Văn mẫu lớp 10: Nhận định về một tác phẩm văn xuất sắc tổng hợp 12 bài văn mẫu cực kỳ chất lượng dưới đây được viết rất hay với phong cách rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, sẽ giúp các em viết văn cảm nhận về tác phẩm văn xuất sắc hơn.
TOP 12 bài viết cảm nhận về tác phẩm văn học khác nhau kèm theo gợi ý cách viết chi tiết dưới đây là tư liệu vô cùng hữu ích. Qua việc nhận định về tác phẩm văn học, các bạn học sinh có thể lựa chọn cho mình một cách tiếp cận, một phong cách văn thích hợp, để sau đó nó trở thành kiến thức quý báu của chính mình. Ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm: phân tích Ngô Tử Văn và nhiều bài văn mẫu hay khác tại chuyên mục Văn 10 Kết nối tri thức.
Dàn ý nhận định về một tác phẩm văn xuất sắc
Với dạng bài này, thường cần tập trung vào những điểm đặc biệt về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm để đưa ra nhận định một cách cụ thể, tránh xa lạc và không điểm chính.
I. Khai mạc:
– Tổng quan về tác phẩm (tác giả, tựa đề, bối cảnh sáng tác, bối cảnh tiếp xúc với tác phẩm).
II. Nội dung chính:
*Đối với tác phẩm tự sự:
– Trình bày ý kiến về tổng thể giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
– Phân tích cảm xúc về một số chi tiết, hình ảnh đặc biệt, tình huống, nhân vật.
– Sử dụng các chi tiết, hình ảnh, nhân vật trong tác phẩm để kích thích trí tưởng tượng, suy ngẫm về con người, cuộc sống ngoài đời hoặc với các tác phẩm cùng chủ đề hoặc cùng tác giả.
* Với tác phẩm thơ (trữ tình):
– Phân tích cảm nhận theo từng phần, ý, hoặc dựa trên luồng cảm xúc của tác phẩm ở hai khía cạnh nội dung và nghệ thuật.
– Thể hiện cảm xúc về các chi tiết hình ảnh nổi bật nhất trong tác phẩm, so sánh với các tác phẩm khác cùng chủ đề hoặc của cùng tác giả.
III. Kết bài:
– Tóm tắt lại cảm nhận về bài thơ.
Cảm nhận về bài thơ Dục Thúy Sơn
Nguyễn Trãi là một trong những nhà văn lớn của dân tộc Việt Nam, ông để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có bài thơ Dục Thúy Sơn, một tác phẩm gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
Bài thơ miêu tả về vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên, có lẽ đó là nguồn cảm hứng không ngừng cho tác giả trong quá trình sáng tác. Đặc biệt, hai câu đầu tiên tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời:
Cửa biển tươi đẹp
Đong đầy hương biển bạt ngàn
Bắt đầu bằng việc mô tả khung cảnh hùng vĩ của thiên nhiên với biển non tưởng chừng như tiên cảnh, một vẻ đẹp tự nhiên hùng vĩ mà chúng ta có thể thấy ở khắp mọi nơi. Thiên nhiên tuyệt vời làm cho tâm hồn con người trở nên hân hoan, với những cảm xúc thiêng liêng. Tác giả đã tạo ra một bức tranh sống động về vẻ đẹp tự nhiên với những hình ảnh sống động và sôi động, là điểm đến lý tưởng cho du khách. Trong tận những non xanh, những ngọn núi cao trước mắt, và những đám mây trắng trên bầu trời cao:
Tháp nước bóng ngọc xanh
Kìa tóc rối nắng xinh
Với những bức tranh tự nhiên tuyệt vời và những tháp nước lấp lánh trên trời cao, đã chiếu sáng lên những áng tóc đẹp trên đỉnh cao, những tháp nước đầy màu xanh ngọc tự nhiên đã phản chiếu ánh nắng xuống những sợi tóc đẹp rạng rỡ của những cô gái trẻ. Chúng ta luôn tự hào về vẻ đẹp tự nhiên tuyệt vời của Dục Thúy Sơn, nơi có những khung cảnh thiên nhiên đẹp và lãng mạn. Người đọc có thể nhận thấy điều đó qua ngôn ngữ và những hình ảnh đặc biệt mà tác giả đã sử dụng, những tháp nước ở đây tạo ra một khung cảnh tuyệt vời, với những tia sáng từ trên cao chiếu xuống làn nước trong veo của thiên nhiên tươi đẹp:
tháp nước đây là một trong những điểm đẹp của Dục Thúy Sơn, với những gương nước đứng cao soi sáng ra những dòng nước trong veo của thiên nhiên tuyệt vời:
Thơ dường như ẩn chứa nhiều bí mật
Chờ đợi gió đến, mở ra thử”.
Thiên nhiên tươi đẹp cùng với những cảm xúc trong thơ đã khơi gợi những lời tâm sự tình cảm và những tình thư vẫn còn nguyên vẹn, cùng với gió ở đâu đó kia, gượng mở ra để chiêm ngưỡng. Khung cảnh thiên nhiên này vẫn đang thổi nhẹ nhàng, làm dịu mát những tâm hồn trầm lắng trong thơ, thiên nhiên hòa quyện vào những tâm sự, những suy tư của con người tại đây. Vẻ đẹp của thiên nhiên được nhấn mạnh trong tác phẩm này, từ đó tác giả truyền đạt những suy tư, tình cảm của mình về thời cuộc, về lo lắng cho vận mệnh của dân tộc, qua con đường nhìn từ trên cao của Dục Thúy Sơn. Dù thiên nhiên ở đây hùng vĩ và tuyệt đẹp, nhưng nó cũng chứa đựng những nỗi buồn, những suy tư về thời cuộc. Cảm xúc của con người đã hoà mình vào khung cảnh thiên nhiên, vẽ nên bức tranh mê ly tâm hồn của mọi người ở Dục Thúy Sơn. Đây thực sự là nơi làm chúng ta tự hào về vẻ đẹp của thiên nhiên, nơi làm dấy lên những cảm xúc sâu sắc trong lòng thi sĩ. Tác giả đã thể hiện những suy tư sâu lắng và cảm xúc sâu sắc qua ngôn từ đầy suy tư và đầy cảm xúc của mình.
Sáng tạo của Nguyễn Trãi đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Qua bài thơ Dục Thúy Sơn, chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về tài năng của tác giả, qua đó tác giả đã truyền đạt những suy tư thời cuộc của mình qua những dòng thơ. Thơ là bức tranh vẽ ra vẻ đẹp tự nhiên và nhờ có thiên nhiên mà tác giả truyền đạt được những suy tư, những cảm xúc của mình về cuộc sống.
Cảm nhận về bài thơ Câu cá mùa thu
Bức tranh mùa thu trong “Câu cá mùa thu” được tái hiện qua vẻ đẹp dân dã, bình dị và yên bình. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh và màu sắc quen thuộc nhất của thiên nhiên làng quê Bắc Bộ để tạo ra một bức tranh sống động, trong sáng của mùa thu.
“Trên ao thu, nước trong veo mát lạnh,
Một chiếc thuyền câu bé nhỏ nhắn
Sóng xanh nhẹ nhàng, nắng ấm dịu,
Lá vàng lay nhẹ dưới làn gió êm”
Vẻ đẹp thanh nhã, dịu dàng của mùa thu được tái hiện qua các gam màu nhẹ nhàng: “nước trong veo”, “sóng xanh nhẹ nhàng”, “trời xanh ngắt”, “lá vàng”. Bức tranh mùa thu không chỉ hiện diện qua sự phối hợp màu sắc mà còn mang đầy sức sống. Với nhận thức sâu sắc và sự quan sát tỉ mỉ, tác giả đã thành công trong việc tái hiện sự biến đổi nhẹ nhàng của thiên nhiên thông qua sự dao động “nhe nhẹ” của sóng xanh và sự lay động êm dịu của lá vàng. Mỗi biến đổi đều mang đậm dấu ấn đặc trưng của mùa thu. Đặc biệt, tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” cuối bài thơ càng làm nổi bật hơn vẻ đẹp tĩnh lặng, trong trẻo của mùa thu, đồng thời làm rõ hơn tài năng của tác giả trong việc sử dụng kỹ thuật “lấy động tả tĩnh”.
Nằm đầu gối, ôm cần câu lâu dài chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Bức tranh mùa thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến đọng chứa nỗi buồn man mác, đậm chất mùa thu trong tiết trời heo may se lạnh. Không gian được mở rộng theo chiều cao và chiều sâu. Bằng tình yêu thiên nhiên và tâm hồn nhạy cảm trước vẻ đẹp tự nhiên, tác giả đã tạo ra bức tranh toàn cảnh về mùa thu qua sự thay đổi góc nhìn. Khung cảnh mùa thu được mở ra từ nhiều phía, tạo nên những hình ảnh độc đáo về chiếc “thuyền câu bé nhỏ nhắn” đến “ao thu” và mở rộng theo chiều cao của những “tầng mây trôi dạt”. Từ khoảng không gian rộng lớn của “bầu trời xanh ngắt”, góc nhìn của tác giả tiếp tục điều chỉnh về không gian hẹp của chiếc thuyền thu và ao thu. Trong không gian trống lặng “Tầng mây trôi dạt bầu trời xanh ngắt”, bức tranh thiên nhiên tĩnh lặng đã được phủ lên bởi ánh buồn nhẹ nhàng, miên man kết hợp với sự trống trải “Ngõ trúc quanh co không bóng người”. Như vậy, dưới bàn tay và tư duy tinh tế của cụ Tam Nguyên Yên Đổ, “hồn thu” với hương vị buồn buồn đã lan tỏa và thấm sâu vào từng khoảnh khắc.
Thông qua bức tranh mùa thu với vẻ đẹp giản dị, trong trẻo và đậm chất buồn, chúng ta có thể nhìn thấy hình ảnh nhân vật trữ tình hiện ra qua tình yêu thiên nhiên tha thiết cùng những nỗi buồn ẩn chứa trong tâm trạng. Đó chính là tiếng lòng yêu nước thầm kín mà cảm xúc của cụ Tam Nguyên Yên Đổ đã thể hiện rất rõ, sâu sắc và mãnh liệt trước cảnh vật của đất nước vào mùa thu.
Cảm nhận về tác phẩm Chữ người tử tù
Hầu hết các nhà văn của văn học Việt Nam từ xưa đến nay, ai cũng đã nói về vẻ đẹp và sự hoàn mỹ của cuộc sống con người. Nguyễn Tuân cũng không phải là ngoại lệ. Ông sinh ra trong một gia đình trí thức, học vấn uyên bác và rất yêu nghề văn có cá tính sáng tạo độc đáo. Ông đã sử dụng hình tượng một nhân vật thật để tạo nên một hình tượng nhân vật trong truyện 'Chữ người tử tù', và đó cũng là tác phẩm nổi tiếng của ông. Truyện mô tả về thú vui tao nhã và con người phong kiến như một lời ca ngợi về vẻ đẹp của một thời đại.
Trong truyện, hai nhân vật chính là người tử tù Huấn Cao và Viên quản ngục là biểu tượng của sự hội tụ giữa tài năng, phẩm cách và quyền lực trong xã hội phong kiến.
Huấn Cao là một nghệ sĩ tài hoa, ông là người viết chữ đẹp nhất trong khu vực. Chữ của Huấn Cao không chỉ là biểu hiện của tài năng mà còn là biểu tượng của sức mạnh và phẩm chất của con người. Viên quản ngục luôn ngạc nhiên khi gặp Huấn Cao trong số các tù nhân. Ông đã biểu hiện sự kính trọng và chăm sóc đặc biệt đối với Huấn Cao, nhưng luôn bị từ chối và hiểu lầm bởi Huấn Cao.
Viên quản ngục rất ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng trong số các tù nhân mà ông giữ, có một người là Huấn Cao, một người mà ông đã ngưỡng mộ từ lâu. Ông đã cố gắng đối xử tốt với Huấn Cao nhưng luôn bị từ chối và hiểu lầm bởi Huấn Cao.
Tuy nhiên, cuối cùng Huấn Cao cũng đã nhận ra rằng, viên quản ngục là biểu tượng của cái đẹp, một tâm hồn cao quý bị lạc vào chốn bùn nhơ. Ông ta đại diện cho xã hội phong kiến thu nhỏ.
Nhưng đó cũng là cảnh chưa từng có trong nhà tù hôi hám và chật hẹp này. Trật tự bị đảo ngược hoàn toàn. Người bị kết án tử hình vào sáng hôm sau lại đại diện cho sự ban phát cái đẹp. Cái đẹp thống trị nơi ngục tù tăm tối đó. Điều này cho thấy sự bất tử của cái đẹp.
Một trật tự mới đã xuất hiện, nhà tù với quyền lực đã sụp đổ. Cái đẹp đã kết nối hai con người, nảy sinh từ vùng đất chết và bùn nhơ. Huấn Cao đã biểu hiện sự cảm hoá con người thông qua tài năng, tâm hồn và khí phách.
Tình huống đặc biệt là cuộc gặp gỡ giữa hai bên đầy oái oăm và kịch tính: một bên là tội phạm, bên kia lại là giai cấp thống trị. Mặc dù trên bình diện xã hội họ đối nghịch nhau, nhưng trên bình diện nghệ thuật, họ lại là bạn tri kỷ của nhau.
Thủ pháp nghệ thuật đối lập làm nổi bật nét đặc sắc của tác phẩm. Theo Nguyễn Tuân, đẹp là sự dung hòa giữa tài năng, tâm hồn và dũng khí trong con người.
Điều này thể hiện quan điểm của Nguyễn Tuân về cái đẹp. Đối với ông, cái đẹp phải đi đôi với bản lĩnh, ý thức giữ gìn bản ngã (tâm hồn, đạo đức của con người), là nguồn gốc của nhân cách và tài năng.
Nguyễn Tuân đã kín đáo xây dựng hình tượng đó để gửi gắm niềm ngưỡng mộ của mình đối với những người dám hy sinh vì tự do dân tộc trong thời đại của ông.
Truyện ngắn này tôn vinh những con người tài năng, vẫn giữ được tâm hồn thanh cao, thiên lương, dù ở nơi bùn đất. Cái đẹp luôn tỏa sáng và hiện hữu, chiếu sáng trong bóng tối như ánh sáng luôn cai trị.
Cảm nhận về tác phẩm Tôi đi học
Tôi đi học là một truyện ngắn của nhà văn Thanh Tịnh, xuất hiện trong tập truyện Quê Mẹ và được xuất bản vào năm 1941. Đây là một tác phẩm thể hiện rõ phong cách sáng tác của tác giả: trữ tình, dịu dàng, trong trẻo và đậm đà chất thơ. Truyện tái hiện một cách xúc động tâm trạng hồi hộp, cảm giác lạ lẫm của nhân vật tôi, một cậu bé được mẹ đưa đến trường lần đầu trong ngày tụi trường.
Cảm xúc bắt đầu trỗi dậy từ hiện tại khi nhìn lá rụng vào cuối mùa thu. Buổi sáng đó đầy sương mù và gió lạnh: buổi tựu trường xa xưa ấy thật đáng nhớ, cậu bé được mẹ âu yếm nắm tay dẫn đi. Con đường dẫn đến trường dài và hẹp, quen thuộc nhưng chú bé thấy lạ. Cảnh quan quê hương dường như thay đổi, có lẽ do tâm trạng của chính tôi đang trải qua sự biến đổi lớn: Chú bé bảy tám tuổi cảm thấy mình trưởng thành, không còn chơi nghịch như thường lệ nữa.
Không thể quên được buổi tựu trường xa xưa ấy. Cảm giác trang trọng và nghiêm túc khi mặc chiếc áo dài đen và cầm hai quyển vở mới. Chú thấy những học sinh khác cũng mặc đồng phục sạch sẽ, nhí nhảnh, nói chuyện và trao đổi sách vở. Hai quyển vở mới, dù chú nắm chặt lấy, vẫn cảm thấy nặng, rồi một quyển vở rơi xuống đất. Nhìn thấy các bạn cầm nhiều sách vở cùng bút thước, chú nghĩ chỉ có người giỏi mới cầm được bút thước. Ý nghĩ đó của nhân vật tôi như một làn mây nhẹ nhàng trôi qua trí nhớ của mình, tạo nên một hình ảnh so sánh tươi đẹp.
Khi đứng trước ngôi trường, chú bé cảm thấy hồi hộp và bỡ ngỡ. Chú ngạc nhiên trước sự đông đúc trước sân trường; mọi người đều mặc đồng phục sạch sẽ, tươi tắn. Chú từng đi chơi với bạn và ghé lại trường một lần, nhưng cảm thấy mọi thứ mới mẻ hơn, cao lớn và sạch sẽ hơn. Buổi tựu trường hôm đó, chú cảm thấy ngôi trường Mĩ Lí của mình giống như một đình làng oai vệ. Đứng giữa sân trường rộng lớn, chú cảm thấy lạc lõng. Cảm giác này là thực, là điển hình cho tuổi thơ trong buổi tựu trường đầu tiên.
Chú bé cũng như các học sinh khác, bỡ ngỡ đứng nép bên người thân, nhìn xa xăm như con chim bên tổ, muốn bay lên nhưng lại ngập ngừng, e dè. Tâm trạng muốn học hành, khao khát bay tới những chân trời xa. Hình ảnh so sánh rất đặc sắc! Khao khát và hy vọng đã xuất hiện trong tâm trí của tuổi thơ trong buổi tựu trường.
Tiếng trống của buổi tựu trường luôn gây ấn tượng mạnh mẽ. Tiếng trống của trường Mỹ Lí đã khuấy động lòng chú bé. Khi học sinh vào lớp, chú cảm thấy lạc lõng. Mọi người đều bắt đầu vụng về, lúng túng. Dường như chú không tự đi mà bị kéo dìu. Cảm giác vụng về này lan tỏa trong cả người khi bước vào lớp. Khi thầy giáo gọi tên, khi thầy nói, học sinh vào lớp Năm vẫn lúng túng... thậm chí còn hơn thế. Nhiều em khóc, nhiều em thút thít. Chú bé cố gắng đẩy tôi vào lớp, nhưng vẫn dự vào lòng mẹ khóc nức nở. Bàn tay mềm mại của mẹ vuốt nhẹ trên tóc chú, điều này chú không bao giờ quên. Tuy vậy, khi vào lớp Năm và được thầy giáo tươi cười đón ở cửa, chú vẫn cảm thấy lẻ loi: trong tuổi thơ của mình, chưa khi nào chú thấy xa mẹ như lần này.
Cảm xúc rối bời, hồi hộp tràn ngập khi ngồi trong lớp, cảm nhận một hương thơm lạ tràn ngập không gian. Chú thấy những bức tranh treo trên tường đẹp mắt. Nhìn xuống bàn, chú nhận ra đó là vật dụng cá nhân của mình, nhìn bạn bè bên cạnh không cảm thấy xa lạ mà cảm thấy quen thuộc... Đôi khi chú liếc mắt ao ước một cánh chim. Chú vùng tay lên bàn vẽ vẽ đánh vần bài viết 'Tôi đi học'. Tiếng phấn của thầy giáo đưa chú trở về hiện thực.
Dựa vào kí ức của mình, Thanh Tịnh đã mô tả những kỷ niệm, cảm xúc hồi hộp, bỡ ngỡ của nhân vật 'tôi' trong buổi tựu trường theo thứ tự thời gian, không gian: từ buổi sớm mẹ dẫn đi trên con đường làng, đến khi đứng giữa sân trường, rồi tiếng trống vang lên, nghe ông đốc đọc tên và dặn dò, cuối cùng là khi thầy giáo trẻ đưa vào lớp.
'Tôi đi học' là một trang văn đậm chất thơ, chứa đựng những kỷ niệm của tuổi thơ ngày tựu trường. Sự thơ của ngôn từ nhẹ nhàng, truyền cảm. Sự thơ của sự lặng lẽ và khơi gợi ký ức thời còn đi học trong mỗi chúng ta. 'Tôi đi học' là một tiếng lòng đong đầy, rất bồi hồi, bâng khuâng của một thời để nhớ, để yêu. Những kỷ niệm ấy rất đẹp và sâu sắc, khiến tôi mỗi khi nhìn lá rụng vào cuối thu và nhìn bầu trời có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại đầy bao nhiêu cảm xúc.
Cảm nhận về tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa
Nguyễn Thành Long là một tác giả truyện ngắn, nhưng vẻ đẹp nghệ thuật không chỉ nằm ở sự phát hiện sắc sảo - xung đột mạnh mẽ mà còn ở việc tạo ra sự lặng lẽ, nhẹ nhàng, nhưng vẫn mang lại sức sống sâu sắc và vĩnh cửu. Lặng lẽ Sa Pa là một ví dụ điển hình cho phong cách của Nguyễn Thành Long. Tác phẩm ra đời sau một chuyến đi thực tế. Nguyễn Thành Long đã giới thiệu cho chúng ta một vùng đất yên bình nhưng vẫn tồn tại những con người làm việc cống hiến, quên mình cho quê hương đất nước.
Trong tĩnh lặng của Sa Pa, cuộc sống vẫn hiện hữu đầy màu sắc và ấm áp, là nơi của những tấm lòng nhiệt huyết và sự cống hiến cho đất nước.
Một thanh niên trẻ tuổi, từ thành phố ra vùng cao của Yên Sơn, tìm thấy niềm vui và ý nghĩa trong công việc khí tượng và vật lí địa cầu, dù điều kiện làm việc không phải lúc nào cũng dễ dàng.
Dù sống trong cô đơn của rừng sâu, anh ta vẫn giữ lửa đam mê nghề nghiệp, luôn tìm thấy niềm vui từ công việc và sự gặp gỡ, trao đổi với mọi người.
Ngoài trình độ học vấn, anh ta còn toát lên vẻ đẹp của một người trẻ trung, yêu đời và biết quan tâm đến người khác trong mọi tình huống.
Với sự tận tụy và hiểu biết, anh ta không chỉ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mình được giao mà còn là nguồn động viên cho những người đến với Sa Pa.
Những người làm việc trong vườn ươm và nghiên cứu bản đồ chống sét ở Sa Pa đều là những người mà lao động và đam mê cho mục tiêu chung của cộng đồng. Họ tạo ra sự 'lặng lẽ' nhưng vẫn toát lên sức sống của Sa Pa.
Bác lái xe là người đồng hành đặc biệt, góp phần tạo nên những kỉ niệm đẹp tại Sa Pa cho những người gặp gỡ, giúp họ đẩy lùi cảm giác cô đơn. Còn ông họa sĩ và cô kỹ sư trẻ cũng tìm thấy niềm vui và sự khích lệ trong cuộc sống ở đây.
Câu chuyện không có những xung đột lớn, nhưng mỗi nhân vật lại đều đem lại một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống và công việc của họ, tạo nên một bức tranh tình người ấm áp và ý nghĩa.
“Lặng lẽ Sa Pa” không chỉ viết về cuộc sống bình thường mà còn là câu chuyện về những con người bình thường, nhưng sâu sắc và đầy ý nghĩa. Cuộc sống và lao động của họ là nguồn cảm hứng không ngừng cho việc xây dựng xã hội.
Cảm nhận về tác phẩm Lão Hạc
Truyện Lão Hạc và Tắt Đèn của Nam Cao và Ngô Tất Tố đã gây ấn tượng sâu sắc với chúng ta, làm chúng ta ngưỡng mộ tài năng văn học của hai nhà văn này. Đối với tôi, mỗi lần đọc lại Lão Hạc, tôi luôn khám phá thêm những điều mới lạ và đầy ý nghĩa.
Lão Hạc là biểu tượng của lòng nhân đạo và tình yêu thương đối với người lao động của Nam Cao. Như Ngô Tất Tố và nhiều nhà văn khác, Nam Cao đã vẽ nên hình ảnh của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng với những phẩm chất đáng trân trọng như chăm chỉ, cần cù, yêu thương và hy sinh.
Lão Hạc sống cả đời trong cảnh nghèo khổ và đói kém, hy sinh tất cả cho con cái mà không bao giờ nghĩ đến bản thân. Câu chuyện của ông làm ta cảm thấy đau lòng và tức giận trước sự bất công trong xã hội.
Dù đã qua đời, Lão Hạc vẫn giữ được phẩm chất cao quý của một người nông dân, không gây phiền phức cho người khác. Sự tự trọng của ông khiến ta vừa thương và vừa ngưỡng mộ.
Trong truyện Lão Hạc, không chỉ có ông khổ cực mà còn có những nhân vật khác như Binh Tư và ông giáo, cho thấy cái nghèo có thể biến người trở thành tội phạm và đe dọa sự tự trọng và tri thức của họ.
Trong Lão Hạc, nhà văn phản ánh niềm tin và sự lạc quan vào tính bản năng tốt đẹp của con người. Nhưng hơn hết, tác phẩm gửi đi một lời cảnh báo, một lời kêu gọi cứu rỗi con người. Từ sâu thẳm của triết lý, tác phẩm nói lên sự cấp bách và yêu cầu cần phải thay đổi môi trường sống để bảo vệ những giá trị cao quý của con người.
Lão Hạc giúp chúng ta nhìn lại quá khứ để trân trọng hơn cuộc sống hiện tại. Nó cũng dạy chúng ta rằng cuộc sống không chỉ là về việc tồn tại mà còn là về việc bảo toàn nhân phẩm.
Về tác phẩm Bến Quê
Trong số những tác phẩm văn học học ở cấp hai, truyện ngắn “Bến Quê” của Nguyễn Minh Châu (lớp 9) để lại ấn tượng mạnh mẽ. Tôi chưa đủ tuổi của anh Nhĩ để hiểu sâu sắc triết lý mà tác giả muốn truyền đạt về niềm khao khát quê hương, nhưng tôi đã cảm nhận được nỗi tiếc nuối của anh Nhĩ khi anh ta nằm trên giường bệnh, đếm ngày cuối cùng của cuộc đời.
Bến Quê của Nguyễn Minh Châu khám phá triết lí sâu xa về cuộc sống, giúp chúng ta nhận ra giá trị thực sự của những gì chúng ta đang có. Tác giả phát hiện ra những nỗi day dứt và nuối tiếc của con người trước những gì đã qua. Anh Nhĩ đã hiểu ra rằng quê hương là điều quý báu nhất mà anh từng bỏ lỡ. Anh ân hận vì đã chạy theo danh vọng và bỏ quê hương, và chỉ khi mất sức bệnh, anh mới nhận ra sự quý giá của nó.
Mỗi người đều có một bến quê trong lòng, nhưng không phải ai cũng nhận ra giá trị của nó và biết cách trân trọng khi còn kịp. Nhĩ tiếc nuối khi nhận ra bến quê đó thật đặc biệt và đã truyền cho đứa con trai niềm khao khát ấy. Anh muốn con đi đò qua sông để mua vật gì đó ở kia. Nhưng đứa bé, giống như anh khi còn trẻ, không thể hiểu được tâm tư của cha mình. Thay vào đó, nó chỉ biết chơi đùa và đã lỡ mất chuyến đò cuối cùng trong ngày. Đứa bé không gấp gáp bởi nó còn nhiều thời gian để sống, và với nó, bến sông đó chỉ là điều bình thường. Đứa bé sẽ trở thành cha và như bất kỳ ai, không nhận ra giá trị của những điều có sẵn.
Một người bệnh nặng, không thể đi lại, nhìn qua cửa sổ và thấy bến sông, ông nuối tiếc vì đã bỏ qua quê hương, những điều giản dị và quý giá. Cốt truyện đơn giản nhưng mang đầy những vấn đề nhân sinh. Nhà văn nhắc nhở rằng chúng ta phải trân trọng những gì có và đã có, không nên quá mải mê với hư danh và bỏ qua giá trị của hiện tại. Văn học đã nói về điều này. Truyện Bến Quê của Nguyễn Minh Châu là câu chuyện về sự bừng tỉnh của một người vào những ngày cuối đời. Sự tỉnh táo đó cũng là một lời nhắc nhở đối với những ai đang sống, để họ tiến lên một tương lai mà không mang theo những nuối tiếc của quá khứ.
Cuộc sống không tránh khỏi những tiếc nuối. Nhưng nếu chúng ta quá nuối tiếc hoặc nuối tiếc những điều quý báu mà chúng ta đã mất, thì đó là lúc chúng ta đánh mất quãng đời quý giá.
Cảm nhận về tác phẩm Chiếc Lược Ngà
Trong cuộc sống, có nhiều sự kiện mà không bao giờ quay lại. Nhưng những sự kiện đó lại để lại trong chúng ta những kỷ niệm khó phai. Đọc một tác phẩm cũng như vậy, có những câu chuyện chỉ đọc một lần nhưng lại ấn tượng mãi mãi. Đối với tôi, truyện ngắn Chiếc Lược Ngà của Nguyễn Quang Sáng đã ghi lại những cảm xúc sâu sắc. Đặc biệt là qua đoạn trích về bé Thu và ông Sáu, với tình cảm cha con đầy xúc động.
Trong thời gian kháng chiến, ông Sáu luôn nhớ đến con gái nhỏ của mình, Thu, người lúc đó mới chỉ dưới một tuổi. Dù vợ ông đến thăm và mang theo Thu mỗi khi, nhưng vì chiến trường đầy nguy hiểm, vợ ông không dám đưa Thu tới. Ông chỉ có thể nhìn con qua những tấm ảnh. Khi ông trở về, tình cha con bất chợt trỗi dậy trong lòng ông, ông rất nao núng. Ngay khi xuống thuyền, ông thấy một cô bé khoảng bảy, tám tuổi, và ông biết đó là Thu. Mặc dù chưa kịp cập bến, ông đã nhảy xuống và gọi: 'Thu! con'. Điều này thể hiện tình cảm tự nhiên của một người cha quá xúc động. Chính khoảnh khắc này làm cho tôi cảm thấy như trái tim của người cha đang rộn ràng sung sướng khi gặp con sau bao năm. Nhưng con bé không nhận ra ông, khiến ông thất vọng và bối rối.
Sau đó, ông Sáu cố gắng để Thu nhận ra mình là cha. Ông dành cả ngày ở bên con, nhưng con không chịu. Ông chỉ muốn được gọi là 'ba' một lần. Đó là điều đặc biệt với ông, nhưng cũng rất khó khăn. Mặc dù ông kiên nhẫn nhưng con bé vẫn phản ứng tiêu cực. Một lần, khi ông cố cho Thu ăn trứng cá, nó đẩy ra và ông đã đánh nó. Ông hối hận và cảm thấy tiếc nuối vì hành động đó.
Trong ba ngày ở bên con, ông Sáu cố gắng, nhưng con vẫn không nhận. Khi ông chuẩn bị chia tay, tiếng 'ba' của Thu đã làm tan nát lòng ông. Đó là một khoảnh khắc đầy xót xa, khi tình cảm của Thu dành cho ông cuối cùng được thể hiện ra ngoài sau bao năm. Và giờ đây, nó muốn có ông, khóc vì hạnh phúc, và ôm ông thật chặt. Mặc dù họ phải chia tay, nhưng trong trái tim của họ, họ đã hiểu và yêu thương nhau.
Dù ở chiến trường, anh vẫn giữ được chiếc lược ngà mà anh đã làm ra.
Trong quá trình làm việc, anh cảm thấy hạnh phúc như một đứa trẻ được nhận quà. Anh làm việc tỉ mỉ, thận trọng như một người thợ bạc. Khi hoàn thành chiếc lược, anh cảm thấy hạnh phúc vì đã thực hiện được phần nào trong lời hứa với con. Anh khắc chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” trên chiếc lược. Mỗi đêm, anh nhớ con và lấy lược ra ngắm, chải để lược bóng mượt. Tình cảm của người cha dành cho con đã làm cho tôi xúc động. Khi anh Sáu hy sinh, dù trạng thái cuối cùng, tình cha con vẫn sống và trỗi dậy trong anh. Anh đưa chiếc lược cho Ba và nhấn mạnh: “Hãy đưa chiếc lược này cho Thu”. Đọc tới đây, tôi cảm thấy như mình là người trong câu chuyện, cảm nhận được tình cha con đầy thiêng liêng và cao quý.
Tác phẩm cho thấy tình cha con luôn tồn tại, thậm chí khi sắp phải đối mặt với cái chết. Điều này nhấn mạnh tình phụ tử là một giá trị đáng trân trọng. Tôi muốn nhấn mạnh rằng chúng ta cần phải quý trọng tình cha con vì đó là một tình cảm thiêng liêng.
Cảm nhận về tác phẩm Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
Phạm Đình Hổ nổi tiếng với tác phẩm Vũ trung tùy bút, thể hiện sự tài năng và phong thái thư nhàn cao quý của một người kẻ sĩ Bắc Hà thời Lê - Trịnh và đầu thời Nguyễn.
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một phần nổi bật trong tác phẩm Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ.
Viết theo tùy hứng, theo cảm xúc, tác giả miêu tả cảnh vật và cuộc sống ở triều đình Trịnh Sâm thế kỷ XVIII một cách sống động. Tác phẩm Vũ Trung tùy bút đã chấm phá một cách tỉ mỉ về cuộc sống xa hoa của vua chúa, sự hoạt động thương mại của các quan lại, và sự lãng mạn trong âm nhạc cung đình.
Câu chuyện diễn ra vào thời kỳ hoàng kim của chúa Trịnh Sâm (1774 - 1775), khi mà triều đình sống trong xa hoa và sôi động. Chúa thích đi chơi và ngự ở các khu vực đẹp như Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy. Mỗi tháng, chúa ra chơi cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ và cuộc tiếp đón luôn được tổ chức rất hoành tráng, với sự tham gia của binh lính và các thương nhân.
Triều đình Trịnh Sâm là nơi của sự xa hoa và lãng mạn, nhưng cũng là nơi của sự lạm dụng quyền lực. Những người ở triều đình, từ chúa đến quan lại, đều tham gia vào việc trục lợi và lừa dối dân chúng. Tác giả Phạm Đình Hổ đã mô tả một cách sống động những câu chuyện về cuộc sống trong triều đình này.
Cuộc sống trong triều đình Trịnh Sâm đầy sự hoành tráng và phô trương, nhưng cũng đầy bi kịch và bất hạnh cho dân chúng. Chúa và quan lại ở triều đình sống trong sự xa hoa và tinh thần thỏa mãn, trong khi nhân dân phải gánh chịu nhiều khổ đau và cảnh nghèo khổ. Tác giả đã truyền đạt một cách rõ ràng thông điệp về sự bất công trong xã hội thời đó.
Như một hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống xa hoa và lãng mạn trong triều đình, tác giả sử dụng những bài thơ ngắn để diễn tả. Điều này nhấn mạnh sự đối lập giữa cuộc sống trong triều đình và cuộc sống của người nông dân, những người phải sống trong điều kiện khốn khó và bất công.
Ở đây, Phạm Đình Hổ tỏ ra lo lắng: 'Người người đều biết cuộc sống xa hoa đó sẽ dẫn đến hậu quả thảm khốc.' Năm 1782, khi Trịnh Sâm qua đời, cuộc chiến tranh nổ ra, kinh đô Thăng Long bị phá hủy; năm 1786, Nguyễn Huệ tiến quân vào Bắc Hà, cuộc triều đình của họ Trịnh sụp đổ. Phạm Đình Hổ nhận ra rằng cuộc sống xa hoa không bao giờ kéo dài mãi mãi, và quy luật tự nhiên luôn đề cao sự công bằng.
Thịnh vượng và oán thù, hai điều này luôn đi kèm nhau,
Chẳng có cái gì là bất tử.
Người ta vẫn nói: Không có giá trị nào là không thể mất đi,
Dù là cung điện hay ca viện, cũng có ngày tan tành.
(Tạm dịch từ Văn Chiêu Hồn của Nguyễn Du)
Các quan lại trong triều đình không chỉ tham lam mà còn ranh mãnh. Dân gian chửi rằng: 'Kẻ cướp đêm là giặc, kẻ cướp ngày là quan.' Họ thậm chí còn dùng thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản của dân chúng, từ việc lấy cắp chim hoặc cây cảnh đến việc bắt người innocents vì tội giả mạo và đe dọa. Hành động của họ gây ra sự hỗn loạn và khốn khổ cho người dân.
Gia đình của Phạm Đình Hổ là những người quyền quý thời Lê - Trịnh. Trước sự hiểm họa, mẹ của ông phải cắt hạ cây lê và hai cây lựu trong vườn nhà, biểu hiện của sự phong lưu và xa hoa của triều đình, để tránh khỏi tai họa. Điều này là một minh chứng cho sự thật và sống động của tác phẩm.
Tác giả đã kể một câu chuyện có thật về gia đình ở phường Hà Khẩu để khích lệ lòng tin và chỉ trích sự tham lam, tàn bạo của quan lại thời Lê - Trịnh, phơi bày bản chất hủ tục trong triều đình.
Tác phẩm Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh của Phạm Đình Hổ có ý nghĩa lịch sử sâu sắc, vẽ nên hình ảnh sinh động về cuộc sống xa hoa của các vua chúa, sự cướp bóc, tham lam của quan lại trong triều đình.
Phong cách viết của Phạm Đình Hổ rất tĩnh lặng và sâu sắc. Ông truyền đạt mọi tình cảm, suy tư về con người và xã hội thông qua các chi tiết, tình tiết rõ ràng, chọn lọc, và sâu sắc.
Cảm nhận về tác phẩm Cảnh Khuya
Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh đạo vĩ đại, người cha lớn của dân tộc Việt Nam mà còn là một nhà thơ nổi tiếng.
Đọc bài thơ Cảnh khuya, ta nhận ra tâm hồn thi sĩ và lòng yêu nước của Bác. Ta bị cuốn hút bởi vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc - nơi sinh ra cách mạng. Ta rất ngưỡng mộ, tôn trọng lòng yêu nước cao cả của Bác:
Suối reo như tiếng hát xa
Trăng treo soi bóng cây lúa
Cảnh đêm như hình người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi lo của dân tộc.
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của rừng Việt Bắc hiện lên ngay từ câu thơ đầu tiên:
Suối reo như tiếng hát xa
Trăng treo soi bóng cây lúa
Cảnh thiên nhiên của núi rừng Việt Bắc trở nên thơ mộng hơn, rực rỡ hơn nhờ vào biện pháp so sánh tinh tế và độc đáo:
Âm thanh của suối như tiếng hát xa
Âm thanh mới trong trẻo, du dương, ngân nga không ngừng. Âm “a” cuối câu gợi lên những nốt nhạc của tiếng suối êm đềm, đầy cảm xúc, mang đến cho tâm hồn ta một trạng thái thiết tha, ngọt ngào, và sâu lắng.
Nghệ thuật so sánh cũng tạo ra một vẻ đẹp mới cho bức tranh thơ: Bác biến dòng suối thành âm nhạc, một âm thanh rất tinh khôi, trẻ trung. Tiếng suối như mang hồn của một nghệ sĩ. Bác đứng dưới rừng Việt Bắc nghe tiếng suối, chiêm ngưỡng cảnh thiên nhiên của núi rừng khi đã về khuya. Phải rất mê đắm, hòa mình với thiên nhiên, gần gũi với thiên nhiên, Bác mới nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên như thế. Thiên nhiên là nguồn cảm hứng tạo ra vẻ đẹp trong tâm hồn Bác. Đọc đến đây, dù không phải là nghệ sĩ, không gần gũi với thiên nhiên như Bác, ta cũng cảm nhận được cảm xúc mãnh liệt trong lòng mình. Ta cảm thấy lòng mình bừng cháy, xúc động và ta như thấy dòng suối hiện lên trước mắt ta rực rỡ, huyền ảo.
Nếu tiếng suối khiến cho cảnh vật trở nên yên bình, sâu lắng thì ánh trăng làm cho cảnh vật thêm thơ mộng:
Trăng treo soi bóng cây lúa
Trăng tròn tỏa sáng khắp trần gian. Những tia ánh trăng chiếu xuống lùm cây rậm rạp, như những sợi kim tuyến lấp lánh trên mái tóc bồng bềnh của nàng thiếu nữ. Ánh trăng chiếu qua kẽ lá, tạo ra những đốm trắng nhỏ trên mặt đất như hoa gấm. Trăng, cây cổ thụ, và bóng hoa, mặc dù ở ba tầng khác nhau, nhưng chúng gắn bó, đan xen vào nhau, tạo thêm vẻ đẹp cho nhau. Cảnh vật sống động lên nhờ từ “lồng”. Bức tranh tươi đẹp hòa quyện đan xen khiến con người say mê, ngây ngất.
Mặc dù Bác chỉ mô tả một số chi tiết nhỏ của cảnh rừng Việt Bắc như ánh trăng và tiếng suối, nhưng vẫn để lại trong tâm hồn người đọc một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và tinh tế.
Liệu Bác có thao thức vì cảnh đẹp của thiên nhiên không?
Cảnh khuya như vẻ người chưa ngủ
Biện pháp so sánh này gây ấn tượng mạnh mẽ. Cảnh rừng Việt Bắc như một bức tranh tươi đẹp, hoàn hảo, có trăng, suối, bóng hoa, cây cổ thụ. Mỗi lần so sánh mang đến một vẻ đẹp mới. Cảnh rừng Việt Bắc hiện ra cụ thể hơn, phản ánh tâm hồn yêu thiên nhiên sâu sắc của Bác.
Vì lo nỗi nước nhà nên chưa ngủ
Bác khiến lòng em ngưỡng mộ hơn khi câu thơ đã giải mã lí do Bác không thể ngủ: lo nghĩ về đất nước.
Câu thơ này giúp em hiểu hoàn cảnh của Bác. Có lẽ trong những đêm ấy, Bác thức trắng vì lo lắng cho dân, cho nước. Khi gặp cảnh thiên nhiên tươi đẹp ở rừng Việt Bắc, Bác không chỉ ngắm mà còn viết thơ, trái tim Bác đầy cảm xúc. Điều đó khiến em cảm kích và tôn trọng sâu sắc tâm hồn cao quý của Bác.
Đọc bài thơ, em cảm nhận được tấm lòng của thi sĩ và tinh thần chiến sĩ trong Bác. Sự kết hợp hài hòa giữa tâm hồn thi sĩ và trái tim người lính khiến em kính trọng Bác hơn. Bác không bao giờ quên nhiệm vụ với đất nước và quân đội dù chỉ trong những phút giây thư giãn với thiên nhiên sau những ngày làm việc vất vả.
Cảm nghĩ về tác phẩm Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê
Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương là một bài thơ rất xúc động. Ông viết tác phẩm này sau khi từ chức quan về quê sau mười năm xa cách. Ngôn ngữ chân thành đã diễn đạt được lòng nhớ quê hương sâu sắc, đồng thời mang chút ngậm ngùi, chua xót.
Hạ Tri Chương là một người tài năng, trí thức uyên bác, ông đỗ tiến sĩ và nhiều năm làm quan. Sau khi dâng hiến cho đất nước một thời gian dài, ông quyết định trở về quê hương. Bài thơ thể hiện sự chân thành của ông khi trở về với quê nhà thân yêu. Tâm trạng nhớ nhung là chủ đề chính trong bài thơ, khi ông trở lại thăm quê hương.
Có lẽ tình cảm với quê hương của ông luôn hiện hữu, sâu đậm trong lòng nên ngay từ khi trở về, cảm xúc của ông trào dâng, trở thành những câu thơ cảm động. Hai dòng thơ đầu tiên mô tả cảnh trở về quê:
Thiếu tiểu li gia, lão đại trở về
Khí hương dịu dàng nồng nàn khắp nơi.
Ông chia sẻ cảm xúc của mình, có phần chua xót, ngậm ngùi. Chua xót vì thời gian rời xa quê đã kéo dài quá lâu, suốt cuộc đời làm quan bận rộn, ông chưa bao giờ có thời gian để trở về quê hương. Ông cũng cảm thấy ngậm ngùi vì khi xa quê, tuổi trẻ đã trôi qua, và khi trở lại, tuổi già đã đi kèm, khoảng cách giữa 'li gia' và 'hồi hương' đã trở nên rất lớn. Thậm chí, khi ông cuối cùng được trở về, thời gian dành ở quê cũng không còn nhiều nữa. Điều này đáng được tôn trọng và đồng thời làm đau lòng, ông dành cả đời cho đất nước, nhưng khi có thời gian nghỉ ngơi, tuổi già đã về, và thời gian không còn nhiều.
Tình cảm quê hương của ông rõ nét được thể hiện ở câu thơ thứ hai. Tác giả nhấn mạnh sự liên kết giữa sự thay đổi và sự không thay đổi: dù mái tóc đã bạc phơ nhưng tâm hồn quê hương không bao giờ thay đổi, đó chính là giọng nói. Quê hương đã trở thành phần không thể thiếu, sâu sắc nhất trong tâm trí ông. Thật đáng quý những phẩm chất cao đẹp của Hạ Tri Chương, tình yêu quê hương tha thiết, bền bỉ của ông.
Hai câu thơ tiếp theo mô tả một hoàn cảnh đầy mâu thuẫn, nhưng qua đó lại làm nổi bật hơn về tình yêu quê hương của ông:
Trẻ con gặp người lạ không nhận ra
Những người quen hỏi một cách ngạc nhiên?
Sự hiện diện của những đứa trẻ là một diễn biến thực tế và đầy cảm động. Với tính cách tò mò, chắc chắn khi gặp một người lạ, các em sẽ hỏi về nguồn gốc của họ. Thực tế là khi tác giả trở về, ông đã 86 tuổi, đã rời quê hương, bạn bè suốt nửa thế kỷ, vì vậy không ai có thể nhận ra ông. Hạ Tri Chương phải đối mặt với việc bản thân trở thành người xa lạ trong quê hương của mình. Điều này khiến lòng ông thêm chua xót và tiếc nuối. Mặc dù hai câu thơ cuối cùng có vẻ hài hước và đùa giỡn, nhưng thực tế lại làm đau lòng. Cảm giác chua xót không thể tránh khỏi khi trở thành người lạ ở quê hương của mình. Chỉ một từ 'người lạ' cũng đủ để gợi lên biết bao nỗi buồn, tiếc nuối.
Bài thơ không chỉ lôi cuốn và cảm động qua nội dung mà còn hấp dẫn ở mặt nghệ thuật đặc biệt. Tác giả đã xây dựng một cấu trúc bài thơ độc đáo: hai câu đầu và hai câu sau có sự chuyển đổi ý đồ bất ngờ nhưng tự nhiên và hợp lí. Câu chữ không trực tiếp diễn đạt cảm xúc mà thể hiện qua lối thơ, khiến bài thơ trở nên phong phú hơn. Nghệ thuật đối đáng giữa các thành phần đã được tác giả sử dụng một cách tinh tế. Điều này đã làm nổi bật tình yêu quê hương sâu sắc, chân thành của ông.
Khi gấp lại trang sách, lòng tôi vẫn rưng rức xúc động trước tình yêu quê hương chân thành, sâu sắc mà tác giả đã diễn đạt. Đó là một cảm xúc đẹp đẽ, đáng trân trọng. Đọc xong bài thơ, tôi nhận ra rằng tình yêu quê hương là một trong những tình cảm thiêng liêng, bền vững nhất của con người. Chúng ta cần phải trân trọng, che chở tình yêu quý báu ấy.
Nhận xét về tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ nổi tiếng của ông, “Đoàn thuyền đánh cá”, đã thể hiện một cách rõ ràng hình ảnh hùng vĩ, sự kết hợp hoàn hảo giữa thiên nhiên và con người lao động, thể hiện niềm vui, niềm tự hào của tác giả đối với đất nước.
Tác giả đã khởi đầu bài thơ bằng hình ảnh thiên nhiên và đoàn thuyền khi ra khơi:
“Mặt trời rơi xuống biển như làn lửa
Sóng đã gắn then, đêm buông xuống.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát vang lên cùng gió biển.”
So sánh 'mặt trời rơi xuống biển' với 'hòn lửa' thể hiện màu sắc rực rỡ và hình dạng tròn đầy của mặt trời, khiến ta liên tưởng đến thời gian hoàng hôn. Cũng kèm theo là hình ảnh nhân hóa không gian biển cả như một ngôi nhà rộng lớn, nơi màn đêm là cánh cửa, sóng biển là then cài. Thiên nhiên bắt đầu thời gian nghỉ ngơi, tận hưởng trạng thái bình yên.
Trái lại, đây là thời điểm con người bắt đầu lao động. 'Đoàn thuyền' - không chỉ là một chiếc thuyền mà còn là một đoàn - một nhóm đông đảo cùng nhau ra khơi làm việc. Việc viết 'lại ra khơi' cho thấy công việc đã trở nên quen thuộc với họ. Đặc biệt, hình ảnh 'câu hát căng buồm' thể hiện hình ảnh người lao động cùng hát vang, tạo ra một sức mạnh giống như gió thúc đẩy con thuyền đi.
Đến khổ thơ tiếp theo, Huy Cận đã mô tả rõ hình ảnh của người đi biển:
“Hát vang: cá bạc biển Đông yên bình,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi,
Đêm ngày dệt biển với muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới đi, đoàn cá ơi!”
Câu hát của những người đi biển không chỉ thể hiện tinh thần lạc quan, không khí náo nhiệt mà còn thể hiện ước mơ của họ. Công việc đánh cá khó khăn nên họ mong ước trời yên, biển lặng và gặp được nhiều cá để có thể bắt được nhiều hơn. Các so sánh và nhân hóa đã tạo ra một cảm giác thú vị về người lao động.
Tiếp theo, nhà thơ miêu tả khung cảnh đánh cá:
“Con thuyền ta lái gió với buồm trăng,
Điều khiển lướt qua mây cao với biển rộng,
Ra đậu dặm xa tìm bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”
Toàn bộ khổ thơ như một bức tranh lung linh. Những hình ảnh: gió, trăng, mây tạo ra một bức tranh rực rỡ bằng ngôn ngữ. Đặc biệt là hình ảnh “con thuyền lái gió với buồm trăng” vừa thực tế vừa lãng mạn. Thiên nhiên cũng đóng góp cho công việc của ngư dân. Nghệ thuật phóng đại “lướt qua mây cao với biển rộng” tạo ra hình ảnh con thuyền như một tấm ván lớn đang trôi trên không gian rộng lớn như vũ trụ. Công việc đánh cá diễn ra vào đêm tối: “Ra đậu dặm xa tìm bụng biển” - dù trong bóng tối, ngư dân vẫn làm việc chăm chỉ. Đánh cá cũng giống như chiến đấu, con người phải sử dụng trí tuệ để đánh bại thiên nhiên. Đó mới là tinh thần lạc quan, nhiệt huyết của con người.
Nhà thơ dành một khổ thơ riêng để mô tả sự phong phú của biển cả:
“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh như đuốc đen hồng,
Cái đuôi quẫy trên nền trăng vàng,
Đêm nay: sao lấp lánh trên nước Hạ Long”
Biện pháp tu từ liệt kê được sử dụng rất triệt để, một loạt tên gọi của các loài cá quý hiếm của biển cả được liệt kê ra: cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song. Hình ảnh “lấp lánh đuốc đen hồng” gợi lên màu sắc của loài cá song. Đặc biệt là cách miêu tả “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” thật lãng mạn. Người đọc có thể tưởng tượng được rằng ánh trăng phản chiếu dưới mặt biển, những con cá quẫy đuôi làm sóng sánh ánh trăng vàng. Trước sự giàu có đó, ta còn nghe thấy âm thanh của biển cả: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long” - màn đêm giống như một sinh mệnh, có sự sống. Thế mới thấy, Huy Cận phải là người có lòng yêu đối với biển như thế nào mới có được những câu thơ tinh tế như vậy?
Nếu mở đầu bài thơ là tiếng hát căng buồm khi ra khơi thì ở đây là khúc ca gọi cá vào. Tiếng hát vang lên trong những giờ lao động xua đi những mệt mỏi. Công việc lao động nặng nhọc bỗng trở nên vui tươi hơn nhờ lời ca, tiếng hát:
“Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”
Biển trong khổ thơ được nhà thơ miêu tả với sự bao dung từ đó thể hiện tấm lòng biết ơn dành cho biển cả: “biển cho ta cá như lòng mẹ” - biển êm đềm, nuôi lớn biết bao người dân miền biển.
Cuối cùng sau một đêm lao động mệt nhọc, họ cũng đã thu được những thành quả xứng đáng:
“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”
Khi kéo lưới cũng là lúc trời vừa hửng sáng - lao động suốt đêm nhưng vẫn không biết mệt mỏi. Hình ảnh “tay kéo xoăn tay chùm cá nặng” cho thấy đó là những cánh tay khỏe mạnh đang kéo những chiếc lưới đầy cá - thành quả lao động của người dân chài. Đặc biệt là hình ảnh những con cá trên khoang thuyền được miêu tả thật đẹp: “Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”, khi công việc thu hoạch cá vừa xong cũng là lúc vừa rạng đông.
Bài thơ kết thúc lại bằng hình ảnh đoàn thuyền đánh cá trên hành trình trở về:
“Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”
Câu hát luôn được cất vang từ lúc ra khơi cho đến lúc trở về. Những câu hát đã thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi. Cảnh bình minh được miêu tả với những nét đẹp tuyệt diệu. Con thuyền trở về với một tâm thế khẩn trương: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”. Nó đã phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng đồng thời cũng hàm ý nói lên khí thế đi lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước. Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng.
Bài ca lao động “Đoàn thuyền đánh cá” truyền tải một tinh thần hùng hồn và phấn khởi. Khi đọc, ta cảm nhận được vẻ đẹp của tự nhiên, của biển cả, cũng như tinh thần làm việc chăm chỉ, đam mê sống của người lao động. Họ đã được giải phóng, tự do làm chủ cuộc sống và đất nước.