Đánh giá bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo của Trần Đăng Khoa bao gồm 3 bài văn mẫu tuyệt vời cùng với hướng dẫn chi tiết về cách viết. Qua 3 bài đánh giá về Lính đảo hát tình ca trên đảo dưới đây, các bạn học sinh có thể lựa chọn cách tiếp cận phù hợp, một phong cách viết văn thú vị, để sau này nó trở thành kiến thức quý báu của bản thân.
Lính đảo hát tình ca trên đảo mô tả về cuộc sống của những lính chiến trên quần đảo Trường Sa vào những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Mặc dù họ sống trong điều kiện thiếu thốn vật chất, nhưng tinh thần của họ lại rất lạc quan, tràn đầy niềm vui sống. Dưới đây là 3 bài đánh giá hay nhất, mời các bạn cùng thưởng thức. Ngoài bài viết đánh giá, bạn cũng có thể tham khảo phân tích về Lính đảo hát tình ca trên đảo.
Kế hoạch tổ chức cảm nhận bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
I. Giới thiệu: Tổng quan về tác giả và tác phẩm.
II. Phần thân:
- Phân tích về cuộc sống của các chiến sĩ biển trên 4 dòng thơ đầu tiên.
- Đoạn ca tỏ tình trên biển bao la nắng gió.
- Nét độc đáo của nghệ thuật trong bài thơ.
III. Kết luận: Tổng kết nội dung và đánh giá về bài thơ.
Cảm nhận về bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo - Mẫu 1
Trần Đăng Khoa được mọi người tán dương và được biết đến là 'Thần đồng của thơ ca'. Với ngôn từ giản dị, hình ảnh quen thuộc, những tác phẩm của ông dễ dàng xâm nhập vào tâm trí và trái tim của người đọc. Trong số đó, chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm 'Lính đảo hát tình ca trên đảo'. Bài thơ đã truyền đạt những hình ảnh thực tế về cuộc sống hàng ngày của người lính trên những hòn đảo đầy sóng gió.
Bắt đầu bài thơ, Trần Đăng Khoa ngay lập tức đưa độc giả đến với một khung cảnh:
'Đá san hô trở thành sân khấu
Một số tấm tôn dùng làm mộ cho vài con gà'
Ở nơi đảo xa xôi, mọi thứ đều khan hiếm, thiếu thốn. Do đó, sân khấu chỉ là một cấu trúc tạm thời, được lắp ráp, chế tạo từ 'đá san hô'. Những con gà cũng phải sống trong một môi trường khắc nghiệt và chỉ có một ít tấm tôn để che chắn. Qua hai câu thơ đơn giản này, nhà thơ đã mô tả một cách tinh tế cuộc sống khó khăn của những người lính trên đảo. Cuộc sống đó còn phải chịu đựng nhiều ảnh hưởng từ thiên nhiên khắc nghiệt:
'Đừng trách chúng tôi dùng vật liệu tạm thời
Không màn nào chịu đựng nổi biển Trường Sa'
Cách gọi gắn kết như 'em', 'chúng tôi' thể hiện sự đoàn kết giữa con người. Người lính nói nhẹ nhàng, như đây chỉ là một câu chuyện nhỏ, không đáng chú ý. Câu thơ giống như lời thú nhận, lời giải thích nhẹ nhàng về tình hình. Đồng thời, tinh tế nhấn mạnh vào ý chí, dũng cảm của những người sẵn lòng đối mặt với biển cả dữ dội.
Dù thiếu thốn vật chất, với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, người lính vẫn giữ nụ cười lạc quan:
'Gió thổi rát mặt, Đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như đàn chim hoang
Không quan trọng. Hỡi các đồng đội thân mến
Chúng ta sẽ bắt đầu. Mây nước đã làm nền'
Sống giữa biển cả bao la, người lính hàng ngày phải đối mặt với nhiều khó khăn. Tuy nhiên, họ vẫn giữ thái độ bình thản. Câu 'Không quan trọng' cho thấy sự bình tĩnh, thư thái của họ. Dường như, những khó khăn đó không còn làm họ lo lắng nữa. Bây giờ, họ tập trung vào việc chuẩn bị cho màn biểu diễn đặc biệt trên sân khấu 'không giống ai' - 'mây nước đã làm nền' cùng với đội ngũ diễn viên và khán giả đặc biệt:
'Sân khấu đông đúc với những chàng trai đầu trọc
Người xem đầy rẫy những lính trọc đầu
Nước ngọt khan hiếm không dành để gội đầu
Cả lính trẻ lẫn lính già đều đầu trọc giống nhau'
Mặc dù chỉ là bốn dòng thơ nhưng ba lần sử dụng từ 'trọc' đã nhấn mạnh vào ngoại hình đặc trưng của những người lính đảo. Ngoài ra, nước ngọt cũng rất khan hiếm. Do đó, họ không muốn sử dụng nguồn nước quý giá đó để gội đầu. Từ người mới đến người cũ, từ lính trẻ đến lính già, tất cả đều đồng lòng. Họ khuyến khích nhau cắt mái tóc, biến mình thành 'chàng đầu trọc' để tiết kiệm nước. Trong một giọng điệu hóm hỉnh, Trần Đăng Khoa đã mô tả một cách chân thực về cuộc sống của người lính đảo, mặc dù khó khăn nhưng không bao giờ bi ai. Từ sự khó khăn đó, họ biến nó thành niềm vui: 'Đôi khi, chúng tôi đùa với nhau/ Là những người xa lạ với bụt ốc đây'. 'Rốt cuộc, hóa ra bụt ốc cũng hát ca'.
Ở giữa không gian bao la, với mây trời và sóng biển lồng lộn, người lính đảo được ví như 'bậc thầy' tạo ra một khúc ca đặc biệt:
'Những giai điệu tự do như cơn gió biển
Những lời ca toàn vẹn với nỗi nhớ thương'
Nếu như những giai điệu mạnh mẽ, tự do như cơn gió biển thổi, thì những lời ca lại nhẹ nhàng, tha thiết nỗi nhớ. Một bản tình ca độc đáo, mới lạ, chỉ có ở người lính đảo. Hòa theo nhịp điệu, những người lính cất lên những ca từ tâm tình, chứa đựng tình yêu thương 'Rằng có đêm trăng dẫn em đi dạo', 'Người yêu của tôi ơi, em ở phương nào?'. Thông qua lời ca, họ khéo léo diễn đạt tình cảm chân thành 'Rằng chúng ta là những con người/ Yêu em chân thành hơn cả muối mặn/ Dù tình yêu chưa biết dành cho ai'. Có thể thấy, người lính đảo hiện ra với vẻ đẹp chân thực của tính cách lạc quan, vui vẻ, và tâm hồn trong sáng. Như bao người khác, những chàng trai ấy cũng có trái tim mong ước hạnh phúc và tình yêu đôi lứa.
Bản tình ca đầy cảm xúc ấy cũng là bài hát ngợi khen đất nước thân yêu:
'Hãy hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng rực trong lòng ta đây
Chúng ta vững vàng giữa những sóng gió khắc nghiệt
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu từ đây...'
Trên hết, trong trái tim rộn ràng từng nhịp đập, tình yêu đất nước vẫn cháy bỏng hơn bao giờ hết. Nó là ngọn lửa thêm nhiệt huyết, là nguồn sức mạnh cho những người lính. Giữa những sóng gió của biển cả, người lính đảo luôn kiên cường cầm súng, bảo vệ mảnh đất của quê hương. Qua đó, họ khẳng định quê hương bắt nguồn từ những vùng đất thiêng liêng như vậy.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh ấn tượng:
'Đột nhiên nhìn lại phía sau
Ngoài bờ biển người đâu cũng đông đúc
Ồ, hóa ra toàn những người đầu trọc...'
Khổ thơ cuối vẫn giữ nguyên sự hóm hỉnh, vui vẻ và hồn nhiên như các phần trước. Khi thủy triều rút, những tảng đá trơn bóng như cái đầu trọc nổi lên trên mặt nước. Có thể thấy, điều kiện sống thực sự khắc nghiệt!
Bằng ngôn từ trong sáng, đơn giản, dễ hiểu; hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc, nhà thơ đã tạo ra những hình ảnh cụ thể, chi tiết về cuộc sống trên hải đảo xa xôi, hiểm trở. Việc sử dụng thành công các biện pháp tu từ như so sánh 'Những giai điệu ngang tàn như gió biển', điệp ngữ 'Hãy hát lên cho',... cũng góp phần thành công trong việc khắc họa hình ảnh người lính đảo. Họ là những con người lạc quan, yêu đời, đầy mơ mộng với cuộc sống. Chính họ đã và đang ngày từng ngày, từng giờ bảo vệ chủ quyền đất nước.
Không lòe loẹt, lấp lánh, 'Lính đảo hát tình ca trên đảo' là những dòng thơ vô cùng nhẹ nhàng, hạnh phúc. Trần Đăng Khoa đã thông minh khi khám phá chủ đề về người lính từ điều đơn giản và thân thuộc. Qua tác phẩm này, ta càng trân trọng, biết ơn công lao lớn lao của thế hệ trước.
Cảm nhận Lính đảo hát tình ca trên đảo - Mẫu 2
Cuộc sống giống như một cánh đồng mà thơ vườn mầm mống (Puskin). Thơ là một loại hình văn học thể hiện tình cảm, là những rung động của trái tim con người trước cuộc sống. Ta tan chảy trước áng mây hồng của buổi sớm mai hay áng mây u tịch khi chiều tà buông xuống? Ta xúc động trước bông hoa đẹp quyến rũ hay những cánh đồng lúa úa tàn không còn sức sống? Thơ không chỉ là những bóng hoa kiêu sa mà thơ còn là những luồng gió thổi lên từng hơi, là những con sóng vỗ về bờ cát trắng hay chỉ là những con người chân thực hiện lên đầy đáng yêu. Là một luồng gió không mấy xa lạ, nhưng sức sống mà nhà thơ đó thổi vào mang lại một luồng gió mới mẻ gợi những xúc cảm sâu xa cho người đọc. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo của nhà thơ Trần Đăng Khoa chính là một “bài hát” như thế.
Thơ là cuộc gặp gỡ giữa con người và vũ trụ. Thơ luôn nối kết với cuộc sống, vì thơ tồn tại trong cuộc sống nên “Nhà thơ có thể không muốn, nhưng vẫn cảm thấy mình bị ràng buộc vào sự thay đổi của lịch sử”_ John Perse. Dù có ý thức hay không, thơ vẫn chảy trong dòng cuộc sống lớn lao và nhà thơ không thể tránh khỏi điều đó. Họ là những người hiểu biết cuộc sống nhất, nhạy cảm nhất. Trần Đăng Khoa đứng giữa dòng chảy của thời đại để mang đến những vần thơ trong trẻo, giản dị, làm lay động lòng người. Bài thơ mô tả về những người lính ở quần đảo Trường Sa vào đầu những năm 80 của thế kỉ XX. Dù cuộc sống của họ thiếu thốn vật chất, sống trong điều kiện khắc nghiệt... nhưng tinh thần của họ lại vô cùng lạc quan, yêu đời. Họ vươn cao lời hát về tự do, về tình yêu với quê hương, với đất nước. Dù chưa biết được “người thương” ở đâu, họ vẫn khao khát và mơ ước, họ khẳng định tình yêu chân thành như muối mặn của mình dù chưa hề biết “bóng dáng nào sẽ đến” với họ. Có thể nói, họ thiếu thốn cả về vật chất và tình cảm. Chỉ có tình yêu cuộc sống, tình yêu đất nước luôn tràn đầy trong trái tim họ.
“San hô như sân khấu
Tấm tôn gãy lẻo, gà kêu
Anh chẳng cầu xin từ bọn em
Chẳng có màn che nào chịu nổi cơn gió ở Trường Sa”
Nhà thơ Trần Đăng Khoa được biết đến với những tác phẩm dành cho thiếu nhi, những sáng tác của ông mang lại một thế giới nghệ thuật riêng. Nhưng điều đó không có nghĩa là những sáng tác của ông ngoài lĩnh vực đó lại kém phần sáng tạo, nghèo nàn. Nếu ta đã quen với hình ảnh của lính đồng đội xuất thân từ những người nông dân chân chất trong bài thơ Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu hay những thanh niên yêu nước theo tiếng gọi của tổ quốc trong bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Hát cùng bài ca về người lính, “lính đảo hát tình ca trên đảo” mang một giọng văn, một âm sắc riêng – đầy mới mẻ và đặc sắc giữa cõi văn chương. Vẫn là những lính đảo sống giữa sóng biển với đủ gian khổ mà luôn lạc quan, yêu đời. Khổ thơ đầu tiên mở ra cho ta thấy về những buổi văn nghệ của người lính đảo. Họ không chỉ cứng nhắc trong việc tuân thủ quy định, nội quy, họ cũng có những khoảnh khắc bay bổng, hào hứng trong lời ca và âm nhạc. Với tâm hồn rộn ràng biển khơi, yêu đời, yêu cuộc sống, người lính đã làm sống động nhịp sống thường nhật buồn tẻ ở nơi hoang sơ của mình bằng những giai điệu du dương, mạnh mẽ của mình. Ta đã quen với sân khấu lộng lẫy với dàn ánh sáng, những vũ công diễn viên lộng lẫy thì ở sân khấu của họ thật đặc biệt. Sân khấu của họ không cầu kỳ như thường lệ. Sân khấu của họ được làm từ đá san hô, còn cánh gà chôn mấy tấm tôn tạm. Họ trang trí nơi biểu diễn nghệ thuật bằng những thứ không nghệ thuật – những thứ vốn có trong cuộc sống hàng ngày. Điều đó cho thấy sự thiếu thốn, gian khổ của người lính trên biển xa xôi. Đất nước trong những năm 80 vẫn đầy khó khăn. Những thiếu thốn ấy được những chàng lính yêu đời, lạc quan biện luận bằng một lí do rất chân thực. Theo lời phân trần của họ, sự tạm bợ không phải vì họ không có phông màn trang trí cho sân khấu mà bởi: “không phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa” dễ hiểu và đồng cảm với lí do không thể chống lại đó. Đọc câu thơ này của ông ta khiến người ta nhớ đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:
Trần Đăng Khoa là một trong những nhà thơ nổi tiếng viết về thiếu niên và những sáng tác của ông cho thiếu niên đã tạo ra một thế giới nghệ thuật độc đáo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là những sáng tác của ông bên ngoài lĩnh vực đó lại kém phần sáng tạo, nghèo nàn. Nếu chúng ta đã quen với hình ảnh của các binh sĩ xuất thân từ những người nông dân chân chất trong bài thơ Đồng Chí của nhà thơ Chính Hữu hoặc những người thanh niên yêu nước theo tiếng gọi của tổ quốc trong bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Cùng hát theo khúc ca về người lính, “lính đảo hát tình ca trên đảo” mang một giọng văn riêng, âm điệu riêng – thực sự mới mẻ và đặc biệt giữa thế giới văn chương. Vẫn là những người lính sống giữa sóng biển với đủ gian khổ nhưng luôn lạc quan, yêu đời. Khổ thơ đầu tiên mở ra cho chúng ta thấy về những buổi liên hoan văn nghệ của người lính đảo. Họ không chỉ cứng nhắc trong việc tuân thủ quy định, nội quy, họ cũng có những khoảnh khắc bay bổng, thăng hoa trong lời ca và âm nhạc. Với tâm hồn lồng lộng biển khơi, yêu đời, yêu cuộc sống, người lính đã làm sống động nhịp sống thường ngày buồn tẻ của mình bằng những giai điệu du dương, mạnh mẽ của mình. Chúng ta đã quen với một sân khấu lộng lẫy với dàn ánh sáng, những vũ công diễn viên xinh đẹp thì ở sân khấu của họ thật đặc biệt. Sân khấu của họ không cầu kỳ như thường lệ. Sân khấu của họ được kê bằng đá san hô, còn cánh gà chôn mấy tấm tôn tạm. Họ trang trí nơi biểu diễn nghệ thuật bằng những thứ không mang tính nghệ thuật – những thứ vốn có sẵn trong cuộc sống hàng ngày. Điều đó cho thấy sự thiếu thốn, khó khăn của người lính trên biển xa xôi. Đất nước trong những năm 80 vẫn đầy khó khăn. Những thiếu thốn ấy được những chàng lính yêu đời, lạc quan biện luận bằng một lí do rất chân thực. Theo lời phân trần của họ, sự tạm bợ không phải vì họ không có phông màn trang trí cho sân khấu mà bởi: “chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa” dễ hiểu và đồng cảm với lí do không thể chống lại đó. Đọc câu thơ này của ông khiến chúng ta nhớ đến bài thơ Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật:
Những người lạc quan luôn nhìn thấy những điều thú vị trong khó khăn.
Nhờ những lời của người lính mà người đọc hiểu sâu hơn về vẻ khắc nghiệt của Trường Sa:
“Gió mạnh như dao cắt, đảo biến hình khác nhau
Cát bay như đàn chim hoang
Hãy để cho nó tự nhiên! Hỡi các chiến hữu
Chúng ta bắt đầu. Màn trời đã mở…”
Những dòng thơ như một bức tranh sống động trong tâm trí độc giả về Trường Sa nắng gió. Gió mang cảm giác nắng cháy lên khuôn mặt trần, gió kéo cát bay như đàn chim hoang, gió thổi biến hình của đảo mỗi ngày… Hai câu thơ đó gợi lên những cảm xúc khác biệt trong lòng người về vẻ đẹp tự nhiên của Trường Sa, một nơi mà không phải ai cũng có cơ hội trải qua. Mặc dù cuộc sống hàng ngày phải đối mặt với những thách thức, những gian khó, nhưng người lính nói về điều đó như một phần không thể thiếu của cuộc sống, không đáng lo lắng. Họ không để ý đến điều đó, thay vào đó, họ vẫn sống lạc quan và yêu đời.
“Hãy để cho nó tự nhiên! Hỡi các chiến hữu
Chúng ta bắt đầu. Màn trời đã mở…”
Những người lính bỏ lại sau lưng mọi khó khăn để tận hưởng niềm vui hàng ngày. Niềm vui đó là khi cùng nhau hát cao, niềm vui không cầu kỳ nhưng rất đậm chất lính. Sự kết hợp giữa vẻ khắc nghiệt của thiên nhiên trong những câu thơ và tinh thần phơi phới của những chàng lính là một điểm nhấn nghệ thuật của nhà thơ. Trần Đăng Khoa đã sử dụng khó khăn, gian khổ của cuộc sống để tôn vinh vẻ đẹp tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính. Cách nhà thơ mô tả màn trời mở màn rất độc đáo và thú vị. Ở đây, màn trời là màn sân khấu. Sân khấu đứng giữa không gian bao la nên màn trời mở màn như một liên tưởng độc đáo. Sân khấu ấy không có phông màn vải hoa lá cúng bái, mà thay vào đó, được thay bằng mây nước biển.
“Sân khấu lên xuống mấy anh lính trọc đầu
Người xem đông đúc cũng… như anh lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, liệu có dành để gội đầu
Lính trẻ, lính già đều trọc đầu như nhau
Những lúc vui vẻ, đùa giỡn nhưng tôn sư cụ
Là bà con xa gần với bụt ốc đây mà
Thôi im lặng đi. Đang có gì đang lấp lánh
Thì ra là sư cụ hát tình ca”
Sự khắc nghiệt của thiên nhiên không chỉ làm khó khăn cho hoạt động nghệ thuật của người lính mà còn khiến cho họ phải cạo trọc đầu để đối mặt với tình hình thiếu thốn. Ở nơi xa xôi như Trường Sa, nước ngọt trở nên quý giá hơn cả vàng. Một tài nguyên mà ta coi là bình thường và hiện hữu quanh ta nhưng lại trở nên quý trọng khi chúng ta đặt mình vào hoàn cảnh của những người lính, nơi mà nước ngọt không phải là điều hiển nhiên. Câu thơ “Nước ngọt hiếm, liệu có dành để gội đầu” khiến chúng ta nhớ đến những người lính đầu trọc trong cuộc tây tiến của Quang Dũng:
“Tây tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân màu xanh như lá giữ oai hùng…”
Dù đối mặt với những khó khăn do hoàn cảnh tạo ra, ý chí kiên cường của người lính vẫn mạnh mẽ hơn bất kỳ điều gì khác. Cả diễn viên và khán giả đều là những người “trọc đầu” như nhau. Những người thanh niên ấy đã hy sinh tuổi trẻ, thanh xuân của mình để bảo vệ tổ quốc, và họ cũng biết làm đẹp cho bản thân, mặc dù ai cũng muốn giữ mái tóc của mình. Nhưng nước ngọt trên đảo Trường Sa không chỉ dành để tắm gội mà còn để uống và nấu nướng. Cuộc sống của những người làm nhiệm vụ ở đây có nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng họ vẫn luôn sẵn sàng đối mặt với mọi thử thách, không bao giờ yếu lòng. Tình đồng chí, tình đồng đội luôn sưởi ấm con tim của họ. Họ biết yêu thương nhau, tạo niềm vui cho cuộc sống của mình. Họ cùng nhau nghe giai điệu tình ca của biển cả, những cơn sóng ôm ấp nhau tạo nên một giai điệu đặc biệt chỉ những người sống trên đảo Trường Sa mới cảm nhận được. Biển hiền hòa êm đềm, biển êm đềm hòa khúc hát… là một khúc tình ca. Con người và thiên nhiên hòa quyện vào nhau, con người là trung tâm của vũ trụ và thiên nhiên là nền tảng cho sự tỏa sáng của con người. Tiếng hát rì rầm này có lẽ là trái tim của người lính đang rung động hoặc là lời thì thầm của biển cả.
Khúc tình ca ấy vẫn mãi ngân vang, bỗng chững lại như một bản nhạc đang cao trào lên quãng 8 thì trầm xuống đến lắng đọng lòng người. Cảm xúc thăng hoa của tác giả như gặp điều gì đó bỗng trầm lắng xuống. Ngoài mép biển kia có gì đáng để nhà thơ phân tâm. Kết thúc bài thơ là một câu cảm thán dùng ngữ khí bất ngờ, đặc biệt: “Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu…”, thể hiện thái độ bất ngờ về sự xuất hiện của những người lính đảo. Họ được ví như những hòn đá, chịu nắng chịu mưa để bảo vệ cho an nguy tổ quốc. Họ hi sinh thầm lặng, gạt bỏ những nỗi lòng riêng để cùng phục vụ cho một mục đích cao cả hơn hết đó chính là sự yên bình của đất nước nơi đầu sóng ngọn gió.
Với ngôn ngữ thơ mộc mạc, tự nhiên pha chút đùa vui hóm hỉnh, những hình ảnh so sánh đối lập khác lạ. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo là một bài ca hùng tráng về người chiến sĩ hải quân ở Trường Sa. Qua vài nét phác họa đơn sơ của nhà thơ Trần Đăng Khoa ta có thể cảm nhận được những khó khăn, vất vả, thiếu thốn của người lính nơi biển đảo xa xôi ấy cũng như vẻ đẹp của tinh thần bất khuất, lạc quan yêu đời của họ. Tình cảm ưu ái và ngưỡng mộ của nhà thơ Trần Đăng Khoa dành cho họ cũng theo lời thơ mà bộc một cách tự nhiên, chân thành.
Cảm nhận bài Lính đảo hát tình ca trên đảo - Mẫu 3
“Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ. Mỗi chữ phải là hạt ngọc buông xuống trang bản thảo. Hạt ngọc mới nhấy của mình tìm được do phong cách riêng của mình mà có”. Qua bài thơ ‘’ Lính đảo hát tình ca trên đảo’’ của Trần Đăng Khoa. Ông đã mang tới những hình ảnh về cuộc sống sinh hoạt của người lính nơi hải đảo xa xôi.
‘’Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Với sức mạnh của gió, đảo thay đổi hình dạng như thần thánh, khiến cho không gian trở nên sống động và khác biệt.
Nhìn sân khấu, người ta thấy mấy anh lính đầu trọc, mỗi người đều như nhau, đều kiêu hùng và đều lì lợm.
Trên hải đảo, người lính tự mình tự cạo tóc để tiết kiệm nước, họ biết đánh giá và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Với giai điệu biển khơi, những lời ca về tình yêu vẫn vang vọng, tạo nên bức tranh đẹp và lãng mạn giữa bóng đêm u tối.
Những viên đá trên bãi biển cũng trở nên đặc biệt khiến người ta ngạc nhiên, đều trọc đầu như những người lính trung thành.