Mô tả lễ hội truyền thống ở tỉnh Cao Bằng bao gồm 2 gợi ý cách viết kèm theo 3 bài văn thuyết minh xuất sắc. Nhờ đó, giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý, rèn luyện kỹ năng viết văn thuyết minh một cách hiệu quả.
TOP 3 bài thuyết minh về lễ hội truyền thống ở Cao Bằng dưới đây sẽ là tài liệu quý giá giúp các bạn trong học tập và tự nghiên cứu, giúp mở rộng vốn từ vựng và cảm nhận văn học. Từ đó, biết cách trình bày, sắp xếp các ý để làm nổi bật vấn đề cần thuyết minh. Ngoài ra, qua bài văn này, các bạn còn hiểu biết thêm về các lễ hội truyền thống của dân tộc. Cũng như vậy, hãy xem thêm về bài văn thuyết minh về ngôi trường.
Dàn ý thuyết minh lễ hội truyền thống
Dàn ý thứ nhất
1. Khởi đầu
- Giới thiệu về lễ hội, vạch ra những đặc điểm độc đáo của nó hoặc tôn vinh tinh thần sôi động của thời đại hiện nay.
2. Nội dung chính:
- Trình bày chi tiết về những đặc điểm đặc trưng của lễ hội theo cấu trúc thời gian và logic.
– Thông tin về thời gian, địa điểm, và nguồn gốc của lễ hội được nêu rõ:
- Thời gian cụ thể (sự kiện ấy gắn liền với ý nghĩa lịch sử như thế nào).
- Địa điểm tổ chức lễ hội.
- Nguồn gốc, lý do tổ chức lễ hội (tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống hoặc thể hiện tinh thần sôi nổi của thời đại).
– Giới thiệu các công việc chuẩn bị cho lễ hội:
- Chuẩn bị các tiết mục biểu diễn.
- Chuẩn bị trang trí, tiến trình lễ hội (nếu là lễ hội truyền thống thì chuẩn bị cho việc rước kiệu, trang trí kiệu, chọn người,…).
- Chuẩn bị về địa điểm…
– Giới thiệu diễn biến của lễ hội theo trình tự thời gian. Thông thường lễ hội gồm hai phần: phần lễ và phần hội.
- Nếu là lễ hội tôn vinh nét đẹp phong tục truyền thống thì bao gồm: rước kiệu lễ Phật, dâng hương lễ vật, các hình thức diễn xướng dân gian, các đoàn khách thập phương.
- Nếu là lễ hội thể hiện tinh thần của thời đại: tuyên bố lý do; các đại biểu nêu ý nghĩa, cảm tưởng về lễ hội, các hoạt động biểu diễn (như đồng diễn, diễu hành, ca nhạc, các trò vui chơi,…)
– Đánh giá về ý nghĩa của lễ hội.
3. Kết luận:
Tổng kết lại ý nghĩa của lễ hội.
Chú ý: bài văn viết phải tuân thủ phong cách của văn thuyết minh, có thể bổ sung các miêu tả (về đặc điểm, quá trình diễn ra của lễ hội), biểu lộ cảm xúc (trình bày nhận định về ý nghĩa của lễ hội); cần sắp xếp bài văn một cách logic, rõ ràng.
Dàn ý số 2
I. Khởi đầu
Giới thiệu về lễ hội Thanh Minh.
II. Nội dung chính
a. Lịch sử và phát triển:
- Lễ hội Thanh Minh, một truyền thống lâu đời, sâu sắc trong tâm trí và văn hóa của người dân Cao Bằng.
- Diễn ra hàng năm vào ngày 8/3 âm lịch, rộn ràng đặc biệt tại Phúc Sen, Quảng Uyên.
- Nguyên ngọc từ câu chuyện tình yêu đẹp đẽ của Sinh (Thanh) và Mình (Minh), một truyền thuyết về lòng dũng cảm và hy sinh tình yêu.
- Nơi họ dấn thân ngày xưa đã biến thành suối vàng, mang lại hạnh phúc và thịnh vượng cho cộng đồng.
b. Ý nghĩa sâu sắc:
- Tôn vinh tình yêu chân thành của Sinh Mình, một biểu tượng về tình cảm bền vững và trung thành.
- Chúc cho mùa màng mùa thu phát triển mạnh mẽ, đời sống giàu có và hạnh phúc tràn đầy.
- Bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến tổ tiên, cha ông, những người đã che chở và bảo vệ gia đình suốt một năm qua.
- Gửi lời chúc hạnh phúc đến tất cả những cặp đôi trẻ, hy vọng họ có một cuộc sống hòa thuận và đẹp đẽ bên nhau.
c. Lễ cúng:
- Phần lễ được tổ chức trang trọng, trọng thể, thể hiện lòng tôn trọng sâu sắc đối với các vị thần và tổ tiên, cũng như tri ân những người đã khuất.
- Bàn tiệc được sắp đặt đầy đủ với đủ các món ăn truyền thống như heo quay nguyên con, xôi nhiều màu sắc, bánh trôi, gà luộc, trứng luộc, cá chiên, hoa quả, rượu ngon, tiền vàng giả,...
- Lễ cúng thường được tổ chức tại miếu Thổ Công ở xã Phúc Sen, nơi được người có uy tín nhất trong làng đảm nhiệm trách nhiệm tổ chức.
- Ngoài việc tưởng nhớ đôi trai gái Sinh Mình, lễ còn nhằm cầu nguyện và tạ ơn thần Thổ Công, Thần Nông, mong một năm mới có mưa tốt, gió nhẹ, và mùa màng bội thu. Sau lễ tại miếu, người ta tiếp tục lễ cúng tại khe nước nơi đôi trai gái đã hi sinh.
- Phần hội kết thúc lễ với nhiều hoạt động vui chơi, ẩm thực đặc sắc. Những trò chơi dân gian như kéo co, tung còn, cà kheo, đua gậy,... cùng với các tiết mục văn nghệ đặc sắc, những bài hát tình cảm của đôi trai gái tạo nên không khí sôi động và vui vẻ.
3. Tổng kết
Chia sẻ cảm xúc về lễ hội.
Thuyết minh về lễ hội Lồng Tồng
Lễ hội Lồng Tồng, hay còn được biết đến với tên gọi hội xuống đồng, là một trong những lễ hội truyền thống của dân tộc Tày. Diễn ra hàng năm từ đầu tháng giêng đến đầu tháng hai âm lịch, lễ hội này là nơi mọi người cầu nguyện cho mùa màng bội thu, cuộc sống đầy đặn.
Lễ hội Lồng Tồng được tổ chức từ ngày mồng 4 đến ngày mồng 10 tháng giêng. Lồng Tồng trong tiếng Tày – Nùng hoặc Lồng Tồng theo tiếng Dao có nghĩa là xuống đồng. Đây là một lễ hội mang đậm dấu ấn của nền nông nghiệp từ những nghi lễ, trang phục đến các trò chơi truyền thống.
Trước ngày lễ, mọi gia đình đều tổ chức dọn dẹp nhà cửa và sẵn sàng với đủ loại thực phẩm để đón tiếp khách. Vào ngày lễ, ngoài ruộng của làng, mỗi gia đình cũng chuẩn bị một bàn cỗ theo khả năng của mình, thể hiện sự khéo léo của phụ nữ trong việc chuẩn bị đồ ăn truyền thống.
Lễ hội Lồng Tồng thường được chia thành hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ bắt đầu khi chiêng trống vang lên, các bô lão và tráng đinh rước Thần Nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng, còn các gia đình thì rước cỗ bày ra trên bãi hội. Người chủ trì hội xướng bài mo cúng chư thần rồi tuyên bố phá cỗ. Gia đình nào có cỗ thịnh soạn và mời được nhiều khách dự hội đến thưởng thức cỗ nhà mình thì xem đó là điều may mắn cho cả năm. Có nơi các bô lão được mời đi thưởng cỗ, có thanh niên gái trai đi theo múa hát, chúc cho từng gia đình vạn sự tốt lành.
Hội được tổ chức trên một thửa ruộng lớn gọi là ruộng xuống đồng. Phân chia thành hai phần: Phần lễ cầu thiên địa, cầu thần Nông, thần Phục Hy độ trì cho mưa thuận gió hòa, gia súc, gia cầm sinh sôi, bản làng bình yên no ấm... Chủ trì hội là ông Thoại đinh (người coi đình) hay người coi việc thờ cúng Thần Nông của bản. Tất cả gia đình tham dự hội đều mang theo cỗ để làm lễ vật cúng thần đất, thần núi, Thần Nông và Thành Hoàng: đó là những mâm cỗ thịnh soạn, trình bày đẹp. Mâm lễ thường có xôi nếp, thịt lợn, rượu trắng và các loại bánh như khẩu sli, khẩu select, bánh khảo, bánh dày, chè lam...Ở một số hội qui mô lớn, người chủ trì còn cho tổ chức lễ hiến tam sinh (trâu, heo, gà hay heo, dê, gà). Trên thửa ruộng xuống đồng đàn tế Thần Nông và các thần khác được trần thiết. Lễ hội bắt đầu khi chiêng trống nổi lên, rồi các bô lão và tráng đinh rước Thần Nông và Thành Hoàng từ đình ra ruộng, còn các gia đình thì rước cỗ, bày ra trên bãi hội. Người chủ trì hội xướng bài mo cúng chư thần rồi tuyên bố phá cỗ . Gia đình nào có cỗ thịnh soạn và mời được nhiều khách dự hội đến thưởng thức cỗ nhà mình thì xem đó là điều may mắn cho cả năm. Có nơi các vị bô lão được mời đi thưởng cỗ, có thanh niên gái trai đi theo múa hát, chúc cho từng gia đình vạn sự tốt lành. Ăn cỗ xong, mọi người tiếp tục ca hát và tham gia các trò chơi dân gian như: ném còn, kéo co, đẩy gậy, đánh quay, đánh đu, múa kỳ lân, múa sư tử, múa võ, múa giáo, bịt mắt bắt dê, hát giao duyên (hát lượn), thi sản vật địa phương, cờ tướng ...
Sau phần lễ là phần hội, bắt đầu với những tiết mục văn nghệ đặc sắc như hát Then, hát Cọi... Trong phần hội còn có nhiều hoạt động thể thao dân tộc và trò chơi dân gian khác như: Ném còn, leo cột, bịt mắt đánh trống, kéo co, đẩy gậy, thi cày ruộng... tất cả đều tạo cho người xem niềm vui và hào hứng, chuẩn bị cho một năm mới với những vụ mùa mới năng suất, hiệu quả cao.
Lễ hội Lồng Tồng của dân tộc Tày, Nùng từ lâu đã trở thành một phần của văn hóa đậm chất nhân văn. Với ý nghĩa và đặc trưng riêng, những ngày lễ hội luôn thu hút sự quan tâm của du khách từ mọi nơi.
Thuyết minh về lễ hội pháo hoa Quảng Uyên
Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên là một trong những lễ hội truyền thống đặc biệt với màn trình diễn pháo hoa đặc sắc của các xã tại thị trấn Quảng Uyên, nhằm cầu mong một năm mới đầy may mắn, thịnh vượng. Hằng năm, vào ngày 2/2 âm lịch, người dân và du khách đổ về Quảng Uyên để tham gia lễ hội này.
Lễ hội pháo hoa Quảng Uyên là sự kiện lớn nhất trong năm của nhân dân huyện Quảng Uyên, liên quan đến các khía cạnh lịch sử và tâm linh của miếu Bách Linh. Miếu này được xây dựng từ thời Lý dưới chân núi Cốc Bó, và sau đó được xây lại hoàn toàn theo kiến trúc thời Nguyễn. Trước cổng miếu có tam quan, sân tiền đường, hậu đường và hậu cung, hoành phi, câu đối. Trên cổng được khắc chữ “Bách Linh miếu”, có hình ảnh con rồng uốn khúc, xây từ gạch vồ (gạch thời Mạc), và có trạm rồng ngậm ngọc cùng chim phượng cùng long ly tụ hội.
Một trong những điểm đặc biệt nhất trong lễ hội là màn “khai quan” cho rồng mở mắt. Rồng được khai quan từ một mỏ nước được gọi là bó Cốc Chủ (mỏ nước ở dưới gốc cây cổ thụ). Lễ được thực hiện bởi một cụ già có uy tín và một đội rồng gồm 15 người (3 người đánh trống, một người cầm quả cầu và 11 người múa rồng) tại mỏ nước. Khi ra khỏi mỏ, rồng không được múa hoặc đánh trống mà bị bịt mắt bằng giấy, và nằm phục tại mỏ nước. Người chủ lễ thắp hương và cầu nguyện, sau đó cắt tiết con gà trống và lấy máu xoa vào mắt rồng, rồng được mở mắt và cử động từ đầu đến đuôi. Rồng sau đó được thúc giục bằng trống và bắt đầu bay lên, quanh mỏ nước ba vòng rồi vào miếu Bách Linh, sau đó thực hiện một số nghi lễ khác.
Lễ vật dâng lên tế lễ bao gồm 2 con lợn quay, 1 mâm xôi, 1 mâm trứng nhuộm đỏ, và 1 mâm hoa quả. Phần lễ diễn ra trang trọng với 4 đoàn rước kiệu mỗi đoàn có 4 người khiêng, mặc trang phục lễ. Đầu tiên là kiệu rước ảnh Bác Hồ, thứ hai là kiệu rước thần, thứ ba là kiệu pháo hoa, cuối cùng là kiệu rước một con lợn quay, là phần thưởng cho đội chiến thắng trong trò chơi cướp đầu pháo. Đoàn rước rồng theo sau, và sau khi thắp hương tại miếu, họ đi qua các đền thờ và các nhà dân. Người dân đón tiếp rồng với sự nồng nhiệt và trang trọng.
Phần hội diễn ra với nhiều trò chơi dân gian và biểu diễn văn học như múa rồng, múa lân, hát lượn, và cướp đầu pháo. Trò chơi nổi tiếng nhất là cướp đầu pháo, khi các đội tranh cướp một vòng sắt (đầu pháo) được tung ra từ đài cao. Người chiến thắng được xem là may mắn và được tặng một con lợn quay, đồng thời còn để lại một bức tranh trong miếu để tạo ra may mắn cho năm sau.
Theo dòng thời gian, lễ hội pháo hoa Quảng Uyên đã trở thành một phần không thể thiếu trong lòng nhiều thế hệ người dân Quảng Uyên, là biểu tượng của sự tươi vui mỗi khi xuân về.
Các lễ hội tại Cao Bằng đều mang đậm bản sắc nhân văn, hướng về điều lành, mong muốn cho cuộc sống trở nên phong phú, hạnh phúc hơn. Đồng thời, chúng còn tôn vinh các anh hùng dân tộc và bảo tồn những giá trị văn hoá truyền thống. Những nét đặc trưng như hát Then, điệu nhảy Lượn, cùng các trò chơi dân gian, đều tạo ra một sức hút lớn trong du lịch văn hóa của Cao Bằng.
Thuyết minh về lễ hội truyền thống của tỉnh Cao Bằng
Cao Bằng không chỉ là địa danh lịch sử của cách mạng, mà còn là nơi đậm đà văn hóa, truyền thống sâu sắc, kết nối tình yêu quê hương suốt những năm tháng gian truân chống Pháp. Sự đa dạng về dân tộc cũng tạo nên một loạt các lễ hội truyền thống đặc sắc như lễ hội Lồng tổng, Nàng Hai, Pháo Hoa,... Trong đó, lễ hội Thanh Minh vào mùa xuân là một sự kiện lớn và quan trọng không kém Tết Nguyên Đán của người Kinh.
Dù Tiết Thanh Minh có thể không phải là một ngày lễ tết độc lập của người dân tộc Nùng An tại Phúc Sen, Cao Bằng, nhưng chỉ có ở đây mới tổ chức thành một lễ hội lớn mang tên lễ hội Thanh Minh. Với nhiều nghi thức và hoạt động vui chơi, lễ hội này tạo nên một không khí giống như ngày Tết dưới miền nam, là biểu tượng của truyền thống và lòng biết ơn đối với tổ tiên, gia đình, và tình yêu vĩnh cửu của hai trai gái Sinh Mình.
Như nhiều lễ hội truyền thống khác, lễ hội Thanh Minh được chia thành hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ được tổ chức một cách cẩn thận, chu đáo, thể hiện lòng thành kính đối với thần linh, tổ tiên và tình cảm tiếc thương với những người đã qua đời. Mâm cỗ cúng được chuẩn bị kỹ lưỡng với các món ăn truyền thống của người Nùng An như heo quay, xôi ba màu, bánh trôi, gà luộc, trứng luộc, cá chiên, hoa quả, rượu ngon và giấy tiền vàng,... Lễ cúng được tổ chức tại miếu Thổ Công của xã Phúc Sen dưới sự chủ trì của một người có uy tín nhất trong làng. Sau khi kết thúc phần lễ, người ta tiếp tục làm lễ tại khe nước nơi đôi trai gái Sinh Mình đã hy sinh, cầu chúc cho họ mãi mãi bên nhau và cho các cặp đôi trẻ tìm được tình yêu bền chặt, cuộc sống hạnh phúc. Phần hội sau đó sôi động với nhiều hoạt động vui chơi ăn uống linh đình.
Lễ hội Thanh Minh là một trong những nét đẹp của phong tục văn hóa truyền thống của người Nùng An tại Cao Bằng, làm phong phú thêm bức tranh văn hóa đa dạng của cộng đồng dân tộc miền núi cũng như của Việt Nam. Chúng ta cần giữ gìn và trân trọng những giá trị này, làm phong phú thêm di sản văn hóa của đất nước, từng bước góp phần vào sự giàu có văn hóa đa dạng của dân tộc.