Nhận thức về đoạn trích Nỗi thương mình đầy cảm xúc dưới đây được viết rất sinh động với phong cách văn rõ ràng, dễ hiểu có thể tự học để mở rộng, nâng cao kiến thức, giúp các em học sinh hiểu sâu hơn về môn Ngữ văn và chuẩn bị tốt hơn cho bài kiểm tra.
Nhận thức về Nỗi thương mình bao gồm 4 mẫu bài văn cực hay kèm theo hướng dẫn chi tiết. Qua việc nhận thức về Nỗi thương mình, các bạn học sinh có thể lựa chọn cách tiếp cận, một phong cách văn phù hợp, để kiến thức này trở thành sự sở hữu quý báu của bản thân.
Dàn ý nhận thức về Nỗi thương mình
A. Bắt đầu bài viết
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du, tác phẩm “Truyện Kiều” và vị trí của đoạn trích “Nỗi thương mình”.
- Đánh giá tổng quan về đoạn trích “Nỗi thương mình”.
B. Nội dung
- Vị trí của đoạn trích “Nỗi thương mình”
- Đoạn trích “Nỗi thương mình” từ câu 1229 đến câu 1248 trong Truyện Kiều mô tả tâm trạng đau đớn, tủi nhục, cô đơn, nỗi buồn và nhận thức về số phận bất hạnh của Thúy Kiều khi bị buộc phải làm kĩ nữ tiếp khách ở lầu xanh.
- Nội dung: Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ sống động để mô tả cảnh đời, tâm trạng của Thúy Kiều khi bị ép làm kĩ nữ tiếp khách. Ông miêu tả một cách sinh động cuộc sống ở lầu xanh thông qua những hình ảnh tượng trưng:
Bao bướm lượn về nơi cỏ cây,
Rượu say dẫm chân bướm cười hí.
Nghe tiếng gió khe khe hát cành,
Sáng đưa Tống Ngọc, tối gặp Trường Khanh.
- Tác giả đã sâu sắc đi vào tâm trí của người đọc, để nổi lên nỗi đau, nỗi thương của Thúy Kiều một cách rõ ràng và xúc động. Đó thực sự là điều cảm động cho người đọc.
- Chỉ trong 4 câu thơ đầu, tác giả đã vẽ nên một bức tranh sống động về cuộc sống buồn tủi trong lầu xanh, và cũng lồng ghép vào đó những nỗi đau trong tâm hồn của một cô gái thông minh phải trở thành kĩ nữ.
=> Nguyễn Du đã chân thành cảm thấy đau đớn cho Thúy Kiều khi nàng bị đẩy vào hoàn cảnh khốn khó, nơi nhân phẩm bị phá hủy, nhưng cũng chính trong cảnh khốn khó đó
- Có thể nói rằng Thúy Kiều đã thực sự hiểu biết về phẩm chất cao quý của bản thân.
- Thúy Kiều là biểu tượng của vẻ đẹp và đức hạnh. Nguyễn Du đã tạo dựng nên hình ảnh lý tưởng của sự hiền lành và đẹp đẽ trong Thúy Kiều. Khi gặp phải những tình huống đau khổ không tưởng, nàng đã cố gắng hết mình để thoát ra, nhưng mọi nỗ lực đều trở nên vô ích. Nỗi đau 'trần thế' của một người có phẩm cách cao quý như Thúy Kiều dường như càng trở nên đau đớn hơn.
=> Dường như Nguyễn Du đã truyền đạt một cách chân thành và chân tình nỗi đau sâu sắc, nỗi tủi hổ của Thúy Kiều khi phải đối diện với chính bản thân mình:
- Sống trong cảnh cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm chỉ khi tỉnh dậy sau say, lúc tàn canh Kiều mới có những khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với bản thân. Khi khách làng chơi đã ra về, chỉ còn bóng tối, đêm rất khuya, Kiều đối diện một mình với ánh đèn lờ mờ.
- Đến câu thứ hai, nhịp thơ chuyển sang 2/2/2/2: giật mình / mình lại / thương mình / xót xa. Hai chữ giật mình kết hợp với cách ngắt nhịp đột ngột dường như diễn tả tâm trạng thảng thốt đau thương buồn tủi của Thúy Kiều.
=> Thúy Kiều đã cảm thấy sự giật mình và nỗi sợ hãi trước sự thay đổi khủng khiếp của số phận và cảm xúc tuyệt vọng của mình lúc này.
- Nỗi thương mình có thể nói là cảm xúc chủ đạo trong đoạn trích.
- Thúy Kiều đã phải rời xa cha mẹ, tổ ấm hạnh phúc để bước lên cỗ xe định mệnh: vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh, lao đi trên con đường mịt mù, không biết đi về đâu.
- Thúy Kiều cảm thấy đắng cay khi nhớ lại sự tương phản kinh hoàng giữa quá khứ hạnh phúc và hiện tại u tối, thê lương:
- Nàng nhớ về cuộc sống xa hoa, lịch sự ở nhà cùng cha mẹ trước khi gặp tai họa và thương tiếc bản thân mình vì bị hủy hoại tan tác như hoa giữa đường.
- Sự khác biệt giữa quá khứ và hiện tại làm cho nỗi đau của Kiều trở nên rõ ràng. Quá khứ tươi đẹp chỉ được nhắc đến qua một câu: Khi sao phong gấm rủ là, trong khi hiện tại u ám lại được nhấn mạnh trong nhiều câu thơ.
- Tác giả mô tả tâm trạng của Kiều ở lầu xanh:
Mưa rơi phủ đỉnh Sở, mây che khuất núi Tần,
Những người tự do thì hưởng xuân tươi đẹp ra sao.
Gió thổi làm hoa gầy guộc, cây đưa,
Nửa rèm che đậy bốn phía, trăng mặt sáng.
- Trong cảnh vật có đủ phong cảnh, hoa lá, tuyết rơi, trăng sáng, đều là biểu tượng cho vẻ đẹp của bốn mùa: xuân có hoa; hè có gió; thu có trăng; đông có tuyết. Tuy nhiên, trước những cảnh đẹp ấy, Kiều thấy lạnh lùng, thờ ơ vì nỗi đau đã làm cho trái tim nàng cảm thấy lạnh giá.
- Ở lầu xanh, mặc dù có đủ các loại vui chơi như cầm, kì, thi, họa, nhưng với Kiều thì cảnh vật, con người và những niềm vui ấy bây giờ đều trở nên vô nghĩa.
- Dường như nỗi đau từ trái tim con người đã lan tỏa ra cả cảnh vật:
Mọi cảnh vật đều ẩn sâu nỗi buồn
Người buồn thì cảnh vật cũng trở nên u tối.
=> Bằng sự thông cảm chân thành và bằng tài năng đặc biệt của mình, Nguyễn Du đã viết ra hai câu thơ xuất sắc nhất về mối liên hệ tương đồng giữa cảnh vật và tâm trạng, giữa cảnh vật và tình cảm trong văn học Việt Nam.
- Đoạn trích Nỗi thương mình chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về quá trình tự nhận thức của nhân vật trong văn học trung đại.
- Phụ nữ thời xưa thường được giáo dục theo tinh thần kiên nhẫn, chịu đựng và nhẫn nhục. Khi nhân vật giật mình và thương xót bản thân, điều này đã bao gồm ý nghĩa của sự 'cách mạng'. Con người không chỉ hi sinh, kiên nhẫn, chịu đựng mà còn có ý thức về phẩm giá, nhân cách, tức là ý thức về quyền sống của bản thân.
- Thương thân, xót xa là một hiện tượng phổ biến trong thơ văn thế kỉ XVIII. Không thể yêu thương sâu sắc, chân thành đối với người khác nếu không có ý thức về bản thân, không biết thương yêu chính bản thân mình.
- Phần đoạn trích Nỗi thương mình đã làm nổi bật phẩm giá cao quý, trong sạch của Thúy Kiều.
+ Không tránh né khỏi sự hiện thực đau đớn, và đã ca ngợi nhân cách của Kiều, phẩm giá của Kiều bằng cách thành công thể hiện nỗi đau thương, lòng day dứt, lòng chán chường của nàng giữa chốn lầu xanh.
C. Kết bài
- Khẳng định về tài năng của tác giả Nguyễn Du cũng như tầm ảnh hưởng của tác phẩm “Truyện Kiều”
- Qua đoạn trích có thể hiểu được tâm trạng chán chường, buồn thương và tuyệt vọng của Thúy Kiều, nàng như đã tự ý thức được phẩm giá của mình bị vùi lấp, cho nên càng thương mình hơn.
Cảm nhận về bài Nỗi thương mình - Mẫu 1
Nguyễn Du là một trong những nhà thơ đặc biệt, góp phần quan trọng vào văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm nổi bật. Trong số các tác phẩm của ông, “Truyện Kiều” được coi là kiệt tác, là điểm cao của văn học với nhiều điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật. Khi đọc “Truyện Kiều”, bạn không thể nào quên được hình ảnh Thúy Kiều với bao nỗi đau đớn, xót xa, nỗi thương thân khi phải sống trong chốn lầu xanh và đoạn trích “Nỗi thương mình” đã thể hiện điều đó một cách rõ ràng.
Phần đoạn trích đã sử dụng bút pháp ước lệ, tượng trưng, một cách rõ ràng đã mô tả cuộc sống của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh.
Chỉ với bốn câu thơ, nhưng bằng cách sử dụng tài tình hình ảnh ước lệ giàu sức gợi “bướm”, “ong”, “cuộc vui”, “trận cười” cùng việc sử dụng Tống Ngọc, Trường Khanh như một điển cố điển tích, tác giả Nguyễn Du đã mô tả một cách rõ ràng, chân thực và sinh động bức tranh về cuộc sống ở chốn lầu xanh. Đó là một cuộc sống nhơ nhớp, buông thả, ăn chơi trác tán. Ở nơi đó, những cô kỹ nữ như Thúy Kiều ngày đêm phải tiếp khách, trở thành món hàng, trở thành thứ đồ vui cho những vị khách phong lưu. Đặt nhân vật vào cuộc sống nhơ nhớp chốn lầu xanh, tác giả Nguyễn Du không chỉ cảm nhận nỗi đau đớn, ê chề của Kiều mà hơn thế nữa trong chính hoàn cảnh đó, Thúy Kiều càng bộc lộ rõ những phẩm chất, nhân cách tốt đẹp của mình.
Giữa chốn lầu xanh với những ồn ào, vội vã tấp nập, trong khoảnh khắc hiếm hoi của đêm vắng, “khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” chính là khoảnh khắc Kiều có thể đối diện với chính mình, với bao nỗi niềm suy tư, trăn trở và nỗi đau đớn trong lòng cô. Thúy Kiều tự độc thoại với chính mình, để rồi trong cô hiện lên nỗi thương mình và sự xót xa cho số phận của mình.
Giật mình, thương mình, xót xa.
Đến đây, nhịp thơ đã thay đổi, ngắt nhịp 2/2/2 đầy đột ngột như muốn diễn tả rõ hơn tâm trạng của Thúy Kiều. Hai từ “giật mình” được đặt ở đầu câu như chính sự bàng hoàng, thảng thốt của Thúy Kiều về cuộc sống thực tại của mình. Đằng sau cái “giật mình” ấy là lúc Thúy Kiều cảm thấy thương, cảm thấy xót xa, đau đớn cho bản thân. Ba từ “mình” được lặp lại trong cùng một câu thơ đã cho thấy nỗi cô đơn đến tột cùng của Kiều trong những năm tháng sống ở chốn thanh lâu. Thúy Kiều đã giật mình, đã thương, đã xót xa cho chính mình trước thực tại. Và cái giật mình đầy bất ngờ ấy của Thúy Kiều chính là biểu hiện của sự tự ý thức về thân phận của nàng. Thương cho chính mình, đó cũng là lúc Kiều nhận ra sự đổi thay giữa quá khứ và hiện tại.
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nếu quá khứ với Thúy Kiều là những ngày “phong gấm rủ là”, êm ấm, hạnh phúc bên gia đình, cha mẹ thì hiện tại với Thúy Kiều thật phũ phàng. Tác giả đã sử dụng hàng loạt hình ảnh “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để tái hiện lại thực tại cuộc sống của Thúy Kiều. Không còn là Thúy Kiều với dáng vẻ e ấp, thẹn thùng với sự trong trắng nữa mà giờ đây nàng trở thành món hàng, trở thành đồ vật mua vui, bị chà đạp một cách phũ phàng và tàn nhẫn. Thêm vào đó, tác giả còn sử dụng hàng loạt từ như “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” như một lần nữa nhấn mạnh nỗi đau đớn đến tột cùng, sự chán chường, mệt mỏi, ghê sợ chính bản thân mình khi bị đẩy vào chốn lầu xanh. Không chỉ nhận thức rõ hoàn cảnh, số phận của mình ở quá khứ và hiện tại, Kiều còn nhận ra sự đối lập giữa ta và người.
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì
Hai câu thơ đã thể hiện thái độ quyết định của Thúy Kiều, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ đối với những vị khách lang thang. Nhưng với chính bản thân mình, Kiều vẫn sống trong cảm giác cô đơn. Từ “xuân” trong câu thơ không chỉ là tuổi trẻ, là sắc đẹp mà còn là tình yêu, là hạnh phúc của một cuộc sống đôi lứa. Nhưng giờ đây, trong cuộc sống hiện tại của mình, những điều đó với Kiều là những điều xa xôi, không thể nào tưởng tượng được, và trong tâm trí nàng chỉ còn lại nỗi buồn, nỗi cô đơn và tủi nhục.
Trước hiện thực của cuộc sống ở lầu xanh, Thúy Kiều cố gắng tách mình ra khỏi thực tại để giữ lại phẩm giá và nhân cách cho bản thân mình.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu tho
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa.
Ở lầu xanh, cảnh vật phản ánh đầy đủ nét đặc trưng của thiên nhiên qua các mùa: mùa xuân có hoa, mùa hè có gió, mùa thu có ánh trăng vàng, mùa đông có tuyết trắng. Nơi này cũng có đủ các thú vui như cầm, kỳ, thi, họa - những thú vui trong cuộc sống con người. Tuy nhiên, Thúy Kiều nhận ra rằng sự thanh cao, tao nhã, đẹp đẽ đó chỉ là bề ngoài, bên trong là sự nhơ nhớp, những thú vui phù phiếm để giết thời gian. Nhận thức điều đó, Kiều cảm thấy cô đơn và tủi nhục hơn, và nỗi buồn của nàng đã lan tỏa sang cảnh vật. Trong tâm trạng của mình, Kiều đối diện với sự đối lập giữa cái bề ngoài - cố vui vẻ để chiều lòng khách, nhưng bên trong lại là nỗi buồn thương không thể diễn tả hết.
Vui là vui gượng, buồn là buồn thật
Chân tình sẽ hòa mình với ai.
Tâm trạng dứt khoát, sự chán chường và nỗi đau đớn của Kiều là biểu hiện rõ nét cho ý thức về nhân phẩm của nàng và cũng là minh chứng cho tâm hồn cao thượng, trong sáng của Thúy Kiều.
Đọc những câu thơ trong đoạn trích “Nỗi thương mình” của Đại thi hào Nguyễn Du, người đọc như càng cảm thấy nỗi xót thương cho số phận và sự đau đớn của Thúy Kiều khi phải sống giữa chốn lầu xanh. Nhưng đồng thời, đoạn trích cũng đã thể hiện sự nhận thức cao độ về nhân cách của Thúy Kiều.
Cảm nhận Nỗi thương mình - Mẫu 2
'Nỗi thương mình' của Nguyễn Du là một đoạn trích thể hiện rõ tài năng sử dụng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ. Nó thể hiện tâm trạng đau đớn, tủi nhục, cô đơn, thương thân trách nhiệm và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
Nguyễn Du (1765 – 1820) quê ở Thăng Long, tên tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên. Ông sinh ra trong một gia đình quý tộc và sống trong xã hội phong kiến – một xã hội thối nát, suy thoái. Điều này giúp ông hiểu biết về lối sống xa hoa của giới quý tộc phong kiến và có điều kiện nghiên cứu kinh sử. Nhờ tiếp thu truyền thống học tập và sáng tác của gia đình, ông có vốn kiến thức Nho học uyên thâm, lối sống tao nhã, giúp ông hiểu rõ về tầng lớp phong kiến. 'Truyện Kiều' hay còn gọi là 'Đoạn Trường Tân Thanh' là một trong những tác phẩm quan trọng của ông. Bên cạnh đó, 'Nỗi Thương Mình' là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt là tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích chỉ có hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, thể hiện tâm trạng đau đớn, tủi nhục, cô đơn, thương thân trách nhiệm và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
Từ khi gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc. Trong 15 năm đó, Kiều gặp bao nhiêu sự lừa dối, nhưng lần Kiều cảm thấy đau đớn nhất chính là khi bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Đó là bước ngoặt làm thay đổi cuộc đời Kiều. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều suýt tự tử nhưng không thể. Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại bị Sở Khanh bắt lừa, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp sau đó là những ngày tháng ê chề, nhục nhã của Kiều trong vai trò kĩ nữ, phục vụ cho những kẻ háo sắc, lăng nhăng. Những ngày Kiều sống ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời khi nhớ về thân phận và sự tủi nhục của cuộc đời. Đoạn trích có một cấu trúc khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đời đầy bất hạnh, khi nghe những lời nói nội tâm đau đớn: “Khi tỉnh rượu ... xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối tiếp, hỗn độn. Kiều nghĩ đến bản thân mình, rồi “lại thương mình xót xa.” Kiều xót xa cho chính mình. Với nàng, hiện tại như một cơn ác mộng khi nàng so sánh với quá khứ.
Mở đầu đoạn trích “Nỗi Thương Mình” là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải chịu đựng trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã mô tả sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng ngôn từ ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh, Kiều phải phục vụ khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ hay đếm được. Hàng ngày, Kiều tiếp khách triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm”. Những từ ngữ này đã cho thấy sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh, nơi mà Tú Bà làm chủ. Bằng những hình ảnh ẩn dụ như “bướm lả ong lơi”, “cuộc say đầy tháng”, “trận cười suốt đêm” và các điển tích như “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” – chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu, Nguyễn Du đã thể hiện rõ tình cảnh của Thúy Kiều, dù sống trong cảnh lầu xanh nhưng nàng không được thanh tao, phong nhã nhưng thực ra đó chỉ là giả tạo. Hằng ngày, Kiều phải làm công việc nhơ nhuốc, phục vụ khách mua vui. Điều này làm cho thấy rõ nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. Bằng ngôn từ ước lệ, Nguyễn Du đã không tránh né số phận thực tế của Thúy Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Từ đó, ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.
Nguyễn Du đã tái hiện hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt của Thúy Kiều - một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do đó, ở bốn câu thơ đầu tiên, mặc dù chưa được mô tả trực tiếp, người đọc vẫn cảm nhận được rằng Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua hé lộ thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng về cuộc sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thực của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra tình thế tâm trạng. Trong lầu xanh, có nhiều kỹ nữ, họ coi việc làm của mình là điều bình thường, nhưng trớ trêu thay, Kiều lại có một nhân phẩm quá cao đẹp, một tâm hồn trong trắng. Một bông hoa từ cảnh sống 'êm đềm trướng rủ màn che' bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ. Hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép buộc và đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Ở lầu xanh đầy 'cuộc sau, trận cười', chỉ 'khi tỉnh rượu, lúc tàn canh', Kiều mới có một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình. Đó cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất, đối mặt trực diện với bản thân mình. Thời gian và không gian trở nên vắng lặng, gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ đã thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ 'giật mình' kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Thúy Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phũ phàng và trơ trọi, chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn về số phận bi thương, đoạn trường của mình. 'Giật mình' không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột từ môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong, nếu không có, Kiều cũng giống như tất cả các kỹ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà không thể chống đỡ. Điệp từ “mình' lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc.
Đối với hai câu trên, với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều, những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, những kỷ niệm tươi sáng và đập thực tại tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”
Một cô gái xinh đẹp, tài năng, hiền lành và trang nhã. Một cô gái từ gia đình nhà nho giờ đây trở thành một bông hoa tan tác. Sự biến đổi nhanh chóng khiến cho chính Kiều cũng phải ngạc nhiên, kinh ngạc. Sự đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu trong đoạn trích này, nhất là trong hai câu này, càng làm tăng giá trị biểu cảm. Nó tạo ra sự so sánh đối lập giữa hai giai đoạn cuộc đời, hai thời điểm, hai cảm xúc. Cặp từ đối lập chỉ về thời gian: 'Khi sao / giờ sao' tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảnh khắc không lâu. Điều này làm cho vết thương của Kiều càng đau đớn, nhức nhối hơn, thêm vào nỗi xót xa, tê tái trong tâm hồn Kiều.
Quá khứ hiện lên đối lập với hiện tại một cách gay gắt, khi Kiều nhớ lại những tháng ngày 'êm đềm trướng rủ màn che', thì thực tại khắc nghiệt hiện ra rõ ràng hơn nhiều, từ 'phong gấm' mô tả sự yên bình, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với 'tan tác' trong câu thơ diễn tả hiện tại như một thực trạng khắc nghiệt, phủ chất phức tạp lên quá khứ êm đẹp. Phép so sánh 'như hoa giữa đường' đặc biệt nhấn mạnh sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và hiện tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ 'bướm chán ong chường' và 'dày gió dạn sương' là sáng tạo về từ ngữ của Nguyễn Du, nhấn mạnh sự so sánh theo mức độ tăng lên, cho ta thấy sự đè bẹp, vùi dập mà Kiều phải chịu đựng. Các câu hỏi tu từ ở đây mà Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, nỗi buồn của Kiều trước thực tại khắc nghiệt, tàn nhẫn.
Hai câu thơ day dứt như một tiếng thở dài tuyệt vọng của một cô gái tài sắc hơn người, khao khát hạnh phúc nhưng bây giờ đã chán ngấy tất cả:
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”
Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả, và Kiều cũng thế. Sự đối lập giữa người – khách làng chơi (số nhiều) với chính mình – Kiều (số ít) như thể hiện tới cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ 'xuân' ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi, nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ của mọi người thì còn có mùa xuân là gì, chỉ thấy sự nhục nhã, cô đơn, lẻ loi và trơ trọi của cuộc sống người kỹ nữ. Từ 'mặc' ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn đến thì đến, dằn vặt nặng nề, giam cầm của Thúy Kiều nhưng không làm sao thay đổi được.
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện ra trước mắt, phong cảnh tự nhiên toát lên đầy đủ: phong cảnh, hoa lá, tuyết trắng, ánh trăng sáng long lanh, cảnh đẹp của bốn mùa hội tụ ở đây. Gió xuân vi vu, hoa nở rộ mùi thơm ngát, trăng thu sáng ngời, tuyết phủ kín, tất cả như thể hiện trong một bức tranh sinh động, đầy màu sắc, âm thanh trong lầu xanh. Có đủ các thú vui của con người: cầm, kì, thi, họa càng làm cho bức tranh trở nên sôi động, sống động hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, mặc dù thể hiện những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, thơ văn lại trở nên châm chọc, mỉa mai, đắng cay. Bởi vì dù che đậy khéo léo đến đâu, cũng không thể che giấu được bản chất nhơ nhuốc, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ cũng lồng vào đó tâm trạng của Kiều: Kiều phải phân chia mình thành hai phần: một phần là con người bề ngoài vui vẻ, giả tạo và một phần là con người thực sự, sống để xót xa mỗi khi đêm đến.
Không gian không vui vẻ bởi lòng người đau thương nặng trĩu. Khi gió thổi nhẹ nhàng, khi cầm cờ thi họa, lúc nào nỗi đau cũng đầy trong lòng Kiều. Ý thức về phẩm hạnh mỗi khi hiện hình lại bị xao lạc, khiến nàng không thể ngừng xót xa, nhục nhã về số phận của mình. Hai từ “đòi phen” được lặp lại nhiều lần trong tám câu thơ làm nổi bật hơn nỗi đau luôn hiện diện, không bao giờ rời bỏ Kiều. Nỗi đau của Kiều lan tỏa đến cảnh vật:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Với sự hiểu biết kỳ lạ và tài năng tuyệt vời, Nguyễn Du đã sáng tạo ra hai câu thơ xuất sắc nhất giữa cảnh vật và tâm trạng, giữa cảnh và tình. Từ một tình huống cụ thể, thơ Nguyễn Du đã nâng lên tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời đại. Có thể nói hai câu thơ là điểm cao nhất của đoạn trích vì nó diễn đạt sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật, từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách tự nhiên và hợp lí nhất. Nỗi buồn của Thúy Kiều dâng trào, như sóng cồn triền miên không ngừng, nó khuấy động sâu thẳm bên trong con người Kiều, và rồi, tới một ngày, như một dòng nước tràn bờ, nó cuồn cuộn dâng lên, xâm chiếm nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua con mắt của nàng đều trở nên ảm đạm, tăm tối, chấm dứt bởi màu tang thương.
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Hai câu thơ cuối là tâm trạng chân thành của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà Thanh Tâm tài nhân không thể đạt được. Từ “vui gượng” nói lên sự lạc lõng, cô đơn cũng như sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi thảm như thế. Giữa chốn lầu xanh mà tiền bạc trở nên quan trọng, có bao nhiêu kẻ đến rồi đi, cái còn lại cuối cùng với Kiều chỉ là sự rời bỏ, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn. Thế nhưng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ rõ ràng lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều, tràn đầy lòng tự trọng, quan trọng hơn là muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.
Đoạn trích Nỗi Thương Mình thể hiện một cách hoàn hảo số phận, tính cách của Thúy Kiều. Nó tập trung vào tư tưởng nhân văn của tác giả: sự thương cảm trước bi kịch của Kiều, khẳng định nhân cách tốt đẹp của nàng và sự nhận thức về nhân phẩm và ý thức cá nhân. Bằng cách này, Nguyễn Du đã thể hiện nỗi thương mình của Thúy Kiều cũng như nghệ thuật miêu tả tâm trạng nội tâm của nhân vật một cách sâu sắc, sử dụng ngôn từ rõ ràng, lời tác giả và nhân vật hòa quyện vào nhau, tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả, nhân vật và người đọc.
Cảm nhận về Nỗi Thương Mình - Mẫu 3
Đây là đoạn thơ mô tả tâm trạng đau đớn, cô đơn của Thúy Kiều sau khi bị buộc phải trở thành kỹ nữ, phục vụ khách ở lầu xanh. Khi biết mình bị bán vào nhà chứa, Kiều đã cố tự tử, nhưng không thành công. Nàng cố gắng bỏ trốn cùng Sở Khanh nhưng lại bị Sở Khanh lừa, bị Tú Bà bắt lại, bị đánh đập tàn nhẫn, và cuối cùng buộc phải tiếp tục phục vụ khách.
Kiều là một cô gái xinh đẹp, vì vậy nàng phải tiếp khách không ngừng, gần như là không có điểm dừng.
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Trường Khanh”.
Một không khí rất sôi động, ồn ào đang tràn ngập tại lầu xanh. Nhưng điều đó chỉ là bề ngoài, nó hoàn toàn trái ngược với những nỗi lòng tê tái của nhân vật bên trong. Nguyễn Du khéo léo tận dụng các tương phản để miêu tả nỗi lòng, giỏi phân tích sự khác biệt giữa bề ngoài và bên trong. Chỉ khi hiểu được nỗi đau trong tâm hồn, người ta mới hiểu được giá trị của Kiều.
Toàn bộ đoạn thơ này tác giả không miêu tả cảm xúc của Thúy Kiều trong một thời điểm cụ thể, một buổi cụ thể, một ngày cụ thể, mà miêu tả một tâm trạng triền miên trong chuỗi ngày tiếp khách không ngừng nghỉ. Thời gian trôi đi chỉ là sự chồng chất và kéo dài. Khi cuộc sống trở nên vô nghĩa, người ta tính ngày tháng ra sao? Nỗi thương mình của Kiều hiện lên những khi yên lặng, những lúc xong việc nàng đối mặt với chính mình. Đó là nỗi đau thầm kín đằng sau những hoạt động tiếp khách ồn ào, sôi động. Ở đây, sự miêu tả kết hợp với cách kể chuyện tự nhiên. Tác giả lần lượt kể và tả những nỗi thương mình.
Thứ nhất là nỗi thương thân, xót thân, tiếc thân:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?”
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân!
Mặc người mưa Sở, mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gỉ?”
Hai tiếng “giật mình” rất hay, nó nói lên cái thần của con người những lúc ngẫm lại những thay đổi quá lớn của cuộc đời. Ba chữ “mình” trong một câu nói lên sự cùng cực cô đơn: mụ chủ chỉ biết tiền, khách chơi chỉ biết sắc, gia đình ở xa, không ai biết là Kiều bị lừa, chẳng ai biết cho đời một người con gái tan nát! Nổi lên trên hết là sự nuối tiếc một phẩm giá bị chà đạp. Hình ảnh “phong gấm rủ là” nói lên hình ảnh của tấm thân vàng ngọc, được khoác gấm, rủ bức là, tức tấm thần bọc trong nhung lụa, quý báu, thế mà nay như hoa giữa đường, ai qua lại cũng có thể xéo lên tàn nhẫn!”
Thứ hai là nàng ghê tởm chính bản thân mình: con người khuê các vốn kín đáo, e thẹn, nay đã thành mặt dạn mày dày “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”. “Bướm chán ong chường” không phải là nói khách chơi chán chường Kiều, mà nói chính Kiều chán chường bản thân mình, sao mình lại trở thành con người tiếp khách trơ trẽn, vô liêm sỉ như thế được? Từ đây Kiều chỉ sống như một món hàng, một thứ đồ chơi, không sống như một con người nữa. Nhiều sách chép câu “Những mình nào biết có xuân là gì” thành “Riêng mình nào biết có xuân là gì”. Chữ “những” có lẽ đứng hơn, hợp hơn. Đó là “những mình”, như loại mình... bao hàm cái ý chán mình ở trong ấy.”
Thứ ba là nỗi buồn và bẽ bàng:
“Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu”.
Cảnh tượng nhìn qua quả là rất nên thơ, mà lòng nàng lại ủ dột:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”
Cảnh quả là vui thú, tao nhã, phong lưu, nhưng đối với Kiều chỉ là vui gượng: “Ai tri âm đó, mặn mà với ai?”. Đó chẳng qua là các trò chơi để giết thì giờ không có ý nghĩa gì cả.
Thứ tư là sự cô đơn, đau đớn một mình, câu này tuy không có trong đoạn trích nhưng rất có ý nghĩa:
“Thờ ơ gió trúc mưa mai,
Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân”.
Những nỗi lòng thương thân, xót thân, chán mình, buồn khổ cô đơn, vui gượng gạo như thế đã chứng tỏ mạnh mẽ Kiều là một con người có phẩm giá, không phải người tà dâm, lấy việc tiếp khách làm chuyện vui thú.
Có lẽ nói những nỗi lòng tan nát hợp hơn là những nỗi lòng tê tái chăng? Trong nỗi lòng Kiều, nổi lên tình cảm đau đớn vì xa quê hương và cảm giác thời gian kéo dài nặng nề vô nghĩa.
Khi thuật lại nỗi thương mình của Kiều, nhà thơ dùng lời kể với điểm nhìn bên trong của nhân vật. Bốn câu đầu chỉ là miêu tả cảm giác của Kiểu về các sự việc diễn ra với nàng. Những câu còn lại đều có chủ ngữ là “mình', mình tự nhìn mình, mình nghĩ về mình. Thử hỏi lúc này ai có thế suy nghĩ thay cho nàng được? Với điểm nhìn ấy, khi đọc đoạn thơ, ta như trực tiếp đọc được những ý nghĩ thầm kín hết sức đau đớn của bản thân Kiều, chứ không phải nghe lời do ai đó thuật lại. Lẽ dĩ nhiên đó vẫn là lời thuật của Nguyễn Du, những điểm nhìn trần thuật bên trong là của Kiều đã tạo ra hiệu quả đó.
Nguyễn Du là nhà thơ rất tinh tế. Để miêu tả những cảnh tầm thường, dung tục nơi lầu xanh, tác giả chỉ gợi qua các biểu tượng với những cụm từ được cấu tạo đặc biệt.
- giật mình mình lại thương mình xót xa
- dập dìu lá gió cành chim
- thân sao bướm chán, ong chường bấy thân
- mưa Sở, mây Tần
- gió tựa, hoa kề
Nếu nói ong bướm lả lơi thì có thể chỉ việc xảy ra một lần. Đảo lại thành ra nhiều lần. Bướm chán, ong chường cũng thế. Lá gió cành chim, gió tựa hoa kể đều chỉ các sự trăng gió, nhưng cách nói mới lạ và đa dạng, lại tao nhã.
Nguyễn Du không chỉ kể, tả mà còn gợi, tạo cảm giác cho người đọc. Đây là đoạn văn tài hoa, tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả tâm lí của Truyện Kiều
Cảm nhận Nỗi thương mình - Mẫu 4
Nghệ Tĩnh, vùng đất linh thiêng, nơi ẩn chứa những nhà thơ, những anh hùng, là nơi sinh ra những con người kiên cường, tâm hồn mạnh mẽ. Nguyễn Được, nhà thơ lớn của dân tộc, cũng là một con người của vùng đất này. Mặc dù ông không để lại nhiều tác phẩm văn chương, nhưng những gì ông đã góp phần vào di sản văn học dân tộc là vô cùng to lớn, vĩ đại.
Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học Việt Nam, sáng tạo từ cốt truyện Thanh Tâm tài nhân của Nguyễn Du. Tác phẩm không chỉ kể về số phận bi thương của con người mà còn nói về cuộc chiến đấu giữa tình và tài. Điều này đã mang lại cho Truyện Kiều một linh hồn mới, một sức sống mới, phản ánh chính xác tâm hồn người Việt. Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm văn học quan trọng của Việt Nam mà còn là một nguồn cảm hứng không thể thiếu trong văn hóa dân gian. Nhân vật chính của tác phẩm, Thúy Kiều, là một người phụ nữ thông minh, kiên cường nhưng cũng không tránh khỏi bi kịch của số phận.
Đoạn trích về Thúy Kiều tự than về số phận bị lừa dối, bị Tú bà đánh đập tàn nhẫn. Thúy Kiều phải chấp nhận làm nô tài của quán phòng. Đoạn trích này mô tả cảnh Thúy Kiều tình cảm sau khi tỉnh dậy và tự than về số phận mình. Đoạn trích bắt đầu với việc Nguyễn Du miêu tả cuộc sống xa hoa ở lầu xanh:
Lầu xanh rợp bóng cành đào
Cành treo giá ngọc, càng cao phấn người.
Bướm bay - ong múa, lá rơi - cành đung. Nguyễn Du mô tả du khách ở lầu xanh với ngôn từ hấp dẫn, độc đáo. Đây là một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa, náo nhiệt ở lầu xanh, nơi những từ ngữ sinh động, gợi hình đem lại sự sống động, dữ dội cho bức tranh về cuộc sống ăn chơi này. Sự sáng tạo ngôn từ đã làm cho cuộc vui này trở nên sống động hơn bao giờ hết: bay bổng... một cách vô tư và không ngừng, tấp nập với sự kiếm tìm, với sự chạy đua, khiến cho hình ảnh trở nên sống động gấp bội với ngôn ngữ đặc sắc. Điều này được thể hiện qua việc phân chia và kết hợp các từ ngữ. Do đó, trong một câu thơ, một chủ thể, một vật thể có thể được chia thành hai, đôi khi ba phần. Sự chia rẽ này không chỉ tăng về số lượng mà còn về chất lượng. Cuộc sống ở đây tự do, không ràng buộc, trái ngược hoàn toàn với những quy định và quy cách, và tất cả được diễn tả một cách rõ ràng, sinh động.
Trướng đào là dấu hiệu của việc quảng cáo có hàng mới, và khi có hàng mới, có nhiều người tìm đến. Vì có nhiều người, giá mua vui càng cao.
Hai câu tiếp theo trong đoạn trích như sau:
Bao nhiêu bướm bay, ong đậu
…Lá rụng, gió lay cành chim
Sau đó là những cuộc vui, những trận cười, cảnh đưa đón kéo dài suốt năm tháng... Đây là cách Nguyễn Du sử dụng ngôn ngữ độc đáo để miêu tả về cuộc sống ở lầu xanh. Khách đến lầu xanh được ví như những chú ong, bướm luôn bay lả lơi. Trong câu thơ, không chỉ lầu xanh là chủ từ, mà còn ở mọi nơi cũng thấy Thúy Kiều như một ngọc quý giữa giới trần thế:
Khi tỉnh giấc sau cơn say
Nguyễn Du không cho Thúy Kiều xuất hiện trực tiếp, nhưng chỉ cần lách ngòi bút, ông đã vẽ nên hình ảnh của cô. Khi tỉnh giấc sau cơn say, Kiều tỉnh dậy và tự thương cho mình: Giật mình, lại cảm thấy thương mình đầy xót xa. Chỉ từ câu thơ này, Kiều tự nhận ra bản thân mình, từ một cô gái trong lầu xanh trở về với bản chất của mình. Khi tỉnh rượu, tàn canh là lúc con người sống thật với lòng mình nhất, tự nhận thức về những hành động của mình, ý thức về những điều đắng cay của bản thân mình. Và khi nhận thức được những điều đó, đó cũng là lúc nhân phẩm của con người trỗi dậy, là lúc bản chất tốt đẹp của Kiều hiện ra. Chỉ trong một câu thơ đã có đến ba từ 'mình' là lúc Kiều cảm thấy cô đơn. Kiều tự suy nghĩ, tự đánh giá, tự thương cho mình. Từ 'mình' thứ hai mang ý nghĩa quan trọng nhất, là biểu hiện của sự tự thương mình lớn nhất, chỉ có mình Kiều mới thấu hiểu hoàn toàn nỗi lòng của mình trong lúc này. 'Mình' thứ hai là câu nói nửa trực tiếp, nửa gián tiếp, là lời Kiều nói với chính mình, cũng là lời của tác giả, người như thấu hiểu mọi cảm xúc, mọi tâm trạng của Kiều để cùng chia sẻ, cảm thông với số phận bất hạnh của cô. Đây là một câu thơ đa nghĩa, làm xúc động lòng người.
Sau đó, Kiều luôn sống trong tâm trạng buồn thương:
Khi sao phong gấm rụ là
Giờ sao tan tác như bông hoa giữa đường?
Mặt sao dày gió, dày sương
Thân sao bướm chán, ong lười thế thân
Người mưa Sở, mưa Tần
Mình nào biết xuân còn gì?
Trong thời điểm này, Kiều đang trải qua sự phân thân. Hiện tại đau đớn, tan tác, chia lìa, nhục nhã đau đớn, đối lập với quá khứ êm đềm, trong trắng và hạnh phúc. Cuộc sống ngày xưa đẹp đẽ và thơ mộng bây giờ trở thành một cuộc sống nhục nhã và cảm thấy cô đơn. Những suy tư đau đớn của một người bị đẩy vào hoàn cảnh đối lập hoàn toàn với bản chất và cuộc sống trong sạch trước đây của mình. Thúy Kiều trước đây là người phụ nữ nhạy cảm, rung động trước vẻ đẹp của văn hóa, trước cảnh tượng bi thương của con người...
Một lời than thở, sự ngạc nhiên, sự dằn vặt và sự tiếc thương ẩn sau đó là nỗi cô đơn chua xót đến cùng cực, trong khi trước đó là cuộc sống hạnh phúc, an lành, tinh khôi, trong trắng và thơm tho... và bây giờ chỉ còn là một bông hoa tan tác, bị vùi dập giữa đường, bị cắt khỏi cành, cắt rời khỏi gốc. Một cuộc sống thực tế, một cuộc đời đầy cay đắng, với hình ảnh của một người bị đày đọa bởi cuộc sống mua bán:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Ở đây không chỉ đơn thuần là sự so sánh. Hai từ 'khi sao' và 'giờ sao' tạo nên sự tương phản, biến một nhân vật thành hai nhân vật, hai thế giới. Khi sao và giờ sao đại diện cho hai khoảnh khắc khác biệt, khi cộng lại tạo thành nỗi đau đớn, tủi nhục và chua xót.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường thế thân.
Biểu hiện rõ ràng ở đây là nỗi buồn chán, cảm giác tăng lên gấp bội. Khi nói về 'mặt', đang nói về tâm hồn, nhưng giờ đây, tâm hồn trở nên trống rỗng. Thúy Kiều nhớ về quá khứ đầy cay đắng, chỉ khi tâm hồn cô đơn đến cùng, cô mới có thể sống trong chốn lầu xanh, nơi cô phải quên đi những kỷ niệm êm đềm và tươi đẹp, một quá khứ đã được che lấp để có thể tồn tại trong xã hội này.
Qua cách miêu tả đoạn trích này, Nguyễn Du đã thành công trong việc diễn đạt tâm trạng của Kiều. Khả năng đặc biệt của ông trong đoạn trích này là khả năng diễn đạt sự cô đơn của Kiều, cô bị cô lập và không có ai để tâm sự, và khi cô cô đơn, thiên nhiên trở nên hiện diện để thấu hiểu cô. Sự kết hợp giữa con người và thiên nhiên làm nên một bức tranh hoàn hảo, nó làm nổi bật tâm trạng của Kiều. Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng của Kiều một cách sâu sắc và cảm động, cô là một người có tâm hồn nhạy cảm, bi thương, cô hiểu rõ về nhân phẩm của mình và luôn giữ gìn nó dù cuộc đời có dập tắt cô như thế nào. Trong việc xây dựng nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện sự thương cảm sâu sắc đối với nhân vật của mình, đồng thời cũng lên án và phê phán xã hội một cách sâu sắc.