Đánh giá về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm gồm 12 bài văn mẫu khác nhau rất hay, kèm theo 3 gợi ý cách viết chi tiết. Giúp các em có thể tham khảo để nâng cao trình độ văn học của mình với những bài văn mẫu gần gũi với chương trình học.
Đánh giá bài thơ Nhàn vô cùng bổ ích với tài liệu này giúp các em trong quá trình học, tự học và tự đọc để mở rộng vốn hiểu biết văn học của mình thêm phong phú, làm văn một cách sáng tạo. Đọc kỹ từng đoạn văn, từng bài rồi suy nghĩ, tham khảo, không sao chép một cách máy móc. Dưới đây là trọn bộ 12 bài văn mẫu đánh giá Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, mời các bạn cùng theo dõi.
Đánh giá về bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Dàn ý đánh giá bài thơ Nhàn đầy đủ
- Đánh giá bài thơ Nhàn học sinh giỏi
- Đánh giá bài thơ Nhàn
- Đánh giá về bài thơ Nhàn
- Đánh giá của em về bài thơ Nhàn
Tóm tắt ý cảm nhận về bài thơ Nhàn đầy đủ
a) Giới thiệu
- Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:
b) Nội dung chính
* Tổng quan về bài thơ
- Bối cảnh sáng tác: Bài thơ được viết là tác phẩm thứ 73 trong tập thơ Nôm “Bạch Vân Quốc ngữ thi”, ra đời sau khi tác giả quyết định rời bỏ cuộc sống ồn ào để sống ẩn dật.
- Giá trị ý nghĩa: Bài thơ thể hiện tâm trạng sâu lắng, tinh tế của tác giả, khẳng định quan điểm về cuộc sống nhàn nhã, hòa mình với tự nhiên, không quá quan tâm đến vật chất và danh vọng, luôn giữ vững nguyên tắc cao quý trong mọi tình huống.
* Phân tích hai câu đề: Tình huống sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm
“Một ngày, một dây, một chiếc cần câu
Ngồi một mình, dầu dãi với niềm vui nào”
- Sử dụng từ “một”: Thể hiện sự cô đơn, lẻ loi
- Trâu, cày, gánh: những công cụ sử dụng phổ biến, đơn giản, thô sơ của người nông dân để làm việc trên ruộng đất.
-> Hình ảnh người nông dân sửa chữa dụng cụ làm việc và mọi thứ đã sẵn sàng, dù làm một mình nhưng tác giả vẫn tươi vui.
- “Thong thả” : thoải mái, tự do, tập trung, cẩn thận
- “dù ai” : bất kể ai
-> Sự khác biệt trong sở thích, lối sống của tác giả: Dù ai có thú vui như thế nào, ta vẫn sống thong thả giữa cuộc sống này, theo cách của riêng mình, thoải mái, tự do.
=> Cụ Trạng quay về sống giữa làng quê để hòa mình vào tự nhiên như một người nông dân già đi, sống trong nghèo khó nhưng yên bình, thanh thản.
* Phân tích hai câu đó: Quan điểm sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm
'Ta ngu ngốc, ta chọn nơi yên bình
Người thông thái, họ tìm đến nơi sôi động'
- Sự đối lập giữa 'ta' và 'người', 'ngốc' và 'thông thái', 'yên bình' và 'sôi động' -> biểu hiện niềm vui sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm so với người khác
- “Nơi yên bình” : một không gian yên tĩnh của tự nhiên, nơi mà tâm hồn có thể tìm được sự thanh thản.
- “Nơi sôi động” : nơi đấu tranh quyền lợi, xô bồ, huyên náo, nơi của quyền lực và tấp nập cuộc sống, nơi mà người ta tranh đấu với nhau cho quyền lợi cá nhân.
-> Ông tự cho rằng mình dại, còn người khác là khôn, nhưng thực ra đó là cách nói ngược, giấu điều gì đó trong hàm ý.
-> Theo tác giả, dại thực ra chính là khôn vì chỉ ở nơi làng quê con người mới có thể sống an nhàn, thanh thản. Khôn thực ra lại là dại vì ở chốn quan trường con người không thể sống theo bản ngã.
=> Cách diễn đạt giấu sự dại khôn của Nguyễn Bỉnh Khiêm bắt nguồn từ trí tuệ, thể hiện sự tự tin, sự kiêu hãnh của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
=> Tư tưởng sống 'tìm yên bình bên trong sự ồn ào bên ngoài'.
* Phân tích hai câu nói: Cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở quê hương
'Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá
Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao'
- 'Măng trúc', 'giá': những món ăn từ 'cây nhà lá vườn' phổ biến mà chính tác giả tự trồng.
- 'Tắm hồ sen', 'tắm ao': tác giả cũng thường tắm ở hồ sen và ao nuôi cá như bao người dân quê.
-> Sự đơn giản, chân thành trong lối sống và sinh hoạt, thể hiện sự gắn bó, hòa quện giữa con người với thiên nhiên.
- Sự hiện diện của bốn mùa trong đời sống: xuân, hạ, thu, đông.
=> Sự mãn nguyện với cuộc sống giản dị, chất phác nhưng vẫn cao thượng, tự do, thoải mái, hòa mình vào thiên nhiên qua cả bốn mùa của tác giả.
* Phân tích hai câu cuối: Triết lí sống nhàn
'Rượu tới, chúng ta sẽ nhấp một ngụm
Nhìn phú quý, giống như một giấc mơ'
- Hình tượng của giấc mơ hè của Thuần Vu Phần -> phú quý chỉ là một ước mơ thoáng qua.
- “Nhìn phú quý”: một cái nhìn từ trên cao, như đã biết trước từ khi chọn lối sống của một người tự nhận mình là “dại” -> cái nhìn của một bậc thầy về tâm lý, ông nhìn phú quý với sự khinh bỉ, không đáng để ông quan tâm.
=> Tác giả nhận ra bằng cách say rượu, ông mới có thể thấy được rằng cuộc sống với danh vọng và phú quý chỉ như một giấc mơ ngắn ngủi, còn cái vĩnh cửu không thay đổi qua thời gian chính là vẻ đẹp của thiên nhiên và phẩm chất của con người.
=> Triết lí sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là sống hòa mình vào thiên nhiên, tránh xa những tình thế danh lợi, tìm kiếm sự thanh thản và sự thư thái.
* Nghệ thuật đặc sắc:
- Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật
- Ngôn ngữ giản dị nhưng giàu triết lí
- Cách phối hợp nhịp thơ một cách linh hoạt và độc đáo
- Sử dụng nghệ thuật đối chiếu, điệp lệch, liệt kê và từ láy
- Sử dụng điển tích một cách khéo léo
- Cách nói ngược ý vui nhộn và hóm hỉnh
c) Kết bài
- Tổng quan về giá trị nội dung của bài thơ Nhàn
- Phát biểu cảm nhận của bạn về bài thơ.
Cảm nhận về Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Lê Quý Đôn đã từng nói: “Thơ bắt nguồn từ trái tim của con người”. Điều này hoàn toàn đúng, vì thơ là nơi chứa đựng những cảm xúc, suy tư sâu sắc của người viết. Một bài thơ chân chính, để vươn lên trên thời gian và lòng người, đòi hỏi nhà thơ phải trải qua bao nhiêu nỗ lực và cảm xúc. Trong “Nhàn”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã truyền đạt những quan điểm, triết lý sâu sắc về con người và cuộc sống, mà cho đến ngày nay vẫn khiến chúng ta suy ngẫm:
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Có thể nói rằng từ thế kỷ XV trở đi, thơ Nôm của Việt Nam đã đạt được những thành tựu, đủ sức giữ vững vị thế cùng với văn học chữ Hán. Các nhà học Nho, bên cạnh việc sáng tác bằng chữ Hán, luôn coi trọng việc viết thơ bằng chữ Nôm. Nếu Nguyễn Trãi có “Quốc âm thi tập”, thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Khi sáng tác thơ Nôm Đường luật, cả Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đều có ý thức sâu sắc về việc Việt hóa:
'Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào'.
Trong thơ xưa, đặc biệt là thơ Đường luật, sử dụng hình ảnh trang nhã, ước lệ hơn là hình ảnh cụ thể, bình dị như mai, cuốc, cần câu. Số từ trong câu thơ trên thể hiện sự thực tế hơn là ước lệ. Mai, cuốc, cần câu là những dụng cụ nông dân sử dụng hàng ngày, không phải là những biểu tượng trái ngược. Với việc sử dụng từ 'một' liên tục, câu thơ thể hiện sự sẵn lòng của Nguyễn Bỉnh Khiêm cho một cuộc sống đơn giản, bình dị. Điều này phá vỡ tính chung chung và là một cách Việt hóa thể thơ Đường luật. Nguyễn Bỉnh Khiêm chấp nhận cuộc sống làm nông dân, bất chấp những người khác đua đòi theo những niềm vui tạm thời. Ông giữ tâm thế bình thản, điềm tĩnh với cuộc sống mà ông đã chọn. 'Nhàn' của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là sự lười biếng, mà là sự không vướng bận vào vật chất và danh lợi.
Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thường bàn về sự dại - khôn, một vấn đề đã tồn tại từ lâu trong triết lí của người Á Đông, theo tinh thần nhân quả của Phật giáo:
'Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.'
Cặp câu này sử dụng phép đối ngẫu để thể hiện sự đối lập giữa quan điểm sống của mình và của người khác. Nơi vắng vẻ là nơi bình yên, là nơi thân thiện với thiên nhiên. Chốn lao xao là nơi xô bồ, náo nhiệt, là nơi tranh đấu với nhau. Nguyễn Bỉnh Khiêm chấp nhận cuộc sống giản dị của một nông dân, trong khi những người khác đua đòi quyền lực và tiền bạc, ông vẫn giữ tâm trạng thư thái. Cặp câu thơ này châm biếm việc những người cho rằng họ khôn mà thực ra lại dại, và ngược lại. Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có hai câu thơ khác cũng thể hiện điều này:
'Khôn mà ác hiểm là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.'
Sống trong một thời đại rối loạn, khi vua không tài trí, không bề tôi hiền, liệu một người trí thức có thể thực hiện được tư tưởng nhân văn, công bằng, hoà bình? Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống trong thời đại như vậy, có thể chỉ có hai lựa chọn: im lặng và chấp nhận hoặc hy sinh phẩm chất để theo đuổi quyền lực. Chốn quyền quý, chốn thành thị đều là nơi mâu thuẫn, cạnh tranh, và sự tham lam, mưu mô để leo lên vị trí quyền lực là cách sống chung của mọi người. Những người sống trong thế giới này sẽ nhận ra sự thâm ác của khôn nhanh chóng, và cuối cùng họ sẽ chịu trả giá cho điều đó. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cách sống giản dị, từ chối vật chất và danh vọng.
Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể coi là một cách phản kháng trước thời đại, một cách để bảo vệ phẩm chất của bản thân, nhưng không phải là một lý tưởng sống. Ông là một người tri thức có kiến thức sâu rộng, nhưng trước thời đại phản điên, ông nhận ra sự vô dụng của mình và quyết định rời bỏ chức quan, giữ vững phẩm chất.
Trong văn hóa Trung Hoa và Việt Nam cổ, tư tưởng Nho giáo và tư tưởng Lão - Trang tồn tại song song. Trí thức Nho học Việt Nam không chỉ quan tâm đến sứ mệnh cứu nước mà còn mong muốn sống tự do gần gũi với thiên nhiên. Họ không nhập thế với mục đích vinh quang cá nhân mà vì lòng yêu nước và bản tính con người.
'Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.'
Hai câu thơ tạo nên bức tranh tứ bình bốn mùa đẹp đẽ về cuộc sống thanh cao của một con người trở về với tự nhiên. Ở hai câu thực, phép đối tương phản tạo ra sự đối lập gay gắt thì ở hai câu này, phép đối tương hổ tạo ra một kết cấu cân xứng hoàn hảo. Ta chú ý đến hai động từ chính trong 2 câu thơ: ăn/tắm. Đó là 2 nhu cầu tối thiểu nhất của con người. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đơn giản, chỉ cần ăn đủ để sống và tắm để sạch.
Cuộc sống giản dị được thiên nhiên che chở, đất trời là tặng phẩm là nguồn sống có sẵn không cần phải đua đòi hay tranh giành mới có được. Hay nói đúng ông sống thuận lẽ tự nhiên, mùa nào thức ấy, có chi dùng nấy, rất thong dong, trong lành. Nguyễn Bỉnh Khiêm tả về cuộc sống bình dị của mình tuy nghèo mà không hèn, giọng điệu lại rất lạc quan, sắc thái vô cùng tươi sáng. Điều đó đủ thấy cuộc sống của ông là một chân trời tự do trong lành, ông thực hành đúng cái đạo của hiền nhân: “tri túc”. Cuộc sống này vốn không xa lạ với tâm thức của người xưa:
“Xuân du phương thảo địa,
Hạ thưởng lục hà trì ;
Thu ẩm hoàng hoa tửu,
Đông ngâm bạch tuyết thi.”
(Cổ thi – Trung Quốc)
Nguyễn Bỉnh Khiêm không cần ăn ngon, chẳng màng ăn no, không cần mặc ấm, bởi người trí thức Nho học luôn thấm nhuần đạo lí: quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cuộc sống lao động vất vả nhưng lạc quan, ông nhìn cuộc sống ấy rất thi vị. Khi đối sánh với vẻ đẹp sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm ta lại thấy, 4 câu thơ trên gợi tả sự hưởng thụ có phần sang trọng (dĩ nhiên là sự hưởng thụ chính đáng, giản đơn) còn Nguyễn Bỉnh Khiêm lại gợi tả cuộc sống nhàn mộc mạc hơn, ông chỉ hướng đến những nhu cầu tối thiểu để sống chứ không dệt nên kiểu sống thoát li vương giả (ngao du, uống rượu, làm thơ). Bốn câu thơ trên chủ về gợi tả nếp sống phong lưu, tiêu dao tự tại ; tứ thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thiên về vẻ đẹp đơn giản, trong lành, thuần lẽ tự nhiên. Trong sự cộng hưởng với tâm thức người xưa, cái nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn có sắc thái khác lạ của riêng nó.
Phần hai câu kết được viết theo lối dùng điển quen thuộc xưa nay. Ta liên tưởng đến câu chuyện Thuần Vu Phần uống rượu nằm ngủ dưới gốc cây hòe để thấy được thông điệp của tác giả: công danh chỉ là giấc mộng phù phiếm, tỉnh giấc mọi thứ sẽ tan biến thành hư ảo. Có lẽ điểm nổi bật nhất của hai câu kết là hiện tượng đảo cú pháp ở câu 7: “Rượu đến cội cây ta sẽ uống”. Từ rượu được đưa ra đầu câu, khi đọc phải nhấn mạnh, ngắt thành một nhịp thật sảng khoái để thấy được tư thế tiên phong đạo cốt của tác giả đứng ngoài vòng thế sự.
Nhàn không phải là một lí tưởng nó là một trạng thái sống. Nhàn ở đây là sự thanh thản của tâm hồn không bận tâm bởi danh lợi chứ không phải là cái nhàn hưởng thụ của kẻ lười nhát. Nhàn là không để lòng vấy bẩn bởi sự tranh đoạt quyền lợi, hơn thua với người đời chứ không phải là quên đời, sống ít kỉ, vô trách nhiệm. Bằng chứng là khi từ quan Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn tham vấn chính sự cho nhà Mạc. Nhàn vừa là một khát vọng sống tiềm ẩn trong tâm thức của những nhà Nho có nhân cách vừa là một kiểu phản ứng của người trí thức với thời cuộc đảo điên. Bởi vì nhận ra mình không thể thực hiện được lí tưởng của thánh hiền dạy nên đánh thức thời lùi một bước. Phải hiểu như thế mới thấy rằng tư tưởng Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề tiêu cực hay ít kỉ như những kẻ có suy nghĩ máy móc, học thuộc lòng tư tưởng Mác–Lênin mà hiểu không tới nơi dám lên tiếng chê bai Nguyễn Bỉnh Khiêm và tinh thần Lão Trang.
Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề đi ngược lại đạo đức Nho học, rất hài hòa với tinh thần Lão Trang và cả Phật giáo. Nó là một đóa hoa thơm ngát được kết tinh từ vẻ đẹp bảng lảng của 3 tôn giáo tuyệt đẹp và vẫn còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay. Kẻ thức thời, thông lào đạo Trung Dung sẽ không vội phê phán Nguyễn Bỉnh Khiêm tiêu cực, ít kỉ bởi Khổng Tử từng nói: trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn. Trong tiếng Hán, chữ tiên (thần tiên) được tạo nên từ chữ nhẫn và chữ sơn. Trở về với thiên nhiên là tinh thần đẹp ăn sâu trong tâm thức của người Á Đông xưa nay. Kẻ sĩ muốn đạt được chữ nhân (lòng thương người) và đạt được chính tâm thì nên tìm về thiên nhiên mà di dưỡng, thiên nhiên là bản thể, là bản lai diện mục của con người.
Cảm nhận bài Nhàn học sinh giỏi
Cái tên của bài thơ thật độc đáo và đặc biệt. Nhan đề ấy chỉ có một câu nhưng đã nói lên tất cả những gì mà nhà thơ muốn gửi gắm. Một tiếng nhàn thể hiện sự nhàn dỗi của con người trong cuộc sống thực tại. Theo thông thường thì nhàn thì sẽ chỉ có ngồi mát ăn bát vàng thôi vậy thì nhàn mà Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn nói đến là gì?. Nhan đề độc đáo như có tác dụng hấp dẫn người đọc hơn khi vào những tâm tư chia sẻ của nhà thơ ấy.
Trước hết là hai câu thơ đầu với những hình ảnh quen thuộc của làng quê đồng ruộng Nguyễn Bỉnh Khiêm giới thiệu cuộc sống mà ông coi là nhàn hạ cho mọi người biết:
'Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào'
Hình ảnh những vật dụng quen thuộc của công việc làm đồng cho thấy được những không gian êm ả yên tĩnh của làng quê. Có thể mỗi nhà nho nghỉ quan về ở ẩn đều tìm đến chốn làng quê để cho tâm hồn mình thanh tịnh chứ không ở trên kinh thành. Làng quê ấy không chỉ có những cảnh vật quen thuộc như cây đa bến nước mái đình mà ở đây làng quê hiện lên trên những vật dụng công cụ của đồng áng. Nào mai, nào cuốc những thứ ấy đều là công việc mệt nhọc của nhà nông. Cái công việc mà làm quần quật cả ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời, một nắng hai sương. Ấy thế mà ở đây tác giả lại noi đây là việc nhàn tại sao vậy. có thể nói so với Nguyễn Bỉnh khiêm thì đó là một công việc tuy mệt mỏi chân tay nhưng lại không mệt trí óc hay tâm hồn. Chí ít ra thì ở đây ông có thể 'thẩn thơ' với thú vui câu ca cảnh vật làng quê, tận hưởng sự bình yên không khí nơi đây.
Tiếp đến hai câu thơ sau thì chúng ta thấy được những quan niệm của nhà thơ về sự 'khôn' 'dại' trong việc làm quan hay nghỉ hưu về quê làm một anh nông dân quèn để giữ cho mình một khí tiết trong sạch:
'Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chỗ lao xao'
Chắc hẳn trước sự lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm thì nhiều người có thể nói ông là dại chính vì thế mà ông đã nói lên chính những tâm sự của mình để bày tỏ quan điểm sống. Tác giả nói ta dại cho nên ta về nơi thôn quê vắng vẻ hẻo lánh để ở còn người khôn người đến những chốn lao xao như quan trường. có thể thấy rằng ở đây tác giả đã thể hiện cách nói đối lập để làm rõ quan điểm của mình. Đồng thời cũng qua đó ta thấy được lẽ sống của những bậc nho gia thời xưa. Người nhà nho không gì quý hơn là thanh danh và sự trong sạch của mình chính vì thế mà ai cũng hết sức lắng đục tìm trong để bảo vệ cho khí tiết của mình. Nơi vẳng vẻ ở đây chính là chốn làng quê, chốn lao xao chính là nơi quan trường nhiều hiểm độc.
Tưởng chừng những nơi vắng vẻ kia nguy hiểm nhưng chính chôn lao xao kia mới là đáng sợ. bởi vì sao?, vì trong cái chốn thâm cung nhiều người âm mưu nghiệp lớn hãm hại lẫn nhau, đấu đá dành phần hơn và có thể bất chấp mọi thủ đoạn để tiến lên. Chính vì thế mà nhà thơ chán ghét và đặc biệt nói cách ở trên thì nhà thơ như muôn người đọc tự hiểu được như thế nào mới là dại mới là khôn thật sự.
Cảnh sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể hiện rất rõ trong hai câu thơ tiếp theo. Đó bức tranh của xuân hạ thu đông, bốn mùa của đất trời và khi ấy con người nhàn hạ kia đã có những thực phẩm thể hiện sự nhàn của mình:
'Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao'
Mùa thu tác giả ăn măng trúc trong rừng, mùa đông thì ăn giá đỗ, mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao. Cảnh sinh hoạt của nhà thơ nơi thôn dã thật sự rất bình thường thế nhưng qua đó ta thấy được một tâm hồn đồng điệu với thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, ăn, uống, tăm những gì của thiên nhiên. Có thể nói nhà thơ như đang hòa mình vào đất trời. Mùa đông ăn giá là giá đỗ hay cũng chính là cái giá lạnh của gió mùa đông bắc. thế nhưng cuộc sống như thế nhà thơ không cần phải lo nghĩ gì và theo quan điểm của nhà thơ thì đó chính là 'nhàn'.
Cuộc sống nhàn ấy với một nhà nho không chỉ hòa hợp với thiên nhiên mà còn phải có cả rượu:
'Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quí, tựa chiêm bao'
Đến rượu cũng thật sự là thiên nhiên qua hình ảnh rượu đến gốc cây. Cái 'nhắp' kia như vẽ lên một hình ảnh nhà nho già tây cầm ly rượu mà đưa lên môi nhắp lấy một cái ngâm trong miệng cái nồng nàn hơi men của rượu. Thế rồi mắt đưa ra khung cảnh bầu trời mà mơ màng ngắm vịnh. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đó chính là cuộc sống thanh đạm của nhà thơ song đối với ông thì đó chính là phú quý như một giấc chiêm bao vậy.
Bài thơ đã vẽ lên một nhà nho về quê ở ẩn với những thú vui lao động như bao nhiêu người nông dân khác. nếu như những người nông dân coi việc đó là chán ngắt thì với Nguyễn Bỉnh Khiêm đó lại chính là thú vui. Cuộc sống đạm bạc giản dị mà thanh cao cùng với quan điểm 'khôn- dại' ta thấy hiện lên một nhà nho đạm bạc và một tâm hồn cao đẹp yêu thiên nhiên biết bao nhiêu.
Cảm nhận bài thơ Nhàn
Cảm nhận Nhàn - Mẫu 1
Trong văn học trung đại, có nhiều bài thơ hay và ý nghĩa của các thi sĩ đương thời. Trong đó bài Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong những bài thơ tiêu biểu, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn nhân cách của tác giả, tôn cao triết lí sống.
Bài thơ Nhàn được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả về quê ở ẩn. Chữ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề tầm thường như trong câu “nhàn cư vi bất thiện” mà là thái động sống, một triết lí sống của tác giả được bộc lộ rõ ràng. Bài thơ mang bốn triết lí sâu sắc gói gọn trong chữ “nhàn” được phân chia bố cục chặt chẽ. Mở đầu bài thơ tác giả viết:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Hai câu mở tạo ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” được lặp lại ba lần trong một dòng thơ mang tính chất liệt kê các sự vật quen thuộc: “mai”, “cuốc”, “cần câu” những vật dụng rất đỗi quen thuộc mang bóng dáng nhà nông chân chất vừa mang bóng dáng của một tao nhân mặc khách. Chỉ cần vậy thôi, ta đã cảm nhận được đây là một cuộc sống thư thái an nhàn của nhân vật trữ tình. Kết hợp với điệp ngữ “một” là từ láy “thơ thẩn” miêu tả được trạng thái của tác giả. Với dáng người ung dung, thoải mái, trạng thái tâm hồn thanh nhàn an nhiên không vướng bận chút bụi trần. Câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời, mặc dù ai vui thú nào, ta đây vẫn vui thú an nhàn, vui cuộc sống thôn quê. Từ lời thách thức ấy toát lên sự ung dung trong phong thái, thanh thản trong tâm hồn, vui thu điền viên.
Đến với hai câu thực tiếp theo đã khái quát chân dung nhân vật trữ tình và triết lí “nhàn” của thi nhân:
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Ở đây ta thấy rõ được sự đối lập giữa các sự vật trong hai câu thơ “nơi vắng vẻ” là chốn thôn quê thanh bình, an nhàn vô âu vô lo, ở đó tâm hồn con người hòa nhập với thiên nhiên, còn “chốn lao xao” là nơi quan trường với những đua tranh ghen ghét của danh lợi, ồn ào phiền não. Phải chăng tác giả “dại” nên tìm nơi thôn quê, còn người đời “khôn” tìm đến chốn quan trường, nhưng thật chất ngược lại, xét trong câu thơ, “dại” có nghĩa là khôn, “khôn” có nghĩa là dại. Lối nói ngược mang ý nghĩa mỉa mai: người khôn mà chọn chốn lao xao đầy rẫy những tham lam, dục vọng, luôn phải suy nghĩ đắn đo, và như thế liệu có sung sướng? Phép đối hai câu thơ thực mang nghĩa mỉa mai chế giễu lũ người kia chỉ biết lao đầu vào tham vọng, vào vòng danh lợi. còn tác giả, ông phủ nhận vòng danh lợi ấy bằng cách thể hiện quan điểm, khí chất thanh cao trong sạch. “Nhàn” ở đây chính là cuộc sống thanh cao, tránh xa vòng danh lợi.
Không những tác giả chọn cuộc sống thanh cao, tránh xa tham vọng, tác giả còn hết mình hòa nhập với thiên nhiên, Đến với hai câu luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn của nhân vật trữ tình:
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Ai biết măng, tre, trúc, giá là đồ ăn dân dã từ thiên nhiên, gắn với cuộc sống nghèo ở thôn dã. Những thức ăn ấy quen thuộc hàng ngày, thu ăn măng trúc trên rừng, mùa đông ăn giá. Câu thơ 'xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao' vẽ lên hình ảnh quen thuộc ở làng quê, lối sống dân dã. Nguyễn Bỉnh Khiêm hòa mình với thôn quê, sống thanh đạm, thú vui an nhàn, thảnh thơi mùa nào thức nấy, sự đồng điệu của thiên nhiên và con người.
Từ sinh hoạt hàng ngày ở câu thơ trên, hai câu kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp:
Rượu đến cội cây ta uống
Nhìn phú quý tựa chiêm bao
Tác giả dùng “cội cây” để nói về phú quý công danh như một giấc mơ, coi thường vinh hoa. 'Nhàn' ở đây là tìm sự thanh thản trong tâm hồn, không phải là lười biếng, là giữ gìn danh tiếng, giữ trọn thanh giá trong thời loạn.
Bài thơ kết hợp hài hòa giữa triết lí và trữ tình, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm, tình yêu thiên nhiên, phủ nhận danh lợi. Một triết lí sống đẹp đẽ, làm gương cho thế hệ mai sau.
Cảm nhận Nhàn - Mẫu 2
Trong văn học trung đại, đã có nhiều bài thơ hay, mang giá trị lớn. Trong số đó, bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm nổi bật với triết lí sống thanh cao của các nhà nho đương thời:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý, tựa chiêm bao”
Câu đầu mở ra hình ảnh quen thuộc: “mai, cuốc, cần câu” gắn với thôn dã, làm hiện lên nhân vật trữ tình của lão nông, không phải của nhà nho. Sử dụng lặp lại từ “một” tạo nên sự thoải mái, vui sướng. “Thơ thẩn” là trạng thái ung dung, thoải mái, tác giả tự tin với lựa chọn của mình. Hai câu đầu khẳng định nhàn là sự lựa chọn tự tại, không lánh đời.
Hai câu sau giải thích sâu sắc về sự lựa chọn ấy:
Ta ngốc, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
“Ta” là nhà thơ, “người” không phải là thiên hạ mà là những kẻ ham công danh lợi lộc. Hai câu thơ diễn tả sự khác biệt giữa việc sống thoải mái ở nơi tự nhiên và cuộc sống ồn ào ở chốn quan trường. Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn cuộc sống gần gũi với thiên nhiên để giữ tâm hồn trong sáng, thoải mái, tránh xa thói ô tập của xã hội. Sử dụng từ ngược như “dại” và “khôn” làm nổi bật sự lựa chọn thông minh của nhà thơ, tránh xa cuộc sống ganh đua vật chất, tìm lại sự thanh bình và tự do.
Nhàn là sống tự nhiên, không vướng bận vào cuộc đua lợi lộc, giữ cho tâm hồn luôn trong sạch và khoáng đạt bởi:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Mùa nào cũng có thực phẩm sẵn có trong tự nhiên, đem lại cuộc sống tự cung tự cấp, đủ đầy và vui vẻ. Câu thơ truyền đạt triết lí vô vi của đạo giáo, khuyến khích sống theo tự nhiên. Thức ăn từ thiên nhiên không chỉ giàu dinh dưỡng mà còn mang lại niềm vui và sự thanh thản, tránh xa cái nhàn tục và phù phiếm. Cuộc sống trở nên nhẹ nhàng, hạnh phúc khi không cần phải cố gắng vất vả.
Tuy nhiên, cuộc sống nhàn cũng bị ảnh hưởng bởi áp lực cuộc sống hiện thực. Dường như nhà thơ vẫn không thể hoàn toàn từ bỏ suy nghĩ về danh vọng:
“Rượu đến gốc cây ta vẫn uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Hai dòng thơ ám chỉ quan điểm bi quan về danh vọng, xem nó như một giấc mơ hão huyền, không có ý nghĩa thực sự. Tác giả muốn khuyến khích con người coi trọng phẩm giá của chính mình hơn là danh vọng, không để bị áp đặt bởi nó. Bằng cách này, ông rũ bỏ hoàn toàn công danh, theo đuổi cuộc sống nhàn nhã.
Bài thơ “Nhàn” ca ngợi một lối sống cao quý, tránh xa sự vật chất và hướng đến cái thiện. Nhưng trong bối cảnh xã hội hiện tại, điều này có vẻ không phải là lựa chọn tốt để thay đổi xã hội.
Cảm nhận Nhàn - Mẫu 3
Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ là một quan trí thức đạo đức cao và sâu sắc, mà còn vì sống trong một xã hội bất công nên ông đã lựa chọn sống ẩn dật. Ông chọn một cuộc sống bình yên, thư thả ở nông thôn và bài thơ “Nhàn” là biểu hiện của thời gian ông ở ẩn. Bài thơ thể hiện sự cảm kích của Nguyễn Bỉnh Khiêm về một cuộc sống đầy niềm vui, sự bình yên và thanh thản ở quê hương.
Bài thơ Nhàn thể hiện một tâm hồn đầy niềm vui và thanh tịnh của tác giả, với những cảm xúc bình yên là chủ đề chính của bài thơ.
Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Nguyễn Bỉnh Khiêm tinh tế khi sử dụng từ “một” để tạo ra một hình ảnh giản dị, bình dị của vùng quê nghèo. Tác giả cho thấy rằng mặc dù sống một mình nhưng không hề cô đơn. Ông sử dụng hai câu thơ để thể hiện sự thanh tịnh trong tâm hồn và sự hòa mình của thiên nhiên ở miền Bắc đẹp đẽ. Hình ảnh của câu câu và cần câu đem lại sự chất phác, bình dị của cuộc sống nông thôn. Điều này cũng là ước mơ của nhiều người vào thời phong kiến, nhưng không phải ai cũng có thể bỏ lại được cuộc sống ồn ào của thành thị. Từ “thơ thẩn” đã gợi lên một cuộc sống yên bình, thư thả. Ông đã rời bỏ cuộc sống ồn ào của thành thị để trở về với quê hương.
Đọc hai câu thơ tiếp theo trong bài Nhàn, ta càng thấy rõ hơn vẻ đẹp của một người nông dân Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Như lũ điên tìm khu vực yên bình
Người thông thái tìm đến những nơi náo nhiệt
Với dòng thơ này, chúng ta có thể coi là bài tuyên bố sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi rời bỏ cuộc sống địa vị. Ở đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm tự mình xác định mình là 'điên' khi tìm kiếm những nơi yên tĩnh để sống. Mặc dù nhận biết điều này, lại có rất nhiều người ganh tỵ và kính phục. Tác giả đã khéo léo sử dụng từ ngữ độc đáo, đồng thời đã mô tả đầy đủ phong cách của ông. Nguyễn Bỉnh Khiêm coi những người lựa chọn con đường chính trị là những người 'thông thái'. Điều này là một cách khen ngợi tinh tế, khen người mà đồng thời cũng có thể là khen bản thân mình và chê bỏ người khác. Ngoài ra, người đọc cũng nhận ra rằng hai dòng thơ trong hai câu này dường như hoàn toàn trái ngược nhau về ngôn từ và ý nghĩa về 'điên' - 'thông thái', 'yên bình' - 'náo nhiệt'. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm kiếm những nơi yên bình để sống, liệu điều này có phải là trốn tránh trách nhiệm với đất nước hay không? Trong thời đại như vậy, việc ông tìm đến những nơi yên bình, tránh xa cuộc sống quan trọng chính trị, khi ấy con người mới thực sự sống là chính họ. Điều này thật sự có thể thấy là một cách sống cao quý, một tinh thần đáng kính.
Hai dòng thơ cũng đã khiến cho người đọc nghĩ đến cuộc sống giản dị, bình thường và cao quý của Nguyễn Bỉnh Khiêm:
Mùa thu ăn măng, mùa đông ăn giá
Mùa xuân tắm trong hồ sen, mùa hạ tắm trong ao
Chỉ cần sử dụng một cặp dòng thơ, đã phản ánh được toàn bộ cuộc sống hàng ngày và thức ăn của người nông dân nghèo. Mỗi mùa đều đi kèm với một loại thức ăn, mặc dù các món ăn của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là đặc sản, nhưng chúng lại mang hương vị mạnh mẽ của quê hương. Tất cả đã khiến tác giả hài lòng và thoải mái.
Uống rượu tận gốc cây
Nhìn phú quý như giấc mơ
Bài thơ kết thúc bằng hai câu triết lý này cũng đã tổng kết quan điểm, quan điểm của Nguyễn Bỉnh Khiêm về cuộc sống và vinh hoa. Đối với ông, vinh hoa, phú quý giống như một giấc mơ đến và đi.
Chỉ với 8 câu thơ, bài thơ 'Nhàn' của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã khiến người đọc ngưỡng mộ và kính phục tinh thần, tinh thần và phong cách của một quan chức không quan tâm đến danh lợi, chỉ muốn yên ổn khi già.
Cảm nhận về 'Nhàn' - Phần 4
Có thể nói rằng với bài thơ 'Nhàn' này được viết trong thời gian Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về quê sống ẩn dật. Chữ 'nhàn' của ông đã thể hiện được tinh thần sống, một triết lý sống rất rõ ràng. Và triết lý ấy được tổng hợp chỉ trong một từ 'nhàn'.
Bắt đầu bài thơ, tác giả viết một câu như sau:
Một buổi sáng, một con đường, một lối đi
Dù ai vui vẻ thú vị đi nữa
Chúng ta có thể thấy ngay từ hai câu thơ đầu tiên tạo ra một ấn tượng ban đầu với thông điệp 'một' được lặp lại ba lần trong một câu. Điều này không chỉ liệt kê các đối tượng quen thuộc như 'buổi sáng', 'con đường', 'lối đi', mà còn là những đồ vật quen thuộc của người nông dân mộc mạc và là biểu tượng của sự thong thả và thoải mái, cũng như tâm hồn thanh thản không bị bó buộc bởi cuộc sống bon chen.
Có thể nhận thấy câu thơ như một lời thách thức của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với thế gian, rằng dù ai có vui thú như thế nào đi nữa, chúng ta vẫn vui thú bình dị, hạnh phúc trong cuộc sống ở làng quê. Từ những lời thách thức đó, ta cũng thấy rõ phong thái bình an trong tâm hồn và niềm vui thú trong cuộc sống của một ông già làng quê.
Khi đọc đến hai câu tiếp theo, chúng ta thấy được sự tường tận trong việc mô tả nhân vật trữ tình và triết lí 'nhàn' của thi sĩ thông qua câu:
Ta điên ta tìm chốn yên bình
Người thông minh người đến nơi ồn ào
Không khó để nhận thấy sự đối lập giữa hai nhân vật trong hai câu thơ, 'nơi yên bình' và 'chốn quê thật thanh bình, an lành.' Điều này thể hiện tâm hồn con người luôn hòa mình vào thiên nhiên. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, 'chốn ồn ào' có thể ám chỉ đến chốn quan trường với những vòng lẩn quẩn của danh vọng, ghen ghét và đố kỵ. Có lẽ tác giả 'điên' khi tìm kiếm sự thanh bình ở quê hương, trong khi mọi người 'thông minh' lại tìm kiếm quan trọng chính trị.
Tuy nhiên, từng dòng thơ lại đảo ngược hoàn toàn, 'điên' mang ý nghĩa là 'thông minh', và từ 'thông minh' mang ý nghĩa của 'điên'. Điều này mỉa mai ngụ ý rằng người thông minh chọn chốn ồn ào, nơi tràn ngập tham vọng và dục vọng, đem lại cuộc sống hối hả. Hai câu thơ này như đang châm chọc những người chỉ biết chạy theo tham vọng, rơi vào vòng xoáy của danh vọng. Trong khi đó, tác giả đã chọn cuộc sống thanh cao, hòa mình vào thiên nhiên và tránh xa tham vọng, thể hiện quan điểm và phẩm chất cao quý trong sạch.
Qua bốn dòng thơ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cuộc sống thanh cao, hòa mình vào thiên nhiên và tránh xa tham vọng. Hai dòng thơ cuối cùng đã mở ra cho người đọc cái nhìn về một cuộc sống giản dị của nhân vật trữ tình.
Mùa thu ăn măng, mùa đông ăn giò
Mùa xuân tắm trong hồ sen, mùa hạ tắm trong ao
Măng, tre, trúc, giá luôn là những món ăn dân dã từ xa xưa mà con người vẫn thường thưởng thức. Chúng gắn liền với cuộc sống đơn giản và thân thuộc của thôn quê. Và với câu thơ:
Mùa xuân, tắm trong hồ sen; mùa hạ, tắm trong ao
Câu thơ gợi nhớ những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống làng quê, những sinh hoạt bình dị của dân làng. Khi trở về với thiên nhiên, trở về với cộng đồng làng xóm. Tác giả thực sự hoà mình với cuộc sống thôn dã, và người đọc có thể cảm nhận được sự bình yên, thanh thản trong cuộc sống, một cuộc sống mang lại niềm vui và sự thoải mái vào mỗi mùa. Thật sự, đó là một cuộc sống mà nhiều người ngưỡng mộ, nhưng không phải ai cũng may mắn có được. Chỉ là hình ảnh của cuộc sống đơn giản hàng ngày, nhưng lại thể hiện sự hòa hợp tự nhiên giữa con người và thiên nhiên.
Từ những hoạt động hàng ngày đó, tác giả rút ra hai câu kết, đúc kết tinh thần, triết lí sống cao đẹp nhất:
Rượu đến gốc cây, ta sẽ uống; nhìn xem phú quý tựa giấc mơ
Điển tích về 'gốc cây' hiện ra như một cách để nói rằng phú quý và danh vọng chỉ là những thứ tạm thời và tồn tại như một giấc mơ. Điều này thể hiện sự quan trọng của tác giả trong một thời kỳ mà xã hội đang trải qua những biến động mạnh mẽ, khi đạo đức truyền thống đang tan rã và tiền bạc trở thành tiêu chuẩn đánh giá mọi thứ.
Nhàn thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa triết lí và tình cảm, phản ánh tâm hồn tinh khiết của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm cũng thể hiện lòng yêu thiên nhiên, sự hòa mình với tự nhiên, và sự phủ nhận của danh vọng, là một gương mẫu cho thế hệ sau này.
Cảm nhận về tác phẩm 'Nhàn'
Văn học trung đại Việt Nam có nhiều tác phẩm xuất sắc, và không thể không nhắc đến Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ 'Nhàn'. Ông viết bài thơ này sau khi rút về ở quê ẩn dật. Mặc dù tên gọi là 'Nhàn', nhưng đó không phải là sự không làm gì mà là triết lí sống của tác giả.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh đời thường:
Một buổi sáng, một cái cuốc, một cây cần câu
Thưởng thức thiên nhiên, ai có niềm vui nào
Trước mắt đọc giả, hình ảnh một người nông dân cày cấy, chăm sóc ruộng vườn hiện lên. Ngoài việc làm nông, thú vui của họ là câu cá. Đó là cuộc sống thư thái, không lo lắng. Họ sống thanh bình với niềm vui riêng, không quan tâm đến người khác.
Tiếp theo là hai câu thơ tôn vinh cuộc sống đơn giản:
Ta ngu ngốc, ta tìm nơi yên bình
Người khôn ngoan tìm đến chốn ồn ào
Hai câu thơ so sánh sự đơn giản và sự phức tạp, khôn ngoan và ngu ngốc. Ban đầu, ta có thể nghĩ tác giả đi ngược lại với xã hội, nhưng thực tế không phải vậy. Tác giả chọn cuộc sống bình yên, tránh xa sự ồn ào để giữ vững phẩm chất cao quý. Đó là cuộc sống hòa mình vào thiên nhiên, sống giản dị, trân trọng cuộc sống hàng ngày.
Mùa thu ăn măng trúc, mùa đông ăn giá
Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao
Cuộc sống ở làng quê đầy đủ mọi thứ. Mùa nào cũng có mùa. Mùa thu có măng trúc, mùa đông có giá. Cuộc sống liên quan đến hồ sen, ao. Khi con người không phải lo lắng về danh vọng, vị trí xã hội, không phải lo lắng về việc kiếm sống, lúc đó cuộc sống mới thực sự là cuộc sống đáng mơ ước. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm là đáng khâm phục.
Từ cuộc sống thanh thản của mình, tác giả đã rút ra một triết lí sống:
Nếu rượu đến cùng với gốc cây, ta sẽ uống
Hãy nhìn thấy phú quý như một giấc mơ
Danh vọng, phú quý chỉ là những điều tạm thời. Dễ có nhưng cũng dễ mất. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, phú quý chỉ như một giấc mơ thoáng qua. Khi tác giả viết bài này, chế độ phong kiến đang rơi vào khủng hoảng. Tác giả chọn cuộc sống thanh thản, không màng đến vinh hoa phú quý. Ông đang tìm kiếm sự bình yên trong tâm hồn mình, không để dục vọng làm xáo trộn tâm trí.
Bài thơ này khiến người đọc hiểu được tinh thần tốt đẹp của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Triết lý sống của ông cũng là triết lý mà thế hệ sau nên theo đuổi.
Cảm nhận về bài thơ Nhàn
Cảm nhận về Nhàn - Mẫu 1
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhà nho sâu sắc nổi tiếng trong thời kỳ phân tranh Trịnh – Nguyễn. Sống trong thời kỳ rối ren, ông không ủng hộ bất kỳ thế lực phong kiến nào mà chọn quay về nơi quê nhà, tuân theo lối sống của đạo Nho. Bài thơ Nhàn là một trong những tác phẩm viết bằng chữ Nôm, rút từ tập thơ Bạch Vân của ông. Bài thơ cho thấy một phần cuộc sống và quan niệm sống của tác giả trong một xã hội hỗn loạn như thế. Cuộc sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện ra trong bài thơ như một cuộc sống giản dị, đơn thuần nhưng cao quý, trong trẻo. Bài thơ mở đầu với hai câu thơ:
“Một ngày một cái, một cần câu
Mà lòng ai thấy vui thú đâu”
Với cách sử dụng số từ “một” rất linh hoạt, nhịp thơ 2/2/3 kết hợp với hình ảnh dụng cụ lao động làng quê như mai, cuộc, cần câu, ta thấy được những công cụ cần thiết của cuộc sống thôn quê. Những vật liệu lao động mộc mạc cho ta thấy một cuộc sống giản dị không lo toan của một người thượng lưu ẩn cư nơi ruộng vườn, hưởng thú với cảnh nông thôn. Câu thơ tiếp theo tiếp tục vẽ ra cảnh sinh hoạt bốn mùa của tác giả qua bữa ăn thường ngày:
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Bữa ăn của ông là những thức ăn có sẵn từ ruộng vườn, mùa nào thức ấy: măng, trúc, giá,... những món ăn giản dị đời thường. Cuộc sống sinh hoạt của ông giống như một người nông dân thực thụ, cũng tắm hồ, tắm ao. Hai câu thơ này vẽ nên cảnh sinh hoạt bốn mùa của tác giả, mỗi mùa đều thong dong, thảnh thơi. Qua đó ta thấy một cách sống thanh cao, nhẹ nhàng, tránh xa những lo toan của đời thường. Ngoài việc thể hiện cuộc sống đời thường, tác giả cũng truyền đạt triết lý sống và nhân cách của mình qua:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao“
Tìm nơi “vắng vẻ” không phải là tránh xa cuộc sống mà là tìm nơi mình cảm thấy thoải mái, hoà nhập với thiên nhiên, xa lánh chốn vinh quang, lợi ích để tìm nơi bình yên. “Chốn lao xao” là chốn tầm phương, theo đuổi sự giàu sang, danh vọng, chạy theo lợi ích vật chất, ganh đua hại nhau. Rõ ràng Nguyễn Bỉnh Khiêm theo đuổi cách sống bình yên, không quan tâm tới danh vọng. Tác giả mượn lời của người thường để truyền đạt triết lý sống của mình, bất kể người ta có xem là khôn hay dại. Đây cũng là quan niệm của những người theo đạo Nho thời loạn, luôn tìm kiếm nơi yên bình để ẩn cư. Nghệ thuật đối lập: “ta” so với “người”, “dại” so với “khôn”, “nơi vắng vẻ” so với “chốn lao xao” làm nổi bật sự khác biệt giữa hai cách sống, khẳng định triết lý sống của tác giả. Hình ảnh thơ cuối cùng cũng lại khẳng định triết lí sống của ông:
Rượu đến gốc cây, ta sẽ uống
Nhìn thấy phú quý như giấc mơ
Trong hơi men ngào ngạt và sự yên bình của làng quê, nhà thơ nhận ra rằng phú quý thực sự chỉ là một giấc mơ. Nó sẽ tan biến nhanh chóng như mây khói.
Bài thơ thể hiện được quan điểm của nhà thơ về cuộc sống, đồng thời ta thấy được cuộc sống an nhàn của nhà thơ ở nơi thôn dã. Đó là một cuộc sống vô cùng giản dị và bình yên, đạm bạc nhưng lại vô cùng thanh cao. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện một tâm hồn và một nhân cách sống rất bình dị trong cuộc sống hàng ngày, và một phẩm cách cao đẹp.
Cảm nhận Nhàn - Mẫu 2
Trong rất nhiều đóng góp cho văn hóa dân tộc và sự nghiệp giáo dục, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm được nhiều nhà khoa học đánh giá cao. Mọi thành tựu trong lĩnh vực giáo dục ở thời kỳ Mạc không thể không kể đến công lao của ông. Ông được xem là một tượng đài văn học điển hình của Việt Nam. Trong số các tác phẩm nổi tiếng của ông, bài thơ “Nhàn” như một lời phê phán nhẹ nhàng, một lời oán trách trước cuộc sống đầy bon chen và ích kỷ. Đồng thời, nó cũng ca ngợi tinh thần lạc quan và phẩm cách cao của một người coi trọng đạo đức hơn danh vọng.
Tác phẩm được viết ra trong tình hình ông cảm thấy ghét bỏ sự huy hoàng của thế giới quan trường và quyết định trở về ẩn dật tại làng quê. Điều này cũng là hành động thường thấy của ông và các nhà nho cùng thời, phản ánh sự không hài lòng với hiện thực của thế giới quan trường, nơi tiền bạc thống trị, và thể hiện mong muốn sống trong sạch, gần gũi với thiên nhiên, cây cỏ. Nhà thơ viết bài thơ này để diễn đạt quan điểm về sự khôn dại trong cuộc sống.
Những câu thơ đầu tiên đem lại cho chúng ta những hình ảnh thú vị của cuộc sống ở nông thôn bình dị:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thả hồn với niềm vui nào
Nhịp thơ 2/2/3 thể hiện lối sống thanh nhàn. “Mai, cuốc” là những dụng cụ nông dân sử dụng để làm việc trên ruộng. Tác giả mô tả hàng loạt dụng cụ bình dị thông qua việc liệt kê, tái hiện hình ảnh của người nông dân thực thụ thích hòa mình với thiên nhiên, câu cá. Câu cá là một hoạt động thư giãn của những người ẩn cư ở quê. Dáng vẻ của thơ được phác họa trong câu thơ độc đáo, mang lại vẻ thanh bình của nhà thơ trong cuộc sống nhàn tản thực sự. Từ “một” cho thấy mọi thứ đã sẵn có và tác giả chọn lối sống hoàn toàn đối lập với những kẻ tham vọng, sống trong xô bồ của quan trường. “Thả hồn” ám chỉ việc thư giãn, không bị ràng buộc bởi cuộc sống xô bồ ở quan trường. “Niềm vui nào” chỉ đến người sống trong vẻ thanh bình và hài lòng với bản thân mình.
Câu thơ tiếp theo tác giả sử dụng cách nói ngược để bày tỏ quan điểm về sự khôn dại trong cuộc sống:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao sao”
Câu thơ thể hiện quan điểm về sự khôn dại trong cuộc sống. Nhà thơ sử dụng cách nói ngược để nói về sự khôn dại ở đời. Đằng sau câu thơ đó là ý nghĩa về cuộc sống thực tế. Tác giả sử dụng sự đối lập giữa “ta” và “người”, “vắng vẻ” và “lao sao” để thể hiện sự khác biệt giữa cuộc sống yên bình ở nông thôn và cuộc sống bon chen ồn ào ở thành phố. 'Dại' và 'khôn' cũng là cách ám chỉ những người sống vì danh lợi, bị tiền bạc mù mắt và mất đi nhân tính. 'Nơi vắng vẻ' là nơi yên bình, không ai quan tâm, không ai cần phải quan tâm, là nơi thư thả, hoà mình với thiên nhiên. Tác giả ẩn dụ về cuộc sống bình dị, không mưu lợi, hòa hợp với thiên nhiên. 'Chốn lao sao' là nơi ồn ào, nơi mọi người đua đòi danh lợi, sống trong sự cạnh tranh, đối lập hoàn toàn với cuộc sống yên bình ở nơi vắng vẻ. Việc chọn lựa trở về quê nhà là điều khôn ngoan, sống đúng với bản thân, yên bình mới mang lại hạnh phúc và sự thoải mái nhất.
Nhà thơ cảm nhận được vẻ đẹp của cuộc sống nhàn tản:
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
“Măng, giá” là những món ăn tự nhiên của nông thôn, sạch sẽ và quen thuộc với người dân. Mùa xuân tắm hồ sen, mùa hạ tắm ao. Cuộc sống được mô tả vô cùng giản dị và lạc quan. Việc liệt kê các mùa xuân, hạ, thu, đông thể hiện sự nhàn hạ và thoải mái của cuộc sống, không bận tâm đến những vấn đề vật chất, mà tâm hồn được lắng đọng trong sự thanh thản. Nhà thơ yêu thiên nhiên, ưa chuộng ăn uống đơn giản, lành mạnh, ăn gì mùa đó, không cầu kỳ và phức tạp.
“Rượu, đến gốc cây, ta sẽ uống
Nhìn thấy phú quý tựa giấc mơ.”
Tác giả lấy ví dụ về việc uống rượu say của Thuần Vu Phần, nằm ngủ dưới gốc cây và mơ thấy giàu sang, để ám chỉ rằng danh lợi phú quý chỉ là một giấc mơ, thể hiện ý thái độ coi thường danh vọng và tiền bạc. Việc say rượu để mơ thấy rõ sự bừng tỉnh trí tuệ, khẳng định lẽ sống đẹp của bản thân, coi thường danh lợi và trân trọng sự tồn tại vĩnh hằng của thiên nhiên và nhân cách sống. Câu thơ còn chứa đựng một chút hờn trách, bất lực trước sự hư danh của cuộc sống.
Tác phẩm đã thể hiện quan niệm sống của tác giả, rời xa phú quý để giữ cốt cách thanh cao, không màng đến danh lợi để sống hòa hợp với thiên nhiên, một cuộc sống không bon chen. Nghệ thuật sử dụng từ ngược, đối lập đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Bài thơ “Nhàn” đã thể hiện quan niệm sống của tác giả, với một vẻ đẹp cuộc sống giản dị nhưng thanh cao. Nét đẹp tâm hồn của con người được vinh danh.
Cảm nhận Nhàn - Mẫu 3
Có thể nói rằng bài thơ Nhàn được sáng tác trong hoàn cảnh tác giả trở về quê ở ẩn. Từ “nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện thái độ sống, triết lí sống của tác giả rất rõ ràng. Bài thơ gói gọn bốn triết lí sâu sắc trong từ “nhàn”, được phân chia bố cục chặt chẽ. Câu kể mở đầu như sau:
Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Đọc những dòng này, người đọc ngay lập tức nhận thấy sự ấn tượng đầu tiên với điệp ngữ “một” lặp lại ba lần trong một dòng thơ liệt kê các sự vật quen thuộc như “mai”, “cuốc”, “cần câu”, thể hiện hình ảnh của nhà nông chân chất, mặc khách. Chúng ta có thể dễ dàng cảm nhận được cuộc sống nhàn nhã của nhân vật trữ tình thông qua từ “một” kết hợp với từ “thơ thẩn”, miêu tả trạng thái của tác giả, sự ung dung và thanh thản trong tâm hồn.
Câu thơ như một lời thách thức của tác giả đối với người đời, dù ai vui thú nào đi nữa, ta vẫn vui thú an nhàn, sống vui vẻ ở quê nhà. Từ những lời thách thức này phát ra phong thái thanh thản trong tâm hồn, vui vẻ của một lão nông.
Hai câu tiếp theo tóm tắt chân dung nhân vật trữ tình và triết lí “nhàn” của thi nhân đã được thể hiện qua câu:
Ta ngẩn ngơ, tìm chốn êm đềm
Người nhanh nhẹn, về nơi ồn ào
Dễ dàng nhận thấy sự tương phản giữa 'chốn êm đềm' và 'nơi ồn ào', đó chính là sự khác biệt giữa cuộc sống nông thôn yên bình và cuộc sống thành thị sôi động. Điều này phản ánh tâm trạng và lựa chọn khác nhau của con người khi đối mặt với cuộc sống. Thực ra, trong câu thơ, 'người ngơ' có thể hiểu là người tự do, không bị gò ép bởi xã hội, còn 'người nhẹn' lại ám chỉ những người thích sự hối hả, sôi nổi của đô thị. Nhưng thực chất, từ 'ngơ' có thể hiểu là sự tự do, còn từ 'nhẹn' lại có thể đồng nghĩa với sự hạn chế. Điều này cho thấy sự phê phán, châm biếm đối với những người chỉ biết chạy theo thành tựu vật chất, bỏ qua giá trị tinh thần của cuộc sống. Đây là cách tác giả giải tỏa sự phẫn nộ trước hiện thực xã hội.
Không chỉ Nguyễn Bỉnh Khiêm, mà nhiều tác giả khác cũng thường lựa chọn cuộc sống bình dị, giản dị và gần gũi với thiên nhiên. Câu thơ đã mở ra cho chúng ta một góc nhìn mới về cuộc sống đơn giản, gần gũi với thiên nhiên của những nhân vật trữ tình.
Thu ăn trái măng, đông hái giá
Xuân đắm chìm trong hồ sen, hạ tắm dưới ao
Dường như ai cũng biết măng, tre, trúc và giá là những loại thực phẩm dân dã từ thiên nhiên, dễ dàng tìm thấy. Những loại thực phẩm này thường xuất hiện trong cuộc sống của người dân nghèo ở vùng quê. Chúng là những món ăn quen thuộc, gắn liền với sinh hoạt hàng ngày của họ.
Xuân thả mình trong hồ sen, hạ lang thang dưới ao
Như một bức tranh về cuộc sống ở làng quê, lối sống gần gũi với thiên nhiên. Tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm thực sự hòa mình vào cuộc sống của làng quê, nơi mà cuộc sống trôi qua thanh đạm, an nhàn. Điều này thể hiện sự đồng điệu giữa con người và thiên nhiên, khiến cuộc sống trở nên hài hòa và thú vị hơn.
Từ những hoạt động hàng ngày trong cuộc sống làng quê được tác giả mô tả, hai câu kết thể hiện tinh thần sống cao đẹp nhất:
Rượu đến gốc cây ta sẽ nâng ly
Nhìn xem phú quý tựa giấc mơ thoáng qua
Tác giả sử dụng hình ảnh của 'gốc cây' để ám chỉ rằng phú quý, vinh hoa chỉ là những điều tạm thời và phù phiếm, như giấc mơ vậy. Điều này phản ánh thái độ chân thành và sâu sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt trong bối cảnh xã hội đầy biến động và đạo đức bị mòn trong thời kỳ ông sống.
Bài thơ Nhàn là sự kết hợp tuyệt vời giữa triết lí và tình cảm trữ tình, thể hiện vẻ đẹp tinh thần của nhà thơ ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đồng thời, tác phẩm cũng là biểu hiện của tình yêu thiên nhiên sâu sắc, sự hòa mình với tự nhiên, và sự phủ nhận của tác giả đối với vật chất và danh lợi. Bài thơ Nhàn cũng chứa đựng một triết lí sống cao đẹp, là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ sau này.
Cảm nhận về bài thơ Nhàn
Bài mẫu số 1
Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm thường mang đậm tinh thần triết lí, ca ngợi lòng dũng cảm của nhà sư, sự thanh nhàn, đồng thời phê phán những vấn đề trong xã hội. Tập thơ của ông, từ Bạch Vân am thi tập viết bằng chữ Hán, Bạch Vân quốc ngữ thi viết bằng chữ Nôm, cho đến bài thơ 'Nhàn' trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, đều là minh chứng cho điều này.
Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cuộc sống thanh nhàn, thể hiện vẻ đẹp chân chính và giản dị của cuộc sống làng quê. Qua những dòng thơ này, ta cảm nhận được sự tự do và thanh thản của những người thơ mộng, đồng thời phê phán cuộc sống vật chất và đầy bon chen của xã hội hiện đại.
Hai câu đầu tiên của bài thơ đã mô tả một cuộc sống thanh nhàn như thế nào: “Một mai, một cuốc, một cần câu Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.” Trong câu thơ đầu tiên, hình ảnh của một ông lão nông dân sống thanh bình được khắc họa. Tác giả sử dụng từ 'một' để tạo ra sự nhấn mạnh và gợi lên một cuộc sống đơn giản nhưng không phải ai cũng có được. Từ 'thơ thẩn' trong câu thứ hai mô tả hành động ung dung và yên bình của một người ngồi nhàn nhã và thanh thản. Từ 'vui thú nào' một lần nữa nói lên chủ đề của bài thơ, về cuộc sống thanh nhàn, mặc dù có ai đó muốn đổi lấy sự phồn hoa của thành thị, tác giả vẫn duy trì tâm trạng bình yên. Hai câu thơ đầu tiên không chỉ giới thiệu chủ đề mà còn mô tả tâm trạng thoải mái, nhẹ nhàng và hạnh phúc của cuộc sống nông thôn.
Hai câu thơ chính của bài thơ nhấn mạnh vào cảnh sống thanh nhàn và sử dụng các từ đối lập như “ta” và “người”; “dại” và “khôn”; “nơi vắng vẻ” và “chốn lao xao”. Nhân vật trữ tình tự ý tìm đến nơi yên bình, sống một cuộc sống bình dị và thanh thản dù có ai đó chọn cuộc sống phồn hoa của thành thị. Hai câu thơ này đã phản ánh hai lối sống hoàn toàn đối lập. Tác giả tự gọi mình là 'dại' vì chọn cuộc sống đơn giản để giữ cho tâm hồn luôn bình an. Vậy, lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là lối sống trốn tránh trách nhiệm, mà là sự lựa chọn tín nghĩa và sự thanh thản trước thiên nhiên.
Điều đó tất nhiên không phải là sự thật, vì bài thơ được viết trong hoàn cảnh sáng tác như vậy mới giữ được phẩm chất cao quý của tác giả. Nguyễn Bỉnh Khiêm mong muốn giúp vua làm cho nhân dân ấm no hạnh phúc, nhưng tại thời điểm đó, triều đình đang tranh giành quyền lực, nhân dân khổ cực, và mọi ước mơ của ông không thể thực hiện được.
Vì vậy, việc Nguyễn Bỉnh Khiêm rời xa 'chốn lao xao' là một điều đáng trân trọng. “Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.” Hai câu này đã liệt kê các loại thực phẩm tự nhiên quanh năm. Câu thơ 'xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao' mô tả cuộc sống gần gũi với thiên nhiên ở vùng quê. Từ đó, chúng ta có thể cảm nhận được sự thanh thản, hòa hợp của tác giả với thiên nhiên, mà không cần tranh giành hay bon chen.
Đặt bài thơ trong bối cảnh thời kỳ đó, lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện sự thanh cao của tâm hồn, là lối sống tích cực phản ánh thái độ của một nhà tri thức. “. Rượu đến cội cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.” Hai câu này thể hiện quan điểm sâu sắc của một triết gia thông thái, sử dụng ý tưởng sáng tạo của điện tích Thuần Vu. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, phú quý không phải là một giấc mơ, vì ông đã có trải nghiệm thực tế. Nhưng ông không coi đó là mục tiêu sống, mà coi đó chỉ là một giấc mơ không có thực. Thay vào đó, ông tìm kiếm cuộc sống thanh thản để duy trì phẩm chất thanh cao của mình. Từ bài thơ này, chúng ta hiểu được quan niệm sống bền vững và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm, với việc coi thường vật chất, sống hòa hợp với thiên nhiên, và tôn trọng lối sống của những nhà tri thức yêu nước.
Bài “Nhàn” là một bức tranh đẹp tuyệt vời của văn học trung đại Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm. Tinh thần sống cao quý, sạch sẽ của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay.
Bài mẫu số 2
Trong suốt một thế kỷ đầy biến động của chế độ phong kiến Việt Nam - từ thời kỳ Lê – Mạt xưng hùng đến thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống và chứng kiến. Trong những giai đoạn đầy biến động đó, ông không chỉ lên án những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, mà còn bảo vệ những giá trị đạo lý tốt đẹp qua những bài thơ giàu triết lí về nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của một nhà nho đích thực. 'Nhàn' là một tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, nêu lên quan niệm sống của một nhà thơ ẩn dật, cao quý, vượt ra ngoài cái thường tầm thường của cuộc sống, không mơ về danh lợi và sự phồn hoa.
Nhà thơ đã không ít lần đứng trên tinh thần đạo đức nho giáo để thể hiện quan điểm sống của mình. Những suy tư đó liên kết với quan niệm đạo lí của nhân dân, thể hiện một quan điểm sống lành mạnh giữa thế giới hỗn loạn. 'Nhàn' là cách thức mà các nhà nho trước thực tế, tìm niềm vui trong thiên nhiên, giữ cho tâm hồn mình trong sạch. Cuộc hành trình của Nguyễn Bỉnh Khiêm trên con đường này là tìm về với nhân dân, đối lập với những kẻ tầm thường, thông qua việc sử dụng ngôn từ đầy nguyên thủy và ý nghĩa.
Cuộc sống nhàn tản hiện lên với nhiều điều thú vị.
“Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Trước mắt, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện lên như một nông dân bình dị, sống trong cuộc sống đơn giản nhưng thanh cao. Sự hiện diện của mai, cuốc, cần câu chỉ làm nổi bật thêm vẻ bình thản và sự thảnh thơi trong cuộc sống của nhà thơ, tuy không làm mất đi sự dân dã, mộc mạc của ông. Những suy nghĩ của ông, những quan điểm về cuộc sống đều được thể hiện qua những từ ngữ chân thành và sâu sắc trong bài thơ, làm nổi bật tầm nhìn thanh cao và vững bền của ông về cuộc sống và nhân sinh.
Nhờ vào đó, nhà thơ đã khẳng định một thái độ sống độc đáo và mạnh mẽ.
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn người đến chốn lao xao”
Hai câu này là sự phân biệt rõ ràng giữa nhà thơ và những người khác, những vị trí và quan điểm trong cuộc sống. Nhà thơ đã sử dụng phép đối lập để tôn vinh sự cao quý và sâu sắc trong cách nhìn của mình về cuộc sống. Ông chứng tỏ sự khác biệt giữa 'dại' và 'khôn' thông qua cách diễn đạt ngược, phê phán sự khao khát danh vọng và vật chất, và tìm kiếm sự bình yên và tinh thần trong cuộc sống. Nhưng ông không phải là người bi quan như Khuất Nguyên, mà thay vào đó, ông nhìn nhận và phê phán xã hội một cách sâu sắc, một cách lặng lẽ nhưng đầy sức mạnh.
“Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”
Nguyễn Bỉnh Khiêm thưởng thức sự phong phú của tự nhiên không phải để thỏa mãn vật chất mà là để tinh thần được tươi mới. Cuộc sống của ông dường như được ngâm vào tinh thần thanh cao của triết lý đạo Lão và Phật, đồng thời mang theo ý nghĩa biểu tượng về phẩm chất cao quý của người quân tử. Những hình ảnh như măng trúc, giá cả, hồ sen không chỉ là biểu tượng mà còn là những minh chứng rõ ràng cho quan niệm sống của ông.
“Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.”
Nhờ câu chuyện dễ hiểu đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện một quan điểm rõ ràng về sự quý trọng của sự bình dân và sự thanh cao, đối lập với sự cống hiến hoàn toàn cho vật chất và danh vọng. Ông không ngần ngại phê phán những người chỉ chạy theo vật chất và quyền lực, đồng thời khẳng định sự ưu việt của việc sống một cách giản dị và tinh thần.
“Ơ thể mới hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui”
(Thói đời)
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, phú quý và chức quyền chỉ là thứ mà những kẻ bạc ác và tàn nhẫn sử dụng để lợi dụng và áp đặt lên người khác. Ông coi những kẻ này như bầy chuột lớn, gây hại cho xã hội và đã viết nên bài thơ 'Ghét chuột' để bày tỏ sự căm ghét của mình. Thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao thực chất là việc ông chọn con đường gần gũi với nhân dân và đánh giá cao cuộc sống đơn giản và thanh cao của họ.
Bài thơ “Nhàn” là tinh hoa của triết lí, tình cảm và trí tuệ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể hiện một cách rõ ràng nhân cách đích thực của ông. Đó là sự tìm về với thiên nhiên và cuộc sống của nhân dân, đồng thời là sự phản kháng mạnh mẽ với xã hội phong kiến và những giá trị suy tàn của nó.