụ đã mô tả cảm xúc của người chinh phụ khi chồng ra trận chiến. Nó cũng lên án chiến tranh phong kiến đã tách rời các đôi lứa và thể hiện khát vọng hạnh phúc và ý nghĩa sống của phụ nữ trong xã hội cổ đại.
Tám câu giữa Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Mẫu 9
Khác với thời kỳ văn học trung đại chú trọng vào việc ca ngợi những anh hùng hào kiệt, những chiến công vĩ đại của dân tộc, thì vào thế kỷ 18, 19 khi xã hội phong kiến lâm vào khủng hoảng, với những cuộc chiến tranh liên miên, văn học bắt đầu trỗi dậy với tinh thần nhân đạo, thể hiện sự quan tâm đến cuộc sống con người. Trong số đó, 'Chinh Phụ Ngâm' của Đặng Trần Côn, dịch bởi Đoàn Thị Điểm, nổi bật với 8 câu thơ ở giữa.
Nếu 8 câu đầu tác giả miêu tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ, thì 8 câu tiếp theo nói về cảnh vật xung quanh nhưng lại gợi lên nỗi sầu thương của người phụ nữ, làm cho nàng càng đau lòng hơn:
“Gà gáy sương mờ năm trống
Hòe phất phơ, bóng rủ bên kia”
Những câu thơ về cảnh vật cũng là lời diễn đạt cho nội tâm. Tiếng gà gáy đêm là âm thanh phản ánh tâm trạng, truyền đạt qua tâm trí đau đớn, bất hạnh của nhân vật suốt năm tháng. Nhìn những bóng đêm không phải là thời gian trôi qua dễ dàng mà là hình ảnh của người phụ nữ đếm từng khoảnh khắc trôi qua.
“Khắc giờ dài đằng đắng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa biển xa.”
Người phụ nữ chinh phụ có những suy nghĩ đặc biệt về thời gian. So với bản gốc, Đoàn Thị Điểm đã sáng tạo thêm những từ ngữ biểu cảm, một khoảnh khắc chờ đợi dài lâu như cả một năm, nỗi buồn miên man tựa như biển xa vô hạn, được thể hiện bằng tâm trạng. Nỗi buồn hiện lên nặng nề, đau đớn, dằng dặc không ngừng, bao trùm cả không gian. Trong cảnh cô đơn và u tịch, người phụ nữ chinh phụ cố gắng vượt qua:
“Hương gượng đốt hồn mê mải
Gương gượng soi lệ, châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Những nỗ lực để thoát ra khỏi cảm giác cô đơn cuối cùng cũng rơi vào bi kịch. Đốt hương để tạo ấm cho căn phòng, làm tan chảy lạnh giá. Gượng soi gương để tìm kiếm hình ảnh mới. Tìm đến âm nhạc để giải tỏa trái tim. Nhưng, mọi nỗ lực của người phụ nữ chinh phụ dường như không đem lại kết quả như mong đợi. Khi đốt hương, nỗi buồn càng trầm lặng hơn. Việc soi gương lại đem đến sự chìm sâu hơn trong cô đơn. Cố gắng chơi đàn nhưng âm nhạc không vang lên, lo lắng về việc dây đàn đứt, phím run lẩn tránh - dấu hiệu không may mắn trong tình yêu. Người phụ nữ chinh phụ xuất hiện sau khi tiễn chồng đi ra trận, đã chứng kiến sự chờ đợi đến mòn mỏi và nỗi cô đơn đến chìm vào tâm hồn trong tình cảnh lẻ loi. Sau trạng thái bế tắc cực điểm, bản thơ trở nên nhẹ nhàng hơn, cảm xúc thơ tươi sáng hơn.
Thể thơ của bài Tình cảnh lẻ loi của người Chinh Phụ đã thể hiện một cách tinh tế các tình cảm cô đơn, buồn rầu khác nhau của người phụ nữ chinh phụ, luôn khát khao được sống trong tình yêu và hạnh phúc gia đình. Tám câu thơ giữa cũng thể hiện tấm lòng thương yêu và cảm thông sâu sắc của tác giả đối với mong muốn hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ chinh phụ.